Tặng Một Vầng Trăng

Tâm Minh Ngô Tằng Giao

Full-Moon-Meditation-1Thiền sư cất túp lều tranh
Một mình ẩn dật tu hành rừng sâu
Thị thành xa lánh từ lâu
Tâm hồn thanh thản, đạo mầu kiên trinh.
Một đêm đầy ánh trăng thanh
Thiền sư lên núi dạo quanh ngắm trời
Bóng hằng vằng vặc muôn nơi
Thiên nhiên, vạn vật chơi vơi ảo huyền
Giữa vùng thanh tịnh thần tiên
Sư bừng khai ngộ thấy liền được ra
“Tự tính bát nhã” thăng hoa
Từ lâu tiềm ẩn cao xa trong người
Chính là trí tuệ tuyệt vời
Thấu nhìn đạo lý, việc đời thật chân.
                        *
Thiền sư hoan hỷ vô ngần
Vội vàng rảo bước về am tu hành
Nào ngờ khi tới lều tranh
Nhìn vào thấy trộm viếng mình bên trong
Loay hoay lục lọi lung tung
Có chi quý giá mà mong kiếm tìm,
Tội thay cho kẻ nghèo hèn
Tay không thất thểu muộn phiền bước ra
Vô tình chạm mặt sư già,
Thật ra sư đã về nhà từ lâu
Đứng ngoài nấn ná chẳng vào
Sợ làm cho trộm chợt đâu giật mình.
Trộm vừa ra khỏi lều tranh
Thiền sư cầm sẵn một manh áo choàng
Cà sa cũ kỹ ố vàng
Hiền từ lên tiếng, dịu dàng, thiết tha:
“Con từ xa tới thăm ta
Lều tranh nghèo mạt, thật là tiếc thay!
Trời khuya, gió lạnh heo may
Nào ta còn có gì đây làm quà
Chỉ còn manh áo cà sa
Tặng con kỷ niệm gọi là chút thôi!”
Nói xong sư mỉm nụ cười
Nhẹ choàng tấm áo lên người trộm kia,
Ngỡ ngàng chẳng biết nói chi
Trộm bèn lầm lũi ra đi vội vàng.
Nhìn theo sư khẽ thở than:
“Lòng ta cảm thấy vô vàn héo hon!
Ước gì tặng được cho con
Vầng trăng rực rỡ trên non đêm này!”
Trăng khuya phô sắc đẹp thay
Sáng tươi, tinh khiết, tròn đầy, sạch trong
Nhìn thêm thanh thoát cõi lòng
Núi rừng cảnh vật chập chùng thênh thang
Ánh trăng tỏa thật dịu dàng
Sáng soi đều khắp non ngàn nơi nơi
Tượng trưng tự tính con người,
Tiếc thay trộm lại buông lơi tâm mình
Mắt mờ bởi bóng vô minh
Chạy theo dục vọng thường tình nhân gian
Như trăng trên đỉnh non ngàn
Bỗng nhiên che phủ bởi làn mây đen
Thật là bất hạnh vô biên
Còn đâu sáng suốt mà tìm hướng đi!
Còn đâu ánh sáng lương tri
Phá tan tăm tối u mê thân mình!
                           *
Hôm sau vừa rạng bình minh
Thiền sư thức dậy, quả tình ngạc nhiên
Nhận ra áo cũ để bên
Món quà đêm trước vừa đem tặng người
Nay người hoàn trả lại rồi
Cà sa ngay ngắn xếp nơi cạnh mình,
Thiền sư vui vẻ thật tình
Hoa lòng nở rộ, lặng thinh mỉm cười,
Bước ra ngắm cảnh núi đồi
Thiền sư khe khẽ nói lời thiết tha:
“Kẻ đáng thương, đáng xót xa
Cuối cùng ta tặng được quà cho ngươi
Một vầng trăng sáng tuyệt vời
Sáng nơi trần thế, rạng nơi tâm người!”

TÂM MINH NGÔ TẰNG GIAO
(phỏng theo tập truyện văn xuôi
NHỮNG HẠT ĐẬU BIẾT NHẢY
của Lâm Thanh Huyền, Phạm Huê dịch)

Hồn Việt Nào Cho Em

Trịnh Bình An

co vang

Có những cuốn phim sau khi coi xong khiến tôi thích thú hoặc bực bội, nhưng cũng có cuốn phim khiến tôi băn khoăn, dường như vui, cũng dường như buồn, cuốn phim đó chính là phim “Hồn Việt”.

“Hồn Việt” là một bộ phim trình bày lịch sử Quốc Kỳ và Quốc Ca của Việt Nam Cộng Hòa – nơi tôi đã sinh ra và lớn lên cho tới ngày mất nước. Đấy chỉ là một bộ phim tài liệu với những dữ liệu thực tế. Lá cờ vàng ba sọc đỏ, quốc kỳ của một chính thể đã bị xóa sổ, không ngờ có ngày tung bay phất phới, đứng ngang hàng với những lá cờ quốc gia khác tại nhiều nơi trên thế giới. Đáng lẽ tôi, một người từng sống trên 10 năm dưới lá Cờ Vàng, phải cảm thấy xúc động và tự hào chứ?  Nhưng không hiểu sao tôi chỉ cảm thấy vui buồn lẫn lộn?

Nếu bảo Việt Nam là người mẹ khổ đau qua những năm tháng chiến tranh, thì Việt Nam Cộng Hòa là cha, người cha đã bị bức tử, người cha tôi đã phải xa khi còn tấm nhỏ. Quá nhỏ để hiểu được chiến tranh đang xảy ra khốc liệt chung quanh, quá nhỏ để hiểu đang có rất nhiều người ngày đêm chiến đấu bảo vệ miền Nam, bảo vệ cuộc sống yên ổn cho hàng triệu sinh mạng trong đó có tôi.

Sẽ chẳng ai trách cứ một đứa con gái nhỏ ngượng ngùng với cha nếu nó đã bị lìa xa cha ngay từ lúc nhỏ.  Cũng thế, hẳn không ai trách nếu tôi thú thực rằng giờ đây, sau hơn 20 năm trên xứ người, tôi cảm thấy chẳng có mấy rung động trước lá cờ ấy dù lý trí vẫn biết rằng đó là lá cờ Tổ Quốc của mình.

Cho tới khi xem Phim “Hồn Việt”, tới đoạn trình bày về lược sử hình thành Quốc Kỳ và Quốc Ca Việt Nam, tôi bỗng cảm thấy dâng lên trong lòng một nỗi chua xót xen lẫn giận hờn.

Tôi tiếc ngày ấy đã không được dạy bảo kỹ lưỡng về nguồn gốc Quốc Kỳ và Quốc Ca trong những giờ Công Dân Giáo Dục. Tôi chỉ biết chào cờ và hát quốc ca như một thói quen. Giống như một đứa con, chỉ được nguời ta chỉ vào ảnh cha mà bảo “Cha con đó!” chứ không giải thích thêm cha là ai, cuộc đời cha như thế nào, cha đang chiến đấu nghiệt ngã trong những hoàn cảnh nào…

May mắn thay, trong đại gia đình dân tộc, vẫn còn những người anh, người chị đã từng sống với cha, đã từng biết đến cha. Những anh chị ấy đã giữ cha trong trái tim họ cho đến cuối đời. Tôi muốn nói tới những người Việt lưu lạc khắp nơi trên thế giới, những người đã kiên quyết giữ vững lá cờ Việt Nam tự do, đã đấu tranh không mệt mỏi để cuối cùng lá cờ ấy tung bay cùng với những lá cờ khác tại nơi họ cư ngụ.

Những anh chị ấy đã cống hiến tuổi thanh xuân để xây dựng và bảo vệ miền Nam để những đứa trẻ như tôi được thảnh thơi đến trường.  Trên xứ người, những người anh người chị ấy vẫn miệt mài tìm mọi cách gìn giữ những di sản tốt đẹp của đất nước để một ngày nào đó khi chúng tôi – những đứa trẻ đi lạc, muốn quay về sẽ thấy vẫn còn đó mái nhà xưa.

Ngày hôm nay, mỗi khi có những dịp tụ họp đông người, việc chào cờ hay không chào cờ vẫn là một đề tài nhạy cảm, có khi gây tranh cãi. Bên muốn chào cờ cho rằng không thể hưởng niềm vui họp mặt trên xứ sở tự do mà quên đi công lao to lớn của những người đã nằm xuống. Còn bên không muốn chào cờ thì bảo việc cử hành quốc kỳ và quốc ca là nghi lễ trang trọng, nếu làm trong một tiệc dịp tiệc tùng vui chơi sẽ mất đi ý nghĩa và giảm lòng tôn kính.

Cả hai phía đều có lý của họ. Riêng tôi, tôi cho rằng những người thực tâm giữ gìn sự tồn tại của Quốc Kỳ và Quốc Ca Việt Nam không quanh quẩn trong lý lẽ mà họ chỉ muốn hành động từ tiếng gọi của trái tim.

Nếu không là tiếng gọi từ trái tim, Đại Tá Phạm Bá Hoa đã không kiên trì sưu tầm mọi tin tức và hình ảnh về các cuộc tranh đấu của người Việt khắp nơi để cho Quốc Kỳ Việt Nam được công nhận tại các thành phố trên khắp thế giới. Mỗi một chiến thắng là một tin vui làm nức lòng người Việt hải ngoại, và là kiểu mẫu cho những nơi khác noi theo, để rồi chiến thắng nối tiếp chiến thắng. Kết quả là cho tới nay, trên đất nước Hoa Kỳ đã có 16 tiểu bang, 8 quận hạt, 103 thành phố công nhận lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ là đại diện của Việt Nam đã công nhận lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ là đại diện của Việt Nam.

