Làm Sao Mà Quên Được Tháng Quốc Hận

TS Mai Thanh Truyết

Mỗi năm, vào dịp tháng tư từ 49 năm qua, có lẽ 18 triệu người Việt sống ở miền Nam không ai không nghĩ đến Tháng tư đen nầy. Tháng này còn được gọi là Tháng Quốc hận và Ngày 30/4 cũng được gọi là Ngày Quốc hận.

Thực sự ra, tháng hay ngày quốc hận cần được biết sâu xa hơn nữa. Đó chính là ngày 18/9/1945, ngày HCM và bè lũ có tên là Việt Minh, sau này đổi danh xưng là đảng Cộng sản… đứng lên cướp chính quyền của Việt Nam tại Hà Nội.

Nói đến quốc hận, người viết không cổ súy hận thù mà chỉ muốn nhắc nhở cho người sau biết rõ một giai đoạn đen tối của quê hương bắt đầu 79 năm qua…

Nhắc đến quốc hận cũng không phải là khích động những người con Việt phải trả thù, mà nhắc đến quốc hận để đời đời con cháu Tiên Rồng cần phải định hình rõ ràng đâu là quốc gia, đâu là dân tộc. Biết ai là kẻ bán nước cho Tàu. Biết ai là kẻ phản bội dân tộc mượng danh chủ nghĩa để cai trị toàn cõi nước Việt.

Nhắc đến để không quên quốc hận.

Không quên nhưng không mang sầu hận.

Không quên nhằm chuẩn bị cho một tương lai mới cho dân tộc an bình và xóa tan cảnh “nội trị” của CS Bắc Việt.

Chuẩn bị cho một tương lai mới ứng hợp với tinh thần hợp quần của tổ tiên sau hơn 4.000 năm dựng nước và giữ nước.

Nhưng tôi vẫn tin tưởng một tương lai sáng lạn đang sắp sửa khai mở.

******

Không biết tự lúc nào sau ngày 30 tháng tư năm 1975, mỗi năm vào dịp nầy lòng tôi lại thêm một lần chùng xuống sâu hơn. Trước khi về hưu vào năm 2012, công việc hàng ngày vẫn chu toàn 8 giờ để trả nợ áo cơm, một vài giờ cho dịch vụ tư vấn về môi trường của tôi, cũng như thì giờ cho các buổi phỏng vấn hay ngồi suy tư và viết bài hoặc đi đó đi đây…tôi đã cảm nhận được một nỗi niềm u uẩn nào đó trong tôi.

Nhưng bây giờ, mặc dù đã giã từ nợ áo cơm, nhưng niềm u uẩn trên vẫn tiếp tục còn trong tôi ngày càng…dai dẳng hơn thêm.

Tại sao lại có hiện tượng như vậy trong tôi?

Có lẽ, vì tuổi đời ngày càng cao, và niềm hy vọng về một ngày mùa xuân nở hoa trên quê hương vẫn còn xa vời vợi…cho nên nỗi buồn của tôi càng thêm ray rứt và dường như còn điểm thêm đôi nét tuyệt vọng trong tâm tư … (?)

Cũng có lẽ, sức cùng lực tận, không còn khả năng chiến đấu kiên cường trong hơn 30 năm qua nữa chăng?

Hoặc có lẽ, có lẽ tôi đã … bất khiển dụng rồi chăng?

Bỏ qua những ngày tháng nghiệt ngã sau 30/4/1975 lúc còn lại ở Việt Nam trước khi vượt biên, phải thành thật mà nói, lúc đó tôi không có thì giờ để “buồn” như hôm nay, vì miếng cơm manh áo và mải lo “tìm đường ra đi” (cứu thân) cho một gánh nặng gia đình với 4 đứa con dại…

Bỏ qua những năm đầu tiên sống đời tị nạn, tôi cũng chưa thực sự quan tâm gì mấy cũng như không có thì giờ để buồn…như nỗi buồn hôm nay vì một đời sống tạm dung nơi xứ người.