Nếu không là tiếng gọi từ trái tim, ông Chu Lynh đã không quyết tâm bắt tay vào việc thực hiện cuốn phim “Hồn Việt” dù biết sẽ rất khó khăn, lấy ý nghĩ từ chuyến đi thăm nghĩa trang Biên Hoà năm 2003. Nhìn tấm bia mộ của một người lính, lá cờ nhỏ bé khắc trên ấy bị đục nát chỉ còn dấu vết lờ mờ, ông đau thắt lòng.  Người lính, người đồng đội của ông, cả một đời hy sinh chẳng được gì, đến khi chết chỉ có mỗi lá cờ, vậy mà người ta vẫn nhẫn tâm tước đoạt.

Và nếu không từ tiếng gọi từ trái tim, nhạc sĩ Lê Văn Khoa, người đã đưa âm nhạc Việt Nam đến với thế giới, đã không thể soạn hòa âm phối khí cho bản quốc thiều Việt Nam trở nên sống động tha thiết đến thế. Và những nhạc sỹ Ukraina – những người vừa thoát khỏi địa ngục cộng sản, đã cảm thông, đã bắt nhịp cùng tiếng gọi trái tim ấy để tấu lên một bản quốc thiều hùng tráng gây rúng động lòng người.

Nhạc Sĩ Lê Văn Khoa và Giàn Nhạc Ukaina

Nhạc Sĩ Lê Văn Khoa và Dàn Nhạc Ukraina – Ảnh VFC

Tôi muốn ngừng lại một chút để kể một câu chuyện lý thú về lá cờ hiện nay của nước Nga mà lịch sử của nó có đôi điều tương tợ với lá Cờ Vàng VNCH.

Bắt đầu từ năm 1896, Quốc Kỳ Nga có ba màu: trắng, xanh dương và đỏ. Sau Cách Mạng Tháng Mười 1917, lá cờ ấy bị bỏ đi, thay bằng cờ đỏ búa liềm. Đến năm 1991, khi chế độ cộng sản tan rã, Liên Bang Xô Viết (Soviet Union) trở thành Liên Bang Nga (Russian Federation), cờ đỏ búa liềm bị dẹp bỏ, người Nga quay về với lá cờ ba màu -Триколор (Tricolor) lúc trước.

Có nhiều giải thích cho nguồn gốc ba màu trên quốc kỳ Nga. Một giả thuyết cho rằng đó là huy hiệu trên khiên của vương quốc Grand Ducchy of Moscow. Huy hiệu này có hình thánh Saint George mang giáp bạc, cỡi ngựa trắng, choàng khăn và cầm khiên màu xanh trên nền đỏ. Một gỉa thuyết khác lại cho rằng đấy chính là ba màu trên khăn áo Đức Mẹ Maria.

Như thế, nước Nga – cái nôi sản sinh ra chủ nghĩa cộng sản, cuối cùng đã quay về với lá cờ truyền thống. Một lá cờ với ba màu hòa dịu, ẩn chứa những niềm tin thiêng liêng, có thể đó là lòng dũng cảm quên mình của thánh St. George, cũng có thể là lòng từ ái bao la của Đức Mẹ.

So sánh với lá cờ nước Nga, lá cờ Việt Nam nền vàng ba sọc đỏ cũng có màu sắc hòa dịu với những ý nghĩa nhân ái:  Màu vàng tượng trưng cho dân tộc Việt. Ba sọc đỏ là ba miền Nam Trung Bắc. Tuy người dân thuộc ba miền (ba sọc đỏ) nhưng vẫn sống chung một nhà (nền vàng). Dưới mái Nhà Việt Nam, con dân muôn đời thương yêu đùm bọc lẫn nhau. Màu đỏ trên nền vàng còn là màu của nhiều lá quốc kỳ Việt Nam qua nhiều triều đại khác nhau.

Khi kể câu chuyện nước Nga tìm về lá cờ dân tộc phải chăng tôi muốn nói đến việc phục hoạt lá cờ vàng truyền thống của nước Việt Nam?

Hoàn toàn không. Lá Cờ Vàng đã được chính quyền của môt số thành phố và tiểu bang Hoa Kỳ công nhận là “Lá Cờ Tự Do và Di Sản” (Heritage and Freedom Flag). Người Việt tị nạn sau khi nhập tịch là nguyện đứng dưới lá cờ của đất nước thứ hai. Việt Nam tuy vẫn là tổ quốc thân yêu nhưng không còn thuộc quyền quyết định của những người chúng tôi. Việc chọn lá cờ nào, bài hát nào cho Việt Nam tương lai sẽ hoàn toàn tùy thuộc vào một chính phủ và một quốc hội không còn cộng sản.

Những người ấy sẽ hiểu biết thấu đáo về lịch sử của những lá cờ để nhìn cho ra lá cờ nào mang “Hồn Việt”, còn lá cờ nào chỉ mang giả trá và thương đau.

Nếu đã nói tới quốc kỳ thì không thể không nhắc tới quốc ca. Nghe ban nhạc Ukraina hòa tấu Quốc Thiều Việt Nam, tôi mới thấy Quốc Ca Việt Nam có giai điệu thật phong phú, khi hùng tráng, khi du dương như một nhắn nhủ thiết tha.

Là một học sinh qua hai chế độ, tôi vẫn không thể quên bài hát Tiến Quân Ca của cộng sản.  Nhạc điệu quân hành nhưng khá nhạt nhẽo, chưa kể trong đó có những lời lẽ khát máu đến ghê người. Một ca khúc tầm thường, thậm chí vô nhân có thể nào xứng đáng làm biểu tượng cho một dân tộc lãng mạn và hiếu hòa như người Việt chăng? Nhưng công bằng mà nói, bài hát Tiến Quân Ca có lịch sử riêng của nó và xứng đáng được ghi nhận như ca khúc của một thời. Những người dân Việt trong tương lai sẽ tìm ra quyết định cho quốc ca cũng như quốc kỳ vậy.

Phim “Hồn Việt” ra đời, hai năm tôi sau mới biết, cũng như tôi đã không biết rõ về Quốc Kỳ và Quốc Ca Việt Nam sau hơn hàng chục năm.  Thật khá trễ tràng. Cảm giác buồn vui lẫn lộn, vui vì biết được thêm quá khứ anh dũng của cha anh, buồn vì suốt bao lâu nay lơ đãng trước những hy sinh cao cả ấy.

Mong sao bộ phim tài liệu “Hồn Việt” sẽ giúp cho những thế hệ sau hiểu rõ về quốc kỳ và quốc ca, từ đó thấy rõ tính cách Việt, mơ ước Việt, tâm hồn Việt thể hiện thế nào qua quốc kỳ và quốc ca, để rồi có quyết định sáng suốt về con đường đi tới của dân tộc.

Tổng Thống Woodrow Wilson từng nói:

The things that the flag stands for were created by the experiences of a great people. Everything that it stands for was written by their lives. The flag is the embodiment, not of sentiment, but of history.

(Những gì một lá cờ biểu tượng, đó là những kinh nghiệm đã được tạo dựng bởi một dân tộc tuyệt vời. Tất cả những gì lá cờ biểu tượng đã được viết nên từ chính mạng sống của họ. Lá cờ là hiện thân, không phải của cảm xúc, mà là của chính lịch sử).

Qua phim “Hồn Việt” tôi thấy lời của Tổng Thống Wilson thật đúng, Quốc Kỳ và Quốc Ca Việt Nam thực sự đã được viết nên từ mạng sống của biết bao người con dân Việt Nam kiên quyết chiến đấu vì Đất Nước, vì Hòa Bình, vì Tự Do. Tôi dù biết điều ấy trễ nhưng vẫn còn chưa quá muộn. Khi hiểu ra được như thế tôi chợt thấy mình tháo gỡ được mối băn khoăn.

Người cha bị bức tử của tôi chưa bao giờ chết. Người vẫn còn đó cùng Lá Cờ Vàng lồng lộng bay trong gió như chuyển trao mọi nỗi bi thương nhưng đồng thời cũng là niềm hân hoan về một Đất Việt, một Dân Việt, và một Hồn Việt muôn đời.

Trịnh Bình An 

Sơ lược về phim “Hồn Việt”

“Hồn Việt” là một phim tài liệu dài 57 phút về quốc kỳ và quốc ca Việt Nam do Vietnam Film Club thực hiện vào năm 2012. Phim gồm có 9 đề mục:

– Lược sử hình thành Quốc Kỳ Việt Nam (cờ vàng ba sọc đỏ)

– Lược sử hình thành Quốc Ca Việt Nam

– Quốc Kỳ theo mệnh nước (đi theo người tỵ nạn sau biến cố 1975)

– Quốc Kỳ Việt Nam tại hải ngoại

– Quốc Kỳ Việt Nam trên thế giới

– Những câu chuyện về Quốc Kỳ Việt Nam

– Quốc Kỳ trong tim người Việt

– Quốc Kỳ và người ngoại quốc

– Trình tấu Quốc Thiều Việt Nam tại Kiev, thủ đô của Ukraina.

Sơ lược về “Viet Nam Film Club”

Vietnam Film Club được thành lập tháng 9 năm 2010 sau một thời gian dài vận động. Nhằm đáp ứng nhu cầu đi tìm sự thật của người Việt, đặc biệt người dân trong nước về lịch sử Việt Nam giai đoạn cận đại, Vietnam Film Club thực hiện các phim tài liệu lịch sử liên quan đến Chiến Tranh Việt Nam, Đảng CS Việt Nam, và những hệ lụy của cuộc chiến.

VFC website vnfilmclub.com

VFC -“Hồn Việt – Quốc Kỳ Quốc Ca Việt Nam”

VFC – “The Soul of Vietnam – The Vietnamese National Flag and Anthem”

 *   Cuốn phim tài liệu có sự đóng góp cuối cùng của Giáo sư Nguyễn Ngọc Bích đang đi vào giai đoạn cuối: phim Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa, dự trù sẽ phát hành bằng DVD vào tháng 7 năm 2016. Xin mời xem Trailer dưới đây  (8 phút):

*   Nhân tưởng niệm 49 ngày mất của Giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, Vietnam Film Club đã thực hiện Video Nguyễn Ngọc Bích: Tấm Lòng Cho Quê Hương, được phổ biến theo Link dưới đây:

Hạnh Phúc Bất Chợt

Cao Nguyên

ride the thunder

Cảnh trong phim “Ride the Thunder” Ảnh: http://www.ridethethundermovie.com/photos/

Có những mắc xích lịch sử đau thương đan xen nhau trong cùng một thời điểm làm tâm trí mình giao động chông chênh qua từng cảm xúc và sự kiện. Hôm qua đi xem phim “Ride the Thunder” và hôm nay đi diễn hành nhân ngày chiến sĩ trận vong của Hoa Kỳ (Memorial Day). Những hình ảnh về chiến tranh và hòa bình tạo nên những xung đột qua cảm xúc từ an tới nguy, từ nhân bản đến tội ác. Nhân Bản là nguyên ủy của sự sống, Tội Ác phát sinh từ sự sống, một luân chuyển nhịp nhàng nhưng đối nghịch. Mức độ tội ác trong chiến tranh cũng nẩy sinh khác biệt giữa một xã hội quyền sống của con người được minh định và bảo vệ bởi luật pháp như Hoa Kỳ, khác với tội ác trong chiến tranh được khởi xướng bởi chủ nghĩa tàn bạo được xác mình trong chủ thuyết của đảng cộng sản “thà giết lầm hơn bỏ sót” bất cứ ai có thể gây hại đến hệ thống đảng trị và nhân sự điều hành guồng máy chiến tranh.

Trong cuộc chiến 20 năm tại Việt Nam vừa qua (1954 – 1975) cộng sản đã giết hằng triệu người dân vô tội dưới đủ mọi hình thức. Số lượng người dân bị giết chết qua thống kê không còn lạ với tầm nhìn và ý nghĩ của nhân loại trên khắp địa cầu.

Riêng với phim “Ride the Thunder” ngoài tính chất ác liệt của cuộc chiến, người xem càng thấy rõ hơn sự bạo tàn của chủ nghĩa cộng sản đối với những người của “bên thua cuộc” (theo cách nói của cộng sản). Chúng bất chấp qui ước về tù binh chiến tranh của Liên Hiệp Quốc, tàn bạo vượt quá sức tưởng tượng ngay khi người xem liên tưởng và so sánh với tội ác chiến tranh của Đức quốc xã.

Phim diễn đạt từ truyện, truyện diễn tả thực trạng của các nhân vật trong mỗi sự kiện với sự dẫn trình của các nhân chứng còn hiện hữu. Ai đã từng bị giam trong các nhà tù cộng sản hẳn đã phải chịu sự khổ nhục. lắm lúc muốn tự hủy mình vì danh dự của một người chiến binh và nhân cách của một con người, nhưng đồng thời luôn nhắc nhủ mình cần phải sống. Sống để chống lại sự tàn ác, sống để còn cơ hội gặp lại những thân thương của gia đình và bằng hữu đã bị bức bách chia xa.

Tình cảm gia đình đã dìu người tù binh gượng dậy với ý chí kiên trì sống vượt qua sự khổ nhục để khỏi phụ lòng mong đợi của người thân. Đúng là người tù binh phải “cỡi ngọn sấm” (tựa của bản dịch Việt ngữ) để sống còn.

Tù "cải tạo" trong phim 'Ride the Thunder - ảnh: http://www.ridethethundermovie.com/photos/

Tù “cải tạo” (cảnh trong phim “Ride the Thunder”)  –  Ảnh: http://www.ridethethundermovie.com/photos/

Bối cảnh chiến tranh Việt Nam trong thập niên 1970 qua sách và qua phim “Ride the Thunder” với tôi là rất thực. Bởi tôi vừa là nạn nhân, vừa là chứng nhân của giai đoạn lịch sử đau thương đó. Thực trạng của mỗi sự kiện tôi đều đã trải qua, nên sự xúc động càng dấy lên mạnh hơn với cảnh người tù binh quay lưng bước trở vào phòng giam theo lệnh, cũng là lúc hai dòng nước mắt của người vợ vỡ òa qua rèm mi vừa chớp. Nước mắt được nén lại trong đôi mắt khổ đau đến cùng tận khi nhìn thấy thân thể chồng mình quá đỗi suy nhược. Sự xúc động lắng trong tôi làm loạn nhịp thở, tay tôi bấu vào mép ghế ngồi chạm phải tay người Mỹ ngồi bên cạnh. Chúng tôi nhìn nhau như có cùng một luồng cảm xúc. Qua va chạm bất thường và qua chuyện trao đổi, tôi biết người Mỹ là hậu duệ của một cựu chiến binh Mỹ đã từng tham chiến bên cạnh quân lực Việt Nam Cộng Hòa.

caonguyenThêm một kỷ niệm đáng nhớ trong buổi xem phim là sau khi rồi phòng chiếu ra về. Đến cầu thang tôi gặp thêm một hậu duệ chiến binh Mỹ khác đang đứng nói chuyện với 2 cháu nhỏ mặc quân phục thủy quân lục chiến Mỹ. Tôi dừng lại gợi chuyện và muốn được chụp một tấm hình kỷ niệm với hai cháu bé đẹp và dễ thương. Lời yêu cầu của tôi được chấp thuận và chính người mẹ của hai cháu chụp cho chúng tôi tấm hình kỷ niệm. Tôi bắt tay tạm biệt hai cháu với lời cảm ơn, tiếng cười phả lấp nỗi buồn còn tồn động trong tôi từ cảm xúc của phim.

Không hiểu tôi có gì hấp dẫn khi nói chuyện với các cháu trẻ, mà cháu nào cũng vui vẻ và thân thiện với tôi. Như hôm nay đi diễn hành, tôi cũng được làm quen thêm vài cháu nữa. Và lại có thêm vài tấm hình kỷ niệm với hậu duệ của hậu duệ chiến binh Mỹ. Cuộc sống được những niềm vui bất chợt cũng tạo nên hạnh phúc.

Cảm ơn đời, cảm ơn tình thân mến người với người trao nhau.

Cao Nguyên
Washington D.C. – 30/5/2016

 

Người Con Gái Ngoan Cường

Cao Nguyên
(tâm thư gởi Nancy Nguyễn)

nancy nguyen

Nancy Nguyễn –  Ảnh:https://www.facebook.com/banh.ngot.319

Có đi mới biết
Có tiếc mới thương
Có kinh địa ngục
Có phục thiên đường!

Sau khi nghe em kể chuyện trên băng truyền thông RFA về chuyến đi Việt Nam. Anh muốn viết đôi dòng gởi đến em với niềm vui lòng cầu mong được hồi báo: Em đã trở về bình an sau gần một tuần mất tích.
Em nói đi để biết thế nào là trại giam và cách hành xử của những người đại diện cho chế độ cộng sản ở Việt Nam hiện nay. Anh nghĩ em đã chọn một hành động táo bạo và rất nguy hiểm. Càng nguy hiểm hơn khi là trước khi đi, em báo cho người thân biết về mục đích của mình và công khai phổ biến hình của em tại Dòng Chúa Cứu Thế khi vừa đến Sài Gòn.

Đây không phải là cảm nghĩ riêng anh mà của những người thân và đồng bạn rất lo cho sự an toàn của em. Bởi tính chất chuyến đi em đã nói rõ trong thư em gởi cho gia đình. Nên chuyến đi trở thành sự thách thức từ một người trẻ yêu đồng bào và quê hương với chính quyền cộng sản.

Tuy nhiên, qua giải bày của em trên đường trở về Mỹ đã cho người nghe thấm hơn về chủ trương của một chính quyền chỉ thấy cái bóng của tự do dân chủ là hoảng sợ. Sự hoảng sợ đến mất lý trí, nên ra lệnh bắt khẩn cấp người mà chúng cho là có thể tạo ra nguy cơ làm bùng phát phong trào đấu tranh đòi dân chủ, tạo ra tiền đề làm sụp đổ chế độ và dìm chết luôn hàng ngũ cầm quyền vốn chỉ coi nhân dân là phương tiện phục vụ lợi ích của đảng và tập đoàn lãnh đạo.

Nghĩ mà thương một người con gái dám từ bỏ cả tuổi thanh xuân và hạnh phúc gia đình, vượt nửa vòng trái đất để học hỏi kinh nghiệm sống và chiến đấu chống những cái ác bẩm sinh đang phá hủy và tiêu diệt sức sống của một dân tộc.
Em không học để biết cho riêng em mà giúp những người cùng đồng hành với em trên hành trình tranh đấu biết được phương cách ứng xử khi giáp mặt với lực lượng thi hành pháp luật không có luật.

Những người thân và bạn đồng hành qua một tuần lễ mong ngóng tin em, càng sốt ruột càng thương em. Nên không thể trách có người nghĩ đến những điều không may em phải gánh chịu mà tiếc cho một một người thân, một chiến hữu ra đi không thể trở về. Tâm trạng này giống như khi anh ngồi ở hậu cứ thấp thỏm lo về sinh mạng của các chiến hữu đang thâm nhập vào vùng đất địch để gom tin phục vụ cho kế hoạch hành quân. Đã biết đi vào chiến trường là chấp nhận sự hy sinh khi mình đã xác định được trách nhiệm của một người chiến sĩ bảo quốc, an dân. Nhưng mà lo vẫn lo. Mạng sống mỗi con người luôn quí trọng, sinh lực của một lực lượng cần được bảo toàn.