Nhưng chỉ trong vòng 30 năm trở lại đây, khi gia đình tương đối ổn định và sau khi bắt đầu bước vào con đường tranh đấu cho Việt Nam qua ngã môi trường, tôi mới thực sự cảm thấy buồn. Và mỗi năm nỗi buồn đó càng se sắc hơn, ngậm ngùi hơn và sâu đậm hơn.

 Buồn để mà buồn một mình!

Không thể nào nói tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn được. Mà tôi hiểu và hiểu rất rõ nỗi buồn thực sự của tôi vì hai lý do: – Đất Nước còn điêu linh, – và Bà con mình vẫn còn chìm đắm trong nỗi nhục nhằn làm công dân hạng hai cho một chế độ phản dân tộc chưa từng thấy trong lịch sử Việt Nam.

Làm sao không buồn được khi một đất nước xuất cảng hàng năm 6,7 triệu tấn gạo, nhưng người dân trong nước vẫn thiếu ăn, ngay cả chính nơi sản xuất gạo là Đồng bằng Sông Cửu Long vẫn phải mua gạo lậu… từ Cambodia!

Nhìn lại những ngày bắt đầu từ giữa tháng tư năm 75, có thể nói cả thành phố Sài Gòn đang lên cơn sốt. Nào là chạy đôn chạy đáo thăm dò tình hình…mặc dù biết rằng miền Nam đang trong cơn hấp hối, nhưng cũng mong tìm và hy vọng một phép lạ. Nào là, đối với những người có chút tiền, lo chạy đi đổi tiền, làm…áp phe, hay dò la tin tức tìm đường ra đi.

Tin tức đồn đãi nhiều khi trái ngược nhau, tin vui lẫn với tin buồn. Các hãng thông tin ngoại lại đưa tin trái người nhau. Đài BBC lại đưa tin CS Bắc Việt tiến như “chẻ tre”, chiếm thành phố Nha Trang làm cho dân chúng bò chạy trước khi người lính cộng đặt chân vào thành phố ngày 1/3/1975.

Nhưng nỗi buồn của tôi thực sự buồn khi rời trụ sở USAID ở đường Lê Văn Duyệt sau khi làm “thủ tục”…ra đi. Cầm tấm thẻ vô tri có hình của một “ông giáo trẻ” đầy nhiệt huyết, khi về lại Việt Nam năm 1973, nguyện sẽ làm một cái gì cho thanh niên Việt. Tôi không thiết ăn cơm chiều hôm đó. Nếu tôi nhớ không lầm, đó là ngày thứ tư 09/4/1975.

Tới thứ hai tuần sau đó vào khoảng tuần lễ thứ hai của tháng tư, lên Đại học Cao Đài Tây Ninh, tôi lại được mấy anh chàng “CIA” trẻ đóng trên đài phát tuyến ở đỉnh Núi Bà cho tôi biết rằng ngày mai, họ sẽ rút về Mỹ và khuyên tôi nên rời bỏ quê hương qua một giọng Bắc rất rành rọt. Suốt các buổi lên lớp sau đó, tôi nói như người mất hồn, một tâm trạng mà chính giờ phút viết lên dòng chữ nầy, tôi lại thêm một lần “phiêu diêu” nữa.

Đi?  hay Ở?

Hai chữ nầy ám ảnh mãi nơi tôi trong suốt thời gian còn lại cho đến ngày 30/4 năm đó. Nhớ lại, trong những buổi hoàng hôn trước ngày 30/4/1975, tâm trạng một thanh niên trẻ, mang bầu nhiệt huyết hầu mong đóng góp một chút gì cho quê hương, đang bị dằn co bởi ý tưởng ĐI hay Ở.

Sau cùng quyết định ở lại đã chiến thắng, xóa đi nỗi khắc khoải của nội tâm vì một suy nghĩ rất “lãng mạn” rằng:”Cho dù CS Bắc Việt có chiếm miền Nam đi nữa, mình cũng có thể đối thoại được với họ, vì cùng chung chủng tộc và cùng một ngôn ngữ”.

Nhưng tôi đã lầm, cũng như nhiều người đã lầm, vì họ và tôi không nói cùng một tiếng nói mặc dù cùng phát âm tiếng Việt. Trước bế tắc của cuộc sống và tương lai con cái, phải đành liều chết vượt biên mà thôi. Không còn một giải pháp nào khác.

Hình ảnh Ba tôi lẩn quẩn trong đầu. Hình ảnh một ông giáo già đã về hưu, căm cụi viết thư cho con mình đi du học mỗi buổi sáng thứ năm trong tuần, để rồi, sang sáng thứ bảy đem thư ra Bưu diện gửi đi cho kịp chuyến máy bay Air France bay về Pháp, để cho con mình nhận được thư đúng ngày thứ hai. Việc nầy xảy ra đúng như in, không hề sai sót suốt hơn hai năm trời sau khi tôi du học bên Pháp cho đến khi Ba tôi mất. Ba tôi mất ngày Chủ nhựt và thứ hai sau đó tôi vẫn nhận được thư ba viết trước khi nhận được điện tín của anh tôi.

Còn Má tôi. Một người mẹ già vừa gặp lại sau 10 năm xa quê và sống chung với con chưa đầy hai năm…Mà cũng chính trong thời gian nầy, tôi luôn bận bịu với những “đam mê” cho cuộc sống, chuẩn bị cho con đường “công danh” của mình… thì làm sao tôi có thì giờ chăm sóc hay hỏi han đến mẹ già. Và mỗi khi nhìn lại mình, chính tôi cũng phải tự thú rằng mình cũng không có thì giờ để nghĩ đến mẹ mình nữa trong thời gian nầy. Tôi thật có lỗi với má tôi nhiều và nỗi ân hận vẫn còn ray rứt mãi trong tôi. Và giờ đây, khi viết những dòng chữ nầy, tôi chỉ còn biết mỗi đêm nhìn ảnh mẹ để sám hối.

Trở lại thời gian giữa tháng 4 năm xưa. Tâm trí tôi luôn bị ray rứt với tâm trạng nửa Ở, nửa Đi. Và tôi đã sai lầm khi quyết định Ở lại dù có đủ phương tiện để ra đi trước khi “chúng nó” vào Saigon.

Cái sai lầm nầy cũng giống như cái sai lầm của người thầy giáo Tạ Ký khi đi học tập về cùng ngồi uống rượu với Gs Tôn Thất Trung Nghĩa và tôi tại Chợ Đuổi nằm tại góc đường Lê Văn Duyệt và Trần Quý Cáp năm 1981 như sau:

Hai mươi năm mới biết chuyện xưa lầm.

Thì tuổi trẻ đã biến thành uất hận!”

 Chiều thứ hai 28/4, khi một tên phi công (tôi không muốn nhắc tới tên nầy lên đây, vì làm sao tôi quên được tên những kẻ phản bội quê hương) dội bom dinh Độc Lập, và từ đó lịnh giới nghiêm 24/24 được ban hành. Tôi liền chạy lên nhà một người bạn vong niên trên cư xá giáo chức đại học ở đường Tự Đức.

Qua ngày thứ năm 1/5, lệnh trên radio yêu cầu (bắt buộc thì đúng hơn) mọi công chức phải đến trình diện tại trụ sở làm việc của mình. Sáng đó, tại cư xá có mặt Ông Khoa trưởng, Ông Phó Khoa trưởng và một số giáo sư, tôi và một giảng nghiệm viên tình nguyện vào Trường Sư phạm xem tình hình.

Mọi sự có vẻ êm xuôi vì “họ” chưa có người vào tiếp quản, ngoài một số “cơ sở” địa phương thôi. Nhưng một hình ảnh khác làm bẽ bàng và làm đảo lộn những suy nghĩ tốt đẹp trong tôi khi nhìn thấy một số đồng nghiệp của mình mới chỉ vừa cách đây một ngày, nay đã mang “băng đỏ cách mạng” từ cung cách hướng dẫn chỗ để xe, cho tới thái độ trong lúc nói chuyện. Đáng phỉ nhổ nhứt là những người nầy ngày nào thưa anh, xưng em với tôi, mà nay trở mặt dương dương tự đắc tự xưng tôi, tôi, anh, anh một cách trơ trẽn.