Em đã trở về từ quê hương mang nỗi đau là đất của ngục tù. Không như quê hương xưa, toàn Miền Nam trong cuộc sống của đồng bào không nghe ai nói đến những chữ: tù, đày, giam, nhốt, chém và giết. Bởi vì trại giam và nhà tù không có trong ngôn ngữ của người dân lành yêu cuộc sống và chân lý trong một thể chế tự do, dân chủ. Hoàn toàn khác với một thể chế độc đảng toàn trị luôn xây dựng trại giam và nhà tù vừa để răn đe, vừa để khống chế người dân yêu nước thương nòi muốn vùng lên phản kháng sự áp bức và bất công. Mọi phản kháng của người dân đều được ghép vào tội “chống phá nhà nước”. Riêng bốn chữ “chống phá nhà nước” cần phải làm rõ hơn trong cái luật rừng u tối của cộng sản Việt Nam.
Thông thường và trên căn bản dân sinh dân chủ, nhà nước thỏa mãn quyền lợi của nhân dân thì còn ai có ý nghĩ chống và phá với nhà nước. Song phương phục vụ lẫn nhàu đều tốt thì không cần có sự răn đe trên bình diện tinh thần và thể chất .

Tuy em rất sáng suốt, kiên cường và không kinh hãi khi bước vào và bước ra khỏi địa ngục. Nhưng những ấn tượng về răn đe, khống chế đã tạo một áp lực không nhỏ trong tinh thần của em. Những ám ảnh của bạo lực trong bóng tối cần có thời gian để xóa nhòa nhờ ý thức kiên định lập trường tranh đấu chống mọi sự bất công trong xã hội, tranh đấu cho sự sinh tồn bản thân và đồng chủng.

Viết về địa ngục không thể không nghĩ đến thiên đường nơi chúng ta đang sống. Trên mỗi vùng đất tự do, mỗi con người được thụ hưởng một suộc sống do mình chọn lựa trong tất cả các sinh hoạt thường ngày. Không bị hoảng sợ bởi một thế lực nào, vì đời sống của mỗi người luôn được luật pháp bảo vệ. Đó là thiên đường có thật, đơn giản nhưng đầy đủ trong tình người với người thương yêu nhau dù khác màu da và ngôn ngữ.
Tự mình ngưỡng phục thiên đường mình đang sống đã nẩy ra ý niệm được chia sẻ phần nào những tích lũy sinh tồn và vươn lên của chính mình với người khác đang còn chịu đựng sự khổ cực và áp bức. Đó là sự thiết tha trong khao khát của một cuộc đời luôn quí trọng ánh sáng của ba chiều Chân Thiện Mỹ hội tụ.

Từ lúc nhận được tin báo an của em trên đường bay từ địa ngục về thiên đường, anh chấp tay tạ ơn Đấng đã cưu mang em giữa cuộc đời luôn tìm ẩn sự bất trắc, cho dù em muốn thử sức mình trong sự bất trắc đó để kiểm nghiệm và định vị khả năng trưởng thành của mình. Sự vui mừng của mọi người hòa vào niềm vui của em từ khẳng định bản thân được trui rèn thêm qua thử thách.

Chỉ vậy thôi em cũng đủ tư cách đứng lên trên những nghi hoặc và nghị luận. Đôi chân tuổi trẻ trên hành trinh nhân ái được hướng dẫn từ Tâm, thì còn điều gì làm em chùng bước.

Những người trong thế hệ của anh không thiếu những băn khoăn khi ngoái nhìn quá khứ, vẫn còn muốn điều chỉnh những sai lầm để gom sinh lực của lý tưởng quốc gia dân tộc tiếp truyền vào thế hệ của em. Với niềm mong ước duy nhất quê hương mình rồi sẽ đẹp. Ánh sáng thiên đường sẽ tràn qua mọi ngõ ngách của địa ngục, hủy diệt mọi sự tàn ác. Nhân dân được sống bình đẳng trong một thể chế tự do dân chủ.

Xin được gởi niềm mong ước này vào những người bạn trẻ như em đang quyết tâm thực hiện một cuộc cách mạng nhân bản trên quê hương mình. Hy vọng và niềm tin đang bừng lên theo lời hát của nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang trong bài “Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ”:
“Ta khuyên cháu con ta còn tiếp tục làm người
Làm người huy hoàng phải chọn làm người dân Nam”

Anh gởi lời chào quí mến và trân trọng đến em – người con gái ngoan cường của Mẹ Việt Nam. Mong em luôn an vui và thành công trong chí hướng phục vụ Dân Sinh và Dân Chủ.

Cao Nguyên 
Đông Bắc Mỹ 27/5/2016 .

 ——————————
Trang facebook của Nancy Nguyễn:

Coi kià, Tổng Thống Obama

Trần Quốc Bảo

Tỗng Thống Hoa Kỳ Barack Obama và Anthony Bourdain ăn Bún Chả tại Hà Nội ngày 23/5/2016. Ảnh: ANTHONY BOURDAIN

Tổng Thống Hoa Kỳ Barack Obama và Anthony Bourdain ăn Bún Chả tại Hà Nội ngày 23/5/2016. Ảnh: ANTHONY BOURDAIN

2016, Tháng 5, ngày 23
Coi kià! Tổng Thống Obama
Đến thăm Hà Nội, người ta đón mừng!
Buổi sáng, nghi lễ tưng bừng
Buổi chiều … tà tà thả bộ …
Ông đến vùng phố cổ thăm dân
Cùng với (Ẩm thực Gia) Anthony Bourdain
Hai người vào quán nhỏ
Ngồi thoải mái trên ghế nhựa xanh
Ăn bún chả, uống bia-chai Hà-Thành
Nụ cười đôn hậu.
Ánh mắt hiền lành
Ông bắt tay từng người Việt Nam trong quán
Thăm hỏi đôi câu thân tình
Chỉ thế thôi!   Rồi trở về dinh Quốc Khách
Hình ảnh thiệt đơn giản.
Câu chuyện rất bình thường,
                   *****
Nào ai ngờ … Từ cái bình thường, đơn giản đó
Bùng lên “Cơn sốt Ái mộ Obama”
Đặc biệt giới trẻ thích ông ta quá đỗi !!!
Khắp 36 phố phường Hà Nội
Lan tràn suốt ba miền Nam Bắc Trung
Lời ca tụng công khai vang dội.
Nghe tên “Ô Ba Ma” dân qúi mến vô cùng!
 obama in
Thật trái ngược với trường hợp cách đây ít lâu
Lòng dân đầy uất hận tởm khinh
Tên Tầu Cộng Tập Cẩm Bình
Khi hắn đến Ba đình viếng lăng Hồ tặc
Dân Việt Nam coi nó là thằng Giặc
Cướp đất, cướp biển đảo, phá hoại môi sinh
Ngặt một nỗi:
Tập thể bọn Lãnh đạo nước mình
Thật hèn hạ, quì mọp dưới chân Tầu Cộng
Thế mà đối với dân thì chúng nó hung hăng bạo động
Vi phạm nhân quyền, đánh đập, tù đày
Chuyện cá chết, dân kêu ca. – Trơ cái mặt dày!
Vẫn tàn nhẫn phóng tay đánh đập.
Đảng và Nhà Nước coi dân như dun dế
Con dun dày xéo đến quằn rồi!
Này,  các Bạn Trẻ Việt Nam ơi!
Ông Obama qúi chúng ta thật, nhưng ông không thể
Đem nhân quyền độc lập tặng cho mình
Muốn Độc lập Nhân quyền ta phải hi sinh
Vùng đứng dậy, tự cứu mình và Cứu Nước.
Này, Bạn Trẻ ơi!
Đến nước này, mà ta còn nhu nhược
Thì … Ôi thôi!
Trang sử Việt nô lệ sẽ bắt đầu!
Vùng dậy đi thôi! Vùng dậy mau mau !!!

Trần Quốc Bảo

Richmond, VA

Biển, Cá Và Người

Trần Văn Lương

ca chet

Đứng sững nhìn rừng cá chết nằm phơi,
Lửa uất hận nung mắt người rát bỏng.
Dãy thuyền gỗ kẹt trên bờ lóng ngóng,
Đoàn ngư dân tuyệt vọng ngước nhìn trời.

Đã mấy chục năm rồi,
Biển đã biến thành nơi chứa xác.
Với chế độ bạo tàn độc ác,
Đến trùng dương cũng tan tác tả tơi.

                          ****

Biển ngày xưa vốn là chốn vui chơi,
Nhưng từ buổi đổi đời đau thương đó,
Khi dân phải trốn chạy làn sóng đỏ,
Đã thành nơi máu lệ đổ tuôn dòng.

Tháng Tư đen, bao bất hạnh chất chồng,
Ách nô lệ đã tròng lên nước Việt.
Giặc Cộng giở trò trả thù khốc liệt,
Bao anh hùng gặp cái chết không may.

Vì tự do nên chấp nhận lưu đày,
Toàn dân Việt đêm ngày lo vượt biển.
Triệu người dấn thân vào nơi nguy biến,
Có mấy phần được đến bến bình an.

Nào biên phòng, nào hải tặc Thái lan,
Cái chết vẫn tham lam đeo từng bước.
Đem tính mạng trả treo cùng sóng nước,
Đáy biển đen chôn ước nguyện không thành.

                               ****

Biển ngày nay vẫn đậm máu dân lành,
Dù súng đạn chiến tranh không còn nữa.
Đất nước khổ hơn cả thời khói lửa,
Dân mỏi mòn đợi mãi chữ tự do.

Sống phập phồng trong hốt hoảng âu lo,
Vì lũ Vẹm luôn bày trò đốn mạt.
Với Tàu Cộng, chúng khom lưng hèn nhát,
Nhưng hung hăng tàn ác với dân mình.

Những ngư dân, vì sinh kế gia đình,
Phải hứng chịu khổ hình trên sóng cả.
Thuyền bè Chệt, chúng gọi là “tàu lạ”,
Giết dân lành, giành cá, lấn biển khơi.

Chúng thông đồng rải chất độc khắp nơi,
Sau chim cá, đến con người bị diệt.
Của độc hại, ai ai mà chẳng biết,
Nhưng đói đành liều chết nuốt qua cơn.

                              ****

Biển ngày mai rồi sẽ thảm thê hơn,
Khi dân Việt chịu thêm hờn mất nước,
Khi mảnh đất của tổ tiên ngày trước
Lọt vào tay bầy xâm lược Bắc phương.

Dân giờ đây đã đến lúc cùng đường,
Mất căn cước, quê hương cùng ngôn ngữ,
Mất luôn cả mấy ngàn năm lịch sử,
Trên đất nhà, làm lữ khách lưu vong.

Trong đau buồn, ngày ngày hướng biển Đông,
Thân nhiễm độc, ngóng trông giờ giải thoát,
Ôm bệnh hoạn, tật nguyền cùng đói khát,
Bất lực nhìn Tàu phá nát non sông.

Tự do không và tổ quốc cũng không,
Kẻ mất nước chợt đau lòng nhận thấy,
Đường giải thoát, sống chết gì cũng vậy,
Cuối cùng rồi chỉ còn đáy biển sâu.

Sau này ai có hỏi: – Nước anh đâu?
Kẻ sống sót đành cúi đầu lặng lẽ,
Thương khóc chốn xưa kia là quê mẹ,
Nay xót xa thành tỉnh lẻ của Tàu.

Nếu hỏi dồn : – Thế dân Việt anh đâu?
Sẽ được chỉ về biển sâu trước mặt,
Kèm theo tiếng trả lời trong nước mắt:
– Đấy là nơi người sẽ gặp dân tôi.

                         ****

Đêm đen dài, bối rối giọt sương rơi,
Trên bãi cạn, bóng ma Hời thấp thoáng.

Trần Văn Lương
Cali, 5/2016

Chánh Ngữ trong Phật Giáo

Tâm Minh Ngô Tằng Giao

lotus-1205631_1920

Ý kiến hay sự kiện

Trước khi đề cập tới “chánh ngữ” cần phân biệt sự khác biệt giữa lời phát biểu thuộc dạng bày tỏ “ý kiến” hay phát biểu về “sự kiện”.

 Ý kiến (opinion): Khi đưa ra cái nhận xét, đánh giá về một sự vật, một con người, hay một hành động thì đó được gọi là “ý kiến”. Thí dụ một nhân vật trong cộng đồng, có người ca tụng là giỏi giang và khiêm tốn. Nhưng lại có người chê là tầm thường và hám danh. Lời bày tỏ ý kiến của hai người trên hoàn toàn khác nhau, không dễ chứng minh được là đúng hoặc sai.

 Sự kiện (fact): là khái niệm về một sự thật và có thể chứng mình được là đúng hay sai. Thí dụ một người đi kiếm việc làm tự khai là có bằng kỹ sư và đã làm giám đốc nhiều năm. Sự kiện này có thể kiểm chứng được nhờ vào việc xuất trình bằng cấp và giấy tờ của cơ sở cũ nơi đương sự làm việc.

Phỉ báng và vu khống

 Về mặt pháp luật thời với quyền “Tự do ngôn luận” người ta có quyền phát biểu “ý kiến” dù không đúng hay quá đáng cũng có thể được miễn trách, nếu không nêu lên các sự kiện thất thiệt khác mang tính chất “phỉ báng và vu khống”.

Tùy theo hình luật của từng quốc gia, tội “phỉ báng và vu khống” thường gồm những yếu tố:    1.Phải là hành động phổ biến những tin tức, nói ra những điều giả dối, không đúng sự thật về một người khác; 2.Lời nói giả dối đó làm tổn hại thanh danh, uy tín người khác; 3.Đặc biệt là phải được loan truyền, được phổ biến ra công chúng một cách công khai khiến người thứ ba nghe được.

Tội “phỉ báng và vu khống” có khi chỉ bị kiện ra tòa về mặt “dân sự”, có khi lại bị kiện về “hình sự”. Nếu bị xếp vào loại hình sự thì hậu quả là kẻ phạm tội có thể bị tuyên phán ở tù một thời gian, bị phạt tiền, bị phạt hình phạt thử thách (probation), bị phạt phải làm công tác cộng đồng, làm việc nặng (hard labor) hay phải viết thư xin lỗi v.v…

Thông thường người lập lại và loan truyền tin đồn thất thiệt có tính phỉ báng và vu khống cũng phải chịu trách nhiệm về tội này y như người đầu tiên tung ra tin đồn này.

Nguyên đơn thắng kiện có thể được bồi thường, gồm có các loại: 1.“Thiệt hại đặc biệt” (tiền luật sư, bác sĩ, thuốc men, tiền lương bị khấu trừ…); 2.“Thiệt hại hiện thực” nhưng có tính cách “tổng quát” (chẳng hạn nỗi đau tinh thần, tổn hại tới uy tín…) Thiệt hại này phải được chứng minh; 3.“Thiệt hại phỏng đoán” (dù rằng nguyên đơn có thể không có chứng cớ gì cụ thể). 4.“Thiệt hại trừng phạt” hay “thiệt hại làm gương”…

Tội phỉ báng, nhục mạ hay vu khống, vu cáo theo pháp luật của Việt Nam kể cả trước hay sau năm 1975 đều là một tội hình sự.

Chánh ngữ trong Phật giáo

Vượt ra ngoài phạm vi pháp lý có lẽ tôn giáo nào cũng dạy con người phải nói lời chân thật, tránh dối trá. Những lời nói dịu dàng làm đẹp lòng người nghe là những điều rất cần thiết để tô hồng cuộc sống trong cái cõi ta bà này vì lời nói có một ảnh hưởng vô cùng quan trọng không những đối với đời sống hạnh phúc của mỗi cá nhân mà còn có thể định đoạt được cả sự an nguy của xã hội, bảo tồn sự đoàn kết giữ cho xã hội được ổn cố.

Trong Phật giáo các từ ngữ như “chánh ngữ” và “ái ngữ” luôn luôn được đề cập tới để khuyên dạy các Phật tử khi sử dụng tự do ngôn luận. Người Tây tạng có câu: “Lời nói không mang gươm giáo, nhưng có thể làm thương tổn trái tim” nên bước quan trọng nhất để phát triển chánh ngữ là suy nghĩ kỹ trước khi nói hay viết.

Chánh ngữ (Samma vaca) là:

1.Không dối trá; 2.Không nói lời mắng nhiếc mạ lỵ khiến người khác đau lòng hay tổn thương; 3.Không thêu dệt thêm bớt để chia rẽ hay đả phá; 4.Không nói lời nhảm nhí vô ích. 

Hãy phân tích thấu đáo hơn về bốn đặc tính của Chánh ngữ:

1.  Không dối trá: là luôn chân chính trung thực, nói sự thật. Đức Phật dạy chúng ta, đừng bao giờ nói dối dầu vì lợi ích của bản thân, hay lợi ích của ai đó, hay vì bất cứ sự lợi ích gì. Chúng sinh nên tránh “vọng ngữ”. Không nên nói không đúng sự thật, chuyện có nói không, chuyện không nói có. Không vu oan giá họa cho ai. Nhất là kẻ học Đạo, nếu nói dối rằng mình đã chứng quả Thánh, hay đắc đạo để cho người kính phục, sùng bái mình, thì sẽ mắc tội đại vọng ngữ, bị đọa vào ba đường ác.

2. Không nói lời mắng nhiếc mạ lỵ khiến người khác đau lòng hay tổn thương: không xúc phạm bằng lời nói hung ác, xiên xỏ, nguyền rủa, nói lời kiêu căng, chỉ trích nặng lời, lời nói cộc cằn, thô lỗ. Lời nói là một công cụ đầy quyền lực có thể được dùng cho việc tốt hay việc xấu. Đức Phật đã so sánh lời nói với một cái búa:

“Mỗi người sinh ra đời

được sinh ra với cái búa trong miệng.

Kẻ ngu dùng những lời thô tục

là tự làm mình và người khác bị thương

bằng cái búa đó.”

Nên nói lời hoà nhã, dịu dàng, hiền hậu, toàn là lời đạo đức, từ bi, lợi lạc cho tất cả chúng sinh, ai nghe cũng hân hoan, kính trọng.

3. Không thêu dệt thêm bớt để chia rẽ hay đả phá: tránh dùng “tà ngữ” với ác tâm. Không nói lời hai lưỡi, đòn xóc hai đầu, làm cho hai người khác ghét nhau, thù nhau. Không được nói lời thêu dệt, thêm bớt, nói châm chọc làm cho người nghe buồn phiền và khởi tà niệm. Không được xui bảo người khác nói các điều như trên. Không đứng trung gian gây ác cảm cho hai đàng thù oán, cho đôi bên sân hận đấu tranh. Khi thấy người khác nói những lời không đẹp ấy thì phải khuyên can:

 “Lưỡi là một vũ khí không có xương

 bị dính giữa hai hàm răng.”

4. Không nói lời nhảm nhí vô ích: Không nói chuyện phù phiếm, vô nghĩa hay u mê vì chúng làm quấy động sự yên tĩnh và định tâm. Nói sau lưng người (gossip) là tà ngữ, không cần biết những gì chúng ta nói về người đó có đúng hay không.

Ngũ Giới

Chánh ngữ được đề cập tới trong “ngũ giới” là năm giới. Ðối với người tại gia, Ðức Phật khuyên giữ năm giới đó là: “1.Không sát sinh; 2.Không nói dối; 3.Không trộm cắp; 4.Không tà dâm; 5.Không uống rượu say sưa.”

Giới là hàng rào ngăn cấm những việc xấu của Thân (việc làm), Khẩu (lời nói), Ý (ý nghĩ). Năm giới là năm thành trì ngăn chặn cho chúng ta đừng đi vào đường ác, là năm hàng rào cản cho chúng ta khỏi rơi vào vực sâu tội lỗi và tương lai sẽ hưởng được quả báo tốt đẹp. Năm giới không những đưa người mạnh tiến trên đường giải thoát khỏi vòng, sinh tử luân hồi, và giải thoát khỏi, phiền não khổ đau mà còn đem lại trật tự, an vui, hòa bình cho gia đình, quốc gia, xã hội nữa.