Có những chị giáo sư thướt tha, dịu hiền trong khi lên lớp mà nay ngoài băng đỏ, thậm chí còn để lá cờ vàng ba sọc đỏ dưới chân bàn đạp ga xe nữa. Và hơn nữa, có giáo sư trong suốt thời gian chưa đầy hai năm ngắn ngủi của tôi, đã xem tôi như “thần tượng” mặc dù biết tôi đã lập gia đình rồi, thường xuyên đi ăn uống chung; thậm chí đã dám cùng tôi “nhậu thịt chó” nữa…Người đó bây giờ là một “công thần” của chế độ.

 Làm sao tôi quên được lần đổi tiền đợt I ngày 22/9/1975, đổi 1đ tiền “chính phủ cách mạng lâm thời miền Nam” tức tiền “ngân hàng Việt Nam” lấy 500 đ tiền Việt Nam Cộng Hòa hay “tiền Ngân hàng Quốc gia Việt Nam”. Người dân chỉ đổi được mỗi gia đình 100.000 đ mà thôi.

Làm sao tôi quên được cảnh đốt sách tại một khu phố ở Sài Gòn trong tháng 5/1975.

“Một cửa hiệu chuyên cho thuê truyện tại đường Huỳnh Quang Tiên bên cạnh nhà thờ Ba Chuông tại Phú Nhuận phát nổ khi đoàn thu gom sách mang băng đỏ xâm nhập tiệm. Ông chủ nhà sách mời tất cả vào nhà. Rồi một trái lựu đạn nổ. Chuyện xảy ra không ai ngờ. Đương nhiên là có đổ máu … Cả chủ tiệm cũng mạng vong”. Câu chuyện ông chủ hiệu sách uất ức thà chết còn hơn nhìn “băng đỏ” gom và ném sách đi đốt chỉ là một trong những bi kịch của miền Nam sau 1975.

Làm sao tôi quên được lần đổi tiền đợt II ngày 3/5/1978, đổi 1 đ “tiền thống nhứt XHCN” tức tiền “ngân hàng nhà nước” lấy 1 đ tiền “ngân hàng Việt Nam” và mỗi gia đình chỉ được đổi 100 đ mà thôi.

Làm sao tôi quên được lần đổi tiền đợt III ngày 14/9/1985, đổi 1 đ tiền ngân hàng nhà nước cũ lấy 1đ tiền ngân hàng nhà nước mới (tiền thống nhứt Bắc Nam).

Làm sao tôi quên được lần đánh tư sản đợt I ngày 11/9/1975, cướp của và tịch thu nhà những người được cho là tư sản cùng bắt đi vùng kinh tế mới. Chiến dịch nầy gọi là X1.

Làm sao tôi quên được lần đánh tư sản đợt II, tức chiến dịch X2, từ tháng 3/1978 tới cuối năm 1990 nhắm vào tư sản tiểu thương, những nhà tiểu thủ công nghệ, ước tính trên 14.000 gia đình tại Sài Gòn.

Một cảnh đổ người lên vùng “kinh tế mới” của các nạn nhân bị cộng sản Hà Nội cướp nhà

Làm sao tôi quên được lần đánh tư sản đợt III tức chiến dịch X3, song hành với chiến dịch X2 tại Sài Gòn nhằm mục đích trục xuất người cũ ra khỏi nơi ở và điền khuyết vào bằng gia đình cán bộ ngoài Bắc vào. Đây là một âm mưu thâm độc nhằm “Bắc kỳ hóa” thành phố Sài Gòn. Tính đến tháng 9/1989, ước tính có đến 950.000 người bị đuổi khỏi Sài Gòn, và có khoảng 150.000 gia đình cán bộ Bắc Việt được điền khuyết vào.