Trong ngũ giới thời giới thứ hai là không nói dối. Giới này khuyên người Phật Tử tại gia chân chánh, không nên dùng lời nói để lợi mình hại người, khủng bố tinh thần người khác, vì đó là “vọng ngữ”, “tà ngữ” hay “ác ngữ”. Chỉ nên dùng lời nói để lợi mình lợi người, gọi là “chánh ngữ”, dù người đó là người thân hay kẻ thù. Khi dùng lời nói dối để hại người khác, tâm của chính mình, chắc chắn biến động, làm cho công phu, tu tâm dưỡng tánh, từ bao lâu nay, trở nên vô ích mà lại tạo ra “khẩu nghiệp”! Phật tử cần giữ giới này vì đạo Phật là đạo của sự thật nên phải tôn trọng sự thật, vì nuôi dưỡng lòng từ bi, người Phật tử phải tránh sự dối trá lừa gạt.

Trong Kinh Đại Phương Tiện Phật Báo Ân, Phật bảo Tôn Giả A Nan: “Người ta sinh ra ở đời, họa từ trong miệng mà sinh ra, nên phải giữ gìn cửa miệng hơn cả lửa mạnh, vì lửa mạnh có đốt cháy cũng chỉ đốt cháy một đời này mà thôi, còn như nói ác sẽ đốt cháy trong vô số kiếp. Lửa chỉ đốt cháy nhà cửa, của cải của thế gian, còn lời nói ác đốt cháy bảy thứ của cải của Thánh nhân. Vì thế, này A Nan, chúng sanh họa từ trong miệng mà sinh ra, miệng lưỡi thực là búa sắc tự bổ vào mình, là cái họa để tự diệt mình”.

Bát Chánh Đạo

Chánh ngữ cũng được đề cập tới trong “Bát Chánh Đạo”, trong chân lý thứ tư của Tứ Diệu Đế. Tứ Diệu Đế là bốn chân lý cao cả, là gốc cơ bản của Phật Giáo. Trong Tứ Diệu Đế thì chân lý thứ tư là Đạo Đế, chân lý về con đường dẫn đến diệt khổ.

Bát Chánh Đạo gồm tám điều chân chánh, là con đường đúng đắn, đưa chúng sanh đến chỗ giác ngộ và giải thoát khỏi khổ.  Tám điều đó là:

1.Chính kiến (thấy biết chân chính); 2.Chính tư duy (suy nghĩ chơn chính); 3.Chính ngữ (nói năng chân chính); 4.Chính nghiệp (hành động chân chính); 5.Chính mạng (chính mệnh, nghề sống chân chính); 6.Chính tinh tấn (gắng làm chân chính); 7.Chính niệm (nhớ nghĩ đạo chân chính); 8.Chính định (nhập thiền định chân chính, vô lậu và thanh tịnh).

Trong ba phép tu tập: tu Giới (shila), tu Định (samatha) và tu Tuệ (prajna) trong Bát Chánh Đạo thì chánh ngữ thuộc vào lãnh vực tu Giới và được định nghĩa như sau, như đã ghi trong Tương Ưng Bộ Kinh: “Thế nào là chánh ngữ? Đó là từ bỏ nói láo, từ bỏ nói hai lưỡi, từ bỏ nói lời độc ác, từ bỏ nói lời phù phiếm”. Đó là về mặt tiêu cực. Về mặt tích cực, Đức Phật cũng dạy rằng chúng ta phải cố gắng tu tập để có những lời nói chân thật, trung thực, ôn hòa và lợi ích.

Kinh Hoa Nghiêm

Trong kinh Hoa Nghiêm, Đức Phật dạy: “Các đệ tử! Các ngươi nên bỏ lời nói dối, thường nói lời chơn thiệt, lời chắc chắn, dù là trong mộng cũng chẳng nên nói dối.

Và: “Không nên nói lời vô nghĩa. Phải giữ gìn lời nói. Lời nói phải chân thật, đúng lúc, hợp Chánh pháp, ích lợi cho mình và cho người”.

Lời nói phải đúng lúc, tức là phải phù hợp với hoàn cảnh (khế cơ) khi nói. Điều này đòi chúng ta phải biết đối tượng mà mình đang nói là ai? Họ đang ở trong hoàn cảnh và có trình độ nhận thức ở mức độ nào? Nếu không, dù lời nói đúng sự thật cũng trở thành phi pháp. Vì vậy mà đức Phật căn dặn các thầy Tỳ kheo phải biết: “Nói năng như Chánh pháp, im lặng như chánh pháp

Kinh Pháp Cú

Khi Đại đức A Nan bạch hỏi Đức Phật về những việc làm của chư Phật quá khứ trong những ngày giới, Đức Phật giảng rằng tất cả chư Phật đều dạy ba câu sau đây (được ghi lại trong Kinh Pháp Cú, khuyên nên tránh lời nhục mạ, phỉ báng):

(185) “Chớ nên phỉ báng một ai

Đừng gây tổn hại cho người xung quanh

Giữ gìn giới luật nghiêm minh

Uống ăn chừng mực cho thành thói quen

Lánh riêng sống chỗ tịnh yên

Chuyên tu thiền định, hướng miền thanh cao

Lời chư Phật dạy lành sao!”

Đại đức Mục Kiền Liên hỏi thăm nhiều vị Trời nhờ công đức gì mà được tái sinh vào cảnh Trời. Các vị này kể ra các hành động xem như có vẻ không quan trọng là “chân thật, nhẫn nại và bố thí”. Đức Phật giải thích là các hạnh đó tuy nhỏ vẫn có thể dẫn đến các cõi Trời (được ghi lại trong Kinh Pháp Cú, khuyên không nên nói dối):

(224) “Nói lời chân thật luôn luôn,

Dẹp cơn nóng giận dỗi hờn khó coi,

Dù ta có ít của thôi

Cũng chia bố thí cho người đến xin,

Nhờ ba việc tốt lành trên

Đưa ta đến cõi chư thiên, cõi trời.

Trong Kinh Pháp Cú Đức Phật cũng khuyên không nên nói sai, nói ác mà nên nói lành, nói thiện, phải chế phục khẩu nghiệp:

(232) “Giữ gìn kiểm soát Lời người

Đừng vì nóng giận để rồi nói sai

Lời đừng nói ác, hại ai

Nói lành, nói thiện miệt mài tu thân.”

Còn thêm rất nhiều lời dạy của Đức Phật về chánh ngữ…
  1. Trong kinh Lời Nói (Tăng Chi 5.198): Đức Phật giảng 5 yếu tố của một lời nói thiện lành trong đó có ghi cần nói đúng sự thật: “Bậc thiện tri thức nói một lời phải dựa trên sự thật, không ngụy biện, không lừa dối” và phải nói lời đem đến lợi ích “Lời nói phải có mục đích và ý nghĩa của nó, dù là lời chân thật nhưng không có mục đích đem lại lợi ích cho ai, thì đó cũng chỉ là lời nói nhảm, vô dụng.
  2. Trong kinh số 58, (Trung Bộ), có ghi lời Đức Phật trả lời Vương tử Vô Úy, “Lời nói nào Như Lai biết không như thật, không như chân, không tương ứng với mục đích, và lời nói ấy khiến những người khác không ưa, không thích, Như Lai không nói lời nói ấy.”
  3. Trong Kinh A Hàm, Ðức Phật lại dạy: “Tâm khẩu nhứt như”. Nghĩa là: “Tâm khẩu không khác”. Tâm nghĩ sao, miệng nói vậy. Khi miệng thường nói tốt, tâm nên nghĩ tốt. Như vậy, mới được an lạc, mới đúng là người tu đạo. Ngược lại, tâm nghĩ một đàng, miệng nói một nẻo, miệng nói như vậy, tâm không như vậy, dù có hình tướng nào, cũng là người dối trá, giả mạo mà thôi.
  4. Tứ Nhiếp Pháp: Trong 4 phương pháp nhiếp thụ, 4 phương pháp thực hành để dẫn dắt chúng sinh tin theo chính đạo có ghi “Ái ngữ”. Đây là lời khuyên nên theo căn tính chúng sinh, nói ra những lời nói hiền lành, dịu hòa và an ủi họ, do đó họ sinh tâm thân ái, tin theo chính đạo.
  5. Thập Thiện Nghiệp: Nghiệp có thể chia ra ba tánh cách: lành, dữ, hoặc không lành không dữ (vô ký). Những loại nghiệp này do ba chỗ phát khởi là Thân, Khẩu và Ý. Những nghiệp dữ về Khẩu có bốn thứ là:“Nói dối, nói thêu dệt, nói lưỡi hai chiều, nói lời hung ác”.Ngược lại Thập Thiện Nghiệp là Mười Nghiệp Lành: “1.Không nói dối; 2 Không nói thêu dệt; 3.Không nói lưỡi hai chiều; 4.Không nói lời hung ác.” Lành, theo đạo Phật, nghĩa là có lợi ích cho chúng sinh trong hiện tại cũng như trong tương lai. Không nói dối được giải thích là không nói sai sự thật như:
    Không thấy nói thấy, thấy nói không thấy.
    Nghe nói không nghe, không nghe nói nghe.
    Biết nói không biết, không biết nói biết.
    Biết trái nói phải, biết phải nói trái.”
  1. Lục Hòa: Để trong một đoàn thể luôn luôn được sự hòa hợp đức Phật nói ra “Lục Hòa” là sáu pháp hòa kính với mục đích đem lại sự an hòa cho mọi người, để sống theo lời Phật dạy, tinh tấn trên đường xây dựng và giải thoát. Trong sáu pháp đó có “Khẩu hòa vô tránh” tức là miệng hòa, không cãi cọ nhau, luôn luôn nói lời hòa dịu, lợi ích, tụng Kinh, niệm Phật, tán dương công đức Phật.
  2. Mười Bốn Điều Răn Của Phật: nội dung của bản văn này được nhiều người xem như đã được trích ra từ những ý tưởng trongkinh Phật. Trong điều răn thứ 2 ghi là: Ngu dốt lớn nhất của đời người là dối trá.
  3. Nói Rỡn Chơi: Có người cho rằng nói dối để lừa phỉnh chơi, thì không hại gì. Thật ra, sự nói dối ấy vẫn có hại, vì nó làm cho ta quen với thói xấu ấy, và làm cho người xung quanh không tin ở lời nói của ta nữa, dù đôi khi ta nói thật.Trong Kinh Hoa Nghiêm Phật dạy: “Các đệ tử! Các con nên bỏ những lời vô nghĩa, thường tự giữ gìn lời nói; nói phải biết thời, nói phải thuận pháp. Những lời nói ngoài việc lợi ích cho người, dù là nói chơi cũng không nên nói.”Trong Kinh Di Giáo Đức Phật cấm hý luận. Không nên nói rỡn chơi: “Bất hý luận.”Sau vụ khủng bố ngày 11-9-2011 tại Hoa kỳ, luật hàng không đã được bổ sung, ai nói đùa trên máy bay có bom, hoặc khủng bố v.v… chẳng những bị phạt mà còn có thể ở tù vài năm. Theo luật an ninh, khi có người loan tin hoặc báo cáo có bom, nguy hiểm đến tính mạng, máy bay không được cất cánh, nếu đã cất cánh phải đáp ngay lập tức.
  1. Trong Kinh Di Giáo, Ðức Phật còn dạy: “Không nên quan tâm chuyện thế gian. Không nên loan truyền các tin đồn.” Bởi vì, các chuyện thế gian, thường là những chuyện, nhân ngã thị phi, không rõ phải quấy đúng sai, tranh chấp hơn thua, thường không căn cứ, không có xác thực, không đáng tin cậy, khó kiểm chứng được, có thể làm hại thanh danh người khác. Những chuyện này thảy đều làm cho, tâm trí con người, bất an, dao động, chỉ có hại, chẳng ích lợi gì! Chúng ta không cần, phung phí thì giờ, một cách vô ích, để đi đính chính, những lời đồn đãi, sai lạc hoàn toàn, nếu như hoàn cảnh, không bị bắt buộc, phải làm sáng tỏ.
Nhiều hình thức bị coi là nói dối
  1. Nói dối bằng cách im lặng: Cũng có khi chúng ta được hỏi một câu hỏi mà thái độ im lặng cũng hàm ý là một sự trả lời.  Nếu sự im lặng của chúng ta phản ảnh một điều sai sự thật thì đó là nói dối. Thí dụ, người ta điều tra ở một nơi vừa xảy ra án mạng hỏi đám đông đứng quanh là có ai nhìn thấy gì không. Nếu ai chứng kiến vụ án mạng nhưng lại giữ im lặng không nói gì thì sự im lặng đó bị coi là nói dối.
  2. Nói dối bằng ngôn ngữ của thân: Đôi khi một cái nhún vai hay nhíu mày có thể bị hiểu lầm là “Tôi không biết”, nhưng nếu bạn thực sự biết, thì cái nhún vai của bạn là một sự dối trá. Ngôn ngữ cũng có thể biểu lộ bằng thân, thí dụ như khi đưa lên ngón tay cái lên là hoan hô nhưng nếu chỉ đưa ngón tay giữa lên là chửi bởi v.v…
  3. Buộc tội oan và khai man: là hai hình thức khác của lời nói dối mà Đức Phật khuyên các đệ tử nên tránh vì sẽ gây tai họa cho bản thân người nói cũng như những người xung quanh.
  4. Hứa suông: Đức Phật xếp những kẻ khéo miệng hay hứa suông chỉ nhằm đạt được lợi lộc cho bản thân cũng là một hình thức nói dối. Hoặc người có khả năng giúp đỡ bạn, nhưng viện đủ lý do để thoái thác cũng thuộc loại nói dối (Trường Bộ Kinh).
  5. Giả danh: Giả danh đưa ra những thông tin sai lệch về trình độ chuyên môn, khả năng, thành tích, đức hạnh hay thổi phồng về mức độ chứng đạt tâm linh hầu đạt được những lợi lộc mà bản thân họ không xứng đáng được hưởng. Giả danh này cũng là một hình thức nói dối.
  6. Nhân chứng: Khi bạn được hỏi làm nhân chứng để nói những gì bạn biết. Nếu biết, thì nói, “Tôi biết”; nếu không biết, thì nói, “Tôi không biết”; không thấy, thì nói, “Tôi không thấy”; nếu thấy, thì nói, “Tôi thấy”. Không cố ý nói sai sự thật vì ích lợi của mình hay của ai đó, hay cho những lợi ích tầm thường trong thế gian.
Đôi khi cần nói lời không thật

Tuy nhiên cũng có những trường hợp sự thật cần phải được giữ kín vì nếu nói ra có thể làm hại người khác. Như vậy là thực hành hạnh Từ Bi. Nói dối, chỉ trong trường hợp để cứu khổ độ nguy cho người và vật mới không phạm tội. Thí dụ một bác sĩ biết người bệnh sắp chết nhưng không nên nói thật với bệnh nhân điều này.

Hoà thượng Thích Thanh Từ dạy: “Trừ trường hợp vì lợi người lợi vật, không nỡ nói thật để người bị hại hoặc khổ đau, do lòng nhân cứu người cứu vật nói sai sự thật mà không phạm.
Đức Đạt Lai Lạt Ma từng lên tiếng rằng: “…Đức Phật cấm quý Sư không được nói dối. Ví dụ một vị Tỳ kheo phát nguyện luôn luôn nói sự thật, nhưng khi thấy một con nai đang chạy ngang qua khu rừng. Thình lình gặp anh thợ săn đến hỏi quý Sư có trông thấy con nai ở đâu không? Mặc dù luật Đức Phật cấm vị Tăng không được nói vọng ngữ, nhưng vì muốn cứu mạng sống chú nai vàng cho nên lúc bấy giờ Sư đã trả lời: ‘Tôi không thấy con nai nào chạy qua đây cả…’” (Ocean of Wisdom).
Một thí dụ khác là khi Đức Phật nói với bà Gotami rằng đứa con đã chết của bà sẽ được làm sống lại, nhưng để chữa trị cho đứa bé, Đức Phật bảo bà phải tìm đem về một nắm hạt cải từ một gia đình chưa bao giờ có người chết. Đức Phật sử dụng chính điều không thật này như là một hảo ý để trì hoãn việc nói lên sự thật. Phương cách này đã giúp bà Gotami dần dần tỉnh ngộ và chấp nhận cái chết của đứa con.

Thái độ của Phật Tử khi bị phỉ báng và vu khống

1. Nhẫn nhục: Khinh rẻ, phỉ báng, nguyền rủa là thói thường của thế gian. Cả những người đạo cao đức trọng, trong sạch cũng có thể bị chỉ trích, chê bai, vu oan v.v… Chính Đức Phật cũng từng bị phỉ báng và vu khống. Nên nhớ rằng trên đời này không ai tránh khỏi bị khiển trách, bị chê bai, khó tránh khỏi miệng thế gian. Trong tương lai và trong hiện tại cũng chưa hề có người nào bị tất cả mọi người chê bai hay được tất cả mọi người khen ngợi. Đúng như lời Đức Phật dạy trong Kinh Pháp Cú:

 (227) “Người con Phật hãy nghe đây

Chuyện không phải chỉ đời này mà thôi

Từ đời xưa đã nói rồi:

‘Làm thinh thời sẽ có người chê bai,

Nói nhiều cũng bị chê hoài,

Dù cho nói ít cũng người chê thôi’.

Làm người không bị chê cười

Thực là chuyện khó ở nơi cõi trần.”

(228) “Ở đời toàn bị chê bai

Hay toàn nghe tiếng người ngoài khen ta

Từ xưa chẳng thấy xảy ra,

Tìm trong hiện tại thật là khó sao,

Tương lai cũng chẳng có nào.”

Nhưng vì bị chê bai mà nổi sân thời tai hại vô cùng vì lúc nóng giận thì con người không còn đủ bình tĩnh để tự kiểm soát hành vi và ngôn ngữ của mình. Khi sân hận phát khởi, nó có khả năng hủy hoại công đức và tâm an lạc.

Kinh Hoa Nghiêm có nói: “Một niệm lòng sân hận nổi lên, thì trăm ngàn cửa nghiệp chướng đều mở ra.” Và: “Một đốm lửa sân, có thể đốt hết muôn mẫu rừng công đức.”

Đức Phật khuyên: “Hãy từ bỏ nóng giận thì phiền não sẽ không đến với các ngươi.”

Kinh Tăng Chi khi nói đến sức mạnh có 8 loại. Trong đó loại thứ 8 “sức mạnh của sa môn là nhẫn nhục.

Kinh Di Giáo: “Kẻ nào không thể tiếp nhận cái độc nhục mạ một cách hoan hỷ như uống nước cam lộ kẻ ấy không thể được ca tụng là người nhập đạo có trí.”

Vài vị tỳ kheo thường nặng lời lăng mạ một vị khác và vị này trả lời lại. Đức Phật khuyên các thầy không nên gây thù trả oán và Ngài giảng dạy về sự lợi ích của người biết giữ im lặng trước những lời lăng mạ của kẻ khác như ghi trong Kinh Pháp Cú:

(134) “Nếu mà ngươi giữ lặng yên

Như chuông bể nứt im lìm chẳng vang

Trước lời ác độc phũ phàng

Niết Bàn ngươi đã thênh thang bước vào:

Chẳng còn sân hận chút nào.” 

Đức Phật dạy rằng con người cũng có thể tạo cho mình tiềm lực vật chất, nghị lực tinh thần, lòng kiên nhẫn và sức mạnh, chẳng khác một con voi chiến lâm trận, bình thản vững tiến giữa lằn tên mũi đạn, sẵn sàng và thản nhiên hứng chịu những lời phỉ báng và vu khống. Luyện được lòng nhẫn nhục mới là khó như ghi trong Kinh Pháp Cú:

(320) “Như voi ra trước trận tiền

Luôn luôn hứng chịu cung tên bắn mình

Như Lai nhẫn nhục tu hành

Chịu điều phỉ báng cũng đành lòng thôi,

Sống vô tư cách lắm người

Xa điều giới luật, ghét nơi cửa thiền.”