Làm sao tôi quên được những đợt học tập cải tạo, đáng kể nhứt là đợt cuối cùng vào tháng 6/1975, kêu gọi công quân cán chính tập trung mang theo lương thực cho một tháng…để rồi tất cả bị lường gạt và phải chịu lao động khổ sai từ một hai năm cho đến hơn 17 năm đối với những cán bộ hành chánh và quân đội cao cấp của Việt Nam Cộng hòa….

Trên đây, xin diễn lại bức tranh vân cẩu chập chùng những ý nghĩ lộn xộn trong những ngày quốc phá gia vong.

Xin chia xẻ cùng bà con.

Đây không phải là lời tự thú hay than thở, hay nói về mình.

Nơi đây tôi chỉ muốn nói lên vài điều suy nghĩ của một người con Việt mà thôi.

Đó là:

  • Truyết, đừng bao giờ mơ tưởng những người cộng sản Bắc Việt là người Việt Nam.
  • Matin Luther King từng nói: “Trong thế giới này, chúng ta không chỉ xót xa vì những hành động và lời nói của người xấu mà còn cả vì sự im lặng đáng sợ của người tốt”…

Từ đó, chắc chắn sẽ có một ngày tất cả người con Việt và Tuổi Trẻ trong nước cùng vùng lên, …đứng dậy đòi lại quyền sống và quyền làm người theo Điều 3 của luật Quốc tế Nhân quyền “Mọi người đều có quyền sống, tự do và an toàn cá nhân”.

Và với những chuyển biến trên thế giới hiện tại, nhứt là thế giới cộng sản đang đi vào giai đoạn cuối của một niềm tin không tưởng, thời điểm nầy chính là cơ hội ngàn vàng cho chúng ta, những người con Việt trong và ngoài nước …làm LỊCH SỬ.

 Nói về 30 Tháng Tư Ngày Quốc Hận 2024

Thưa Bà Con,

Bài viết “Chuyện chưa kể sau ngày 30/4/1975”, phản ảnh quan điểm của tác giả, bà Quỳnh Hoa, con gái đại tá quân đội Nhân dân Việt Nam Bùi Văn Tùng. Bà tốt nghiệp Đại học Y Dược tp HCM, hiện đang sống ở Pháp.

Xin trích vài đoạn…”Câu chuyện về những việc ba tôi làm trưa ngày 30/4 tại Dinh Độc Lập và đài phát thanh Sài Gòn, đã được báo đài đưa tin, làm phim tài liệu và ngay cả viết thành sách (ủng hộ và phủ nhận) cứ mỗi dịp tháng Tư về, ròng rã suốt 45 năm qua. (bài viết năm 2020). ….Nhà báo, đại tá Bùi Tín (báo Quân Đội Nhân Dân) ngay sau 30/4/1975 đã tìm gặp ba tôi để nghe kể lại toàn bộ sự việc xảy ra trong buổi trưa lịch sử đó. (Chứ không có mặt trong giờ phút lịch sử đó).

Ông Phạm Xuân Thệ, đại úy, trung đoàn phó trung đoàn 66 bộ binh, cũng có mặt trong dinh “bắt nội các tổng thống”. Sau một thời gian dài im lặng, bỗng ông ấy tự nhận hết những việc ba tôi làm trưa ngày 30/4/1975 về làm thành tích cho ông. Ông Thệ sau lên hàm trung tướng QĐNDVN.

…Chính ủy Bùi Văn Tùng cùng các ông Dương Văn Minh trên đường từ sân Dinh Độc Lập ra hai chiếc xe jeep để đến đài phát thanh.

Năm 2006, khi biết Phạm Xuân Thệ phủ nhận việc ba- chính ủy lữ đoàn tăng thiết giáp 203 có mặt tại dinh- mà bỗng đột ngột xuất hiện tại đài phát thanh Sài Gòn, và cho rằng ông ta, một đại uý bộ binh đã giao lại nội các Dương Văn Minh, rồi cùng ngồi soạn thảo văn kiện đầu hàng với trung tá chính ủy Bùi Văn Tùng, ba chỉ nói nhẹ nhàng, tay này tầm bậy”. (Đoạn nầy có ghi trong thông báo chính thức của trên báo Nhân Dân).”

Tất cả những trích đoạn trên đây là do tác giả Quỳnh Hoa ghi lại sự giây phút lịch sử trên.

…Người viết Tác giả Quỳnh Hoa) kể tiếp: “…Khi ĐT Dương Văn Minh lên xe và đi theo xe của Chính ủy Bùi Văn Tùng trên đường đến Đài phát thanh Saigon. Đợi trước của Đài có mặt Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, và TS Huỳnh Văn Tòng, Khoa trưởng ĐH Hòa Hảo Long Xuyên và một nhóm sinh viên tranh đấu…”. (HVT là bạn quen từ thời ở Paris, tốt nghiệp TS Sử học, nằm trong sư đoàn 30/4. Để rồi sau sự hiện diện trên Đài phát thanh đã đị trù dập vì tội…cướp công cách mạng!).

Những lời công bố đầu hàng được đọc đúng vào lúc 10:37 sáng ngày 30/4/1975 sau bài hát Nối Vòng tay lớn của TCS.

Bức hình bên cạnh đây chụp đúng vào lúc 10:37PM 29/4/2020, giờ Houston, tức là 10:37AM ngày 30/4/2020 giờ Sài Gòn, đúng 45 năm sau. Trong phòng làm việc, ngồi một mình âm thầm gậm nhấm nỗi đau Quốc Hận.

Người viết xin chia xẻ cùng Bà Con giây phút lịch sử nầy để biết và nhớ rõ giây phút nầy.

Vì vậy, Bà Con cần để ý…

Nhớ để không quên.

Không quên không phải để thù hận.

Mà không quên để khắc ghi lời nguyền.

Lời nguyền của hồn thiêng sông núi.

Đàn con Việt sẽ vá lại bức dư đồ rách.

Dứt khoát CSBV sẽ vào quá khứ.

Và chúng ta dứt khoát

Ngày 30/4 cũng là ngày mỗi chúng ta cần ghi nhớ để tự nhủ rằng:” Cả dân tộc Việt Nam chúng ta không những chỉ nhắc tới ngày 30/4 như ngày Quốc hận của người dân Miền Nam, mà còn đừng quên phải:

  • Nhắc tới những ngày giỗ của hằng triệu nông dân, trí thức, thương gia Miền Bắc đã chết âm thầm và nhục nhã trong mấy năm bị đấu tố;
  • Phải nhắc tới cái chết của hằng mấy triệu quân dân của cả hai Miền Nam Bắc, nạn nhân của cuộc chiến tương tàn do Hồ chí Minh và đồng bọn tạo dựng ra từ 1945, theo lệnh của Liên Sô, Trung Cộng, và cộng sản Quốc Tế Đệ Tam;
  • Phải nhắc tới trên 800,000 vong linh bơ vơ lạnh lẽo trên rừng hay dưới biển chưa siêu thoát được, trên đường vượt biên vượt biển liều chết chạy trốn bọn Việt cộng, đi tìm tự do;
  • Chúng ta phải nhắc hết tội ác của Hồ chí Minh và cộng sản Việt Nam ít nhất từ năm 1945 cho đến ngày hôm nay, để chúng ta cùng chuyển ngày 30/4 thành một ngày Quốc Hận chung của cả dân tộc, từ đó biến thành một “Ngày Quật Khởi” của toàn dân cùng đứng lên đập tan chế độ cộng sản, để mau chóng mang lại cho đồng bào đầy đủ Tự Do Hạnh Phúc thực sự và Ấm No Thịnh Vượng cho cả quốc gia Việt Nam.

Nói với những người Cộng sản Bắc Việt đang cầm quyền ở Việt Nam

Xin nói ngay là những dòng chữ sau đây không phải là lời nhắn gửi hay trao đổi với họ mà chính là một vài suy nghĩ về họ trong cung cách quản lý toàn thể đất nước hơn 49 năm qua.

Trong suốt hơn 30 năm thực sự dấn thân vào con đường tranh đấu dù dưới danh nghĩa cá nhân hay thành viên của Hội Khoa học & Kỹ thuật Việt Nam (VAST) hay dưới danh nghĩa Đại Việt, hay Nhóm Chống Tàu Diệt Việt Cộng, hay Hội Bảo Vệ Môi Trường Việt Nam, qua trên 40 cuốn sách viết riêng hay viết chung với các bạn như GS Trần Minh Xuân, TS Phan Văn Song, tôi đã trang trải trong đó, nỗi lòng của người con Việt, nói lên những vấn nạn môi trường do sự phát triển không ứng hợp với chiều hướng toàn cầu hóa và bảo vệ môi trường cùng những chính sách y tế, giáo dục hoàn toàn đi ngược lại trào lưu tiến bộ của văn minh thế giới.

Từ đó, đưa đến tệ trạng là Đất và Nước ngày hôm nay đang đứng bên bờ vực thẳm về phát triển, chưa nói đến vấn nạn làm “nô lệ” cho Trung cộng qua các thỏa hiệp ngầm giữa hai đảng cộng sản Việt và Trung. Hiện nay, trên thực tế và dưới sự quản lý của đảng cộng sản Bắc Việt, Việt Nam vô hình chung đã là một tỉnh phía Nam của Trung Cộng từ lâu rồi!

Ngày hôm nay, nhân danh cá nhân của một người con Việt, nếu còn lại một chút nhứt điểm lương tâm, những người CS Bắc Việt hãy trở về với dân tộc đúng nghĩa thật sự.

Tài sản và quyền lực chỉ là phù du!

Hãy can đảm vứt bỏ VÔ MINH trong tâm khảm để trở về với dân tộc đúng nghĩa. Một khi nhắm mắt và ngừng hơi thở, quyền lực sẽ là hư không và tài sản sẽ trở về cát bụi mà thôi!

Sẽ có một ngày, những người con Việt trong và ngoài nước về dựng lại cờ vàng trên Cổ thành Quảng Trị!

Niềm hy vọng trên sẽ trở thành một quyết tâm khiến mỗi người trong chúng ta tiếp tục giữ ngọn lửa thiêng của Dân Tộc luôn tỏa sáng trên quê hương thân yêu.

Giờ khởi hành đã điểm!

Mai Thanh Truyết

Quốc hận 2024.

Chủ Nghĩa Be-Bờ (Containment Doctrine) và Chiến Tuyến Việt Nam

TS.LS. LƯU NGUYỄN ĐẠT 

I. CĂN BẢN CỦA CHỦ NGHĨA BE-BỜ

George F. Kennan

Chủ Nghĩa Be-bờ [Containment Doctrine][1] là nền tảng của chính sách ngoại giao Hoa Kỳ dùng áp lực quân sự và ảnh hưởng kinh tế để “ngăn chặn” sự bành trướng của chế độ Cộng sản trên thế giới, không khác mấy việc “kiểm dịch” [quarantine][2] ngăn cản việc lây nhiễm của một căn bệnh hiểm nghèo.  Chính sách này nhằm một mặt gia tăng an ninh cho Hoa Kỳ và mặt khác tránh “hiệu ứng Domino” [“domino effect”][3] gây cảnh các quốc gia tuần tự đổ theo khi một quốc gia lân cận bị cộng sản chiếm đoạt.  Chủ nghĩa Be-bờ do nhà ngoại giao Hoa Kỳ George F. Kennan[4] khơi thuật từ năm 1947[5] và đã ảnh hưởng tới đường lối ngoại giao của Hoa Kỳ kể từ thời Tổng Thống Harry S Truman.[6]

Chủ Nghĩa Be-bờ căn cứ vào những nhận định sau:[7]

  1. Xôviết cộng sản luôn luôn ở thế chiến đấu trường kỳ chống đối tư bản;
  2. Xôviết cộng sản tìm mọi cách kết tác với thành phần cảm tình viên trong thế giới tự do;
  3. Hiện tượng xâm lược của Xôviết cộng sản bắt nguồn từ truyền thống bài ngoại của Nga Xô;

Tổng Thống Harry S. Truman

Cơ cấu của XôViết cộng sản cắt đứt với thực tế nội bộ và ngoại tại.Chủ Nghĩa Be-bờ đã hội nhập thành Chủ Nghĩa Truman [Truman Doctrine][8] để khẳng định nguy cơ của nguyên khối cộng sản chuyên chế sẵn sàng xâm nhập thế giới tự do trong cuộc “Chiến Tranh Lạnh” [Cold War].[9]  Theo chiều hướng ngăn chặn tiềm lực đe doạ Xôviết cộng sản, Truman xếp đặt một loạt những biện pháp:

  • hỗ trợ như Kế hoạch Marshall [Marshall Plan][10], giúp tái dựng Tây Âu sau Thế chiến thứ 2,  song song với việc thành lập Ngân Hàng Thế Giới [World Bank] và Quý Tiền Tệ Quốc Tế [International Monetary Fund];
  • cảnh phòng giữa Hoa Kỳ và Tây âu dưới hình thức liên minh quân sự Bắc Âu  [NATO, North Atlantic Treaty Organization] với khẩu hiệu: “Nga ngoài, Mỹ trong, Đức dưới” [“to keep the Russians out, the Americans in, and the Germans down.”][11]
  • thu thập tin tức cẩn mật từ  quốc ngoại qua Cơ Quan Trung ương Tình Báo [Central Intelligence Agency/CIA] dưới sự điều động của Ủy Ban An Ninh quốc Gia [National Security Council].[12]

Về mặt quân sự, Chủ Nghĩa Be-bờ chỉ chú trọng tới hình thức “ngăn chặn, đề phòng” trong thời kỳ “Chiến tranh Lạnh”, hoặc nếu có xung đột, thì áp dụng sách lược “Chiến tranh hạn chế” [“limited war” policy].  Điển hình, tuy đã cho phép Douglas MacArthur vượt vĩ tuyến 38 tiến đánh Bắc Hàn, Truman vẫn khiển trách danh tướng này đã chủ động “quyết thắng” hơn là thi hành thuần Chủ Nghĩa Be-bờ, mà về mặt quân sự, MacArthur chê là một giải pháp nhì nhằng “Không-Cốt-Thắng” [“No-win policy”].[13] 

  1. KHAI MỞ CHỦ NGHĨA BE-BỜ TẠI VIỆT NAM

Chủ Nghĩa Be-bờ và Thuyết Domino lại được áp dụng qua chính sách đối ngoại của Hoa kỳ tại Việt Nam, trong nhiều giai đoạn.

TT Truman năm 1952 cấp viện 60 triệu Mỹ Kim cho Pháp [đồng minh NATO] trong việc chống du kích chiến cộng sản tại Việt Nam và mặt trận Đông Dương.

Tổng Thống Dwight D. Eisenhower

TT Dwight D. Eisenhower [nhiệm kỳ 1953-61] đã nhấn mạnh vào “hiệu ứng domino” để chỉ về nguy cơ phát triển của chủ nghĩa cộng sản tại Đông Dương và cho rằng nếu Hoa kỳ không can thiệp để phe cộng sản chiếm cứ Việt Nam thì Lào, Campuchia, Thái Lan, Miến Điện sẽ sụp đổ như quân bài domino và rơi vào khối cộng sản.[14] Do đó, Chính phủ Eisenhower tìm cách giúp đỡ[15] đồng minh [NATO] Pháp vào giai đoạn cuối cùng của Chiến tranh Đông Dương với 3 điều kiện:

  1. tăng cường quân đội tác chiến nếu 3 thành phần Hoa Kỳ, Anh & Úc tham dự đồng đều;
  2. Chính quyền Pháp cam kết trả lại độc lập cho các quốc gia Đông Dương;
  3. Quốc Hội Hoa Kỳ tuyên bố khai chiến.

Trước tiên Thủ tướng