(321) Luyện voi dự hội, tài thay

Luyện voi vua cưỡi cũng hay vô cùng,

Nhưng mà nếu luyện được lòng

Luôn luôn nhẫn nhục, chẳng còn nổi sân

Khi nghe phỉ báng bản thân

Mới là điêu luyện, muôn phần tài hơn. 

banner_dalailama_new

Đức Đạt Lai Lạt Ma cũng từng dạy: “Hãy cám ơn kẻ thù của quý vị vì họ là những vị thầy quan trọng nhất của mình. Họ tập cho quý vị đương đầu với khổ đau và phát huy sự nhẫn nhục, sự bao dung và lòng từ bi. Họ không chờ đợi bất cứ một sự hồi đáp nào.” (108 perles de sagesse du Dalai-Lama pour parvenir à la sérénité).

2. Tâm xả: Trước 8 ngọn gió trong giông tố của cuộc đời (“bát phong”), giữa những thăng trầm của thế sự làm tâm con người dao động chao đảo là “thành hay bại, được hay mất, khen hay chê, hạnh phúc hay đau khổ” Đức Phật dạy các Phật tử nên luôn luôn giữ Tâm thản nhiên, bình thản bằng cách hành tâm xả thì sẽ được vững chắc như tảng đá lớn sừng sững giữa trời.

Trong Kinh Pháp Cú, Ðức Phật có dạy: “Như ngọn núi vững vàng. Trong phong ba bão táp. Người trí cũng như vậy. Bình thản trước khen chê”.

Đức Phật dạy (trong “Túc sanh truyện”): “Trong hạnh phúc, trong đau khổ, lúc thăng, lúc trầm, ta phải giữ tâm như đất. Cũng như trên đất ta có thể vất bất cứ vật gì, dù chua dù ngọt, dù sạch dù dơ, đất vẫn thản nhiên. Đất không giận cũng không thương.” Hiểu được như vậy, hành được như vậy, chính là pháp môn, tu theo hạnh “Xả”, một trong Tứ Vô Lượng Tâm của đạo Phật, gồm có: Từ, Bi, Hỷ, Xả.

3. Oan ức không cần biện bạch: Ðiều thứ mười trong “Mười điều tâm niệm” dạy rằng: “Oan ức không cần biện bạch, vì biện bạch là nhân ngã chưa xả.  Hãy lấy oan ức làm cửa ngõ đạo hạnh

Vì biện bạch là nhân quả chưa tiêu, oán thù lại càng tăng thêm. Bởi vì con người kiếp trước tạo ít phước báo, gây nhiều nghiệp báo, cho nên kiếp này mới gặp nhiều điều oan ức. Cho nên không cần phải than trách gì cả. Chỉ cần tích cực tu tâm dưỡng tánh, cần cố gắng làm phước nhiều hơn, cố tránh đừng gieo tiếng oán, đừng loan truyền tin đồn, đừng vu oan giá họa, đừng làm đau khổ cho người khác, dù cho đó là kẻ thù của mình, kẻ mình không ưa cũng vậy.

Nhịn được như vậy chứng tỏ chúng ta không còn chấp “mình nhận chịu khổ đau”, không còn chấp “người tạo đau khổ cho mình”, tức là chúng ta đã thấu rõ và hành được “giáo lý vô ngã” của đạo Phật. Trong giáo lý vô ngã của đạo Phật, không có cái gì là “Ta”, nên không có gì là “của Ta”. Được như vậy, oan ức chính là cửa ngõ tiến vào con đường đạo hạnh.

“Mặc tấn”: lời giáo huấn cuối cùng của đức Phật.

Lúc Đức Phật sắp nhập Niết bàn. Thầy A Nan nghe nói òa lên khóc, Đức Phật an ủi và khuyên bảo thầy A Nan là không nên quyến luyến hình hài, vì hữu hình hữu hoại là lẽ đương nhiên. Thầy A Nan quỳ xuống hỏi Phật: “Làm sao điều phục kẻ dữ? Khi gặp những Tỳ kheo, cư sĩ và một số người có tính xấu ác, chúng con phải xử lý như thế nào?”

Đức Phật dạy rằng: “Ðiều đó rất dễ, các ông nên dùng phép Mặc Tấn. Mặc là không nói chuyện với họ, Tấn là không để ý đến họ nữa.”

Ðiều này có nghĩa là khi gặp phải những người có tính xấu ác, thì để điều phục kẻ dữ ta nên làm lơ đừng giao thiệp cãi vã, dùng định lực chẳng để cho họ xoay chuyển. Gặp những hạng người này thì không nên nói chuyện với họ, hãy giữ im lặng, không để ý đến họ, tự họ sẽ rút lui.

Theo Từ điển Phật Quang: Mặc tấn (默擯): “Chúng tăng giữ thái độ im lặng, không chuyện trò giao du là phương thức trừng phạt vị tì khưu vi phạm giới luật mà không chịu sự điều phục.”

****

Để chấm dứt về đề tài “Chánh Ngữ Trong Phật Giáo” xin ghi lại đây lời Hòa thượng Thích Thanh Từ dạy về “Ngũ Giới” trong “Bước đầu học Phật”: “Nói lời trái với sự thật để mưu cầu lợi mình, hoặc hại người là nói dối. Do động cơ tham lam ác độc, sự kiện xảy ra thế này lại nói thế khác, sửa trái làm mặt, đổi phải thành quấy, khiến người mắc họa. Người nói như thế trái với đạo đức, mất cả lòng nhân, không xứng đáng là một Phật tử. Phật tử là người đạo đức nên ăn nói có mẫu mực, thấy biết thế nào nói thẳng thế ấy, không điêu xảo dối trá… Không nói dối là giữ lòng tin đối với mọi người xung quanh.

 Hòa thượng cũng nói về nghiệp ác là một động cơ của luân hồi: “Miệng ưa nói lời dối trá, lời ác độc, lời ly gián, lời thêu dệt, là nghiệp ác của miệng vì những lời nói nầy khiến người nghi ngờ bực tức đau khổ mang tai họa, nên hiện tại hoặc vị lai mình cũng phải nhận lấy hậu quả đau khổ ấy”.

Tâm Minh Ngô Tằng Giao

(Mùa Phật Đản, tháng 5 năm 2016)

Đất Nước Mình Ngộ Quá Phải Không Anh

Trần Thị Lam

Lời BBT: Có những bài thơ rất dung dị, nhưng có khả năng thấm sâu vào lòng người, lay động lương tâm, đánh thức trách nhiệm và tình tự quê hương, dân tộc.
Bài thơ “Đất Nước Mình Ngộ Quá Phải Không Anh” đăng tải trên Facebook ngày 25/4/2016 của cô giáo Trần Thị Lam, Hà Tĩnh, Việt Nam,  trong phút chốc đã lan truyền khắp Việt Nam và thế giới,  nhanh như một cơn lốc… Nhiều người gọi đó là một “Bài Thơ Yêu Nước”.

 

Đất nước mình ngộ quá phải không anhtranthilam

Bốn ngàn tuổi mà dân không chịu lớn

Bốn ngàn tuổi mà vẫn còn bú mớm

Trước những bất công vẫn không biết kêu đòi…

 

Đất nước mình lạ quá phải không anh

Những chiếc bánh chưng vô cùng kì vĩ

Những dự án và tượng đài nghìn tỉ

Sinh mạng con người chỉ như cái móng tay…

 

Đất nước mình buồn quá phải không anh

Biển bạc, rừng xanh, cánh đồng lúa biếc

Rừng đã hết và biển thì đang chết

Những con thuyền nằm nhớ sóng khơi xa…

 

Đất nước mình thương quá phải không anh

Mỗi đứa trẻ sinh ra đã gánh nợ nần ông cha để lại

Di sản cho mai sau có gì để cháu con ta trang trải

Đứng trước năm châu mà không phải cúi đầu…

 

Đất nước mình rồi sẽ về đâu anh

Anh không biết em làm sao biết được

Câu hỏi gửi trời xanh, gửi người sau, người trước

Ai trả lời dùm đất nước sẽ về đâu…?

Trần Thị Lam

Hà Tĩnh, Việt Nam

dat-nuoc-minh-ngo-qua-phai-khong-anh-tin8-5

Nữ Chiến Sĩ Tiền Phong

Trần Quốc Bảo

Ngày nay dân hết sợ rồi!
Người dân can đảm nói lời đấu tranh
Ngay giữa lò Cộng sản gian manh
Đỉnh cao hung tàn, tội lỗi
Tôi đã thấy chị Giáo viên Hà Nội
Tọa kháng biểu tình
Đơn độc một mình với hàng biểu ngữ:
“Cứ đánh vào mặt tôi nếu muốn
Nhưng trả Biển và Quyền làm người cho dân!”
Chao ôi !!!
Can đảm thay!
Dũng liệt thay!
Coi thường:  thủ tiêu, đánh đập, tù đày!
Thiệt đáng mặt trang Anh Thư Nước Việt
Lời thách thức đến vô cùng quyết liệt!
Như lằn roi quất vào mặt bọn sài lang
Chị ngồi im, mà tiếng nói vang vang
Khắp Thế giới đã lắng nghe tiếng chị!
Chị Giáo viên hiền lành,
Nhưng chính là Chiến Sĩ
Đứng hàng đầu “Diệt Cộng cứu Quê Hương”
Người Việt Nam tỵ nạn khắp bốn phương
Hãnh diện với năm Châu vì có chị.

Trần Quốc Bảo
Richmond, VA

 

 

Một giáo viên tại Hà Nội tọa kháng biểu tình ôn hòa. Ảnh Internet.

Một giáo viên tại Hà Nội tọa kháng biểu tình ôn hòa. Ảnh Internet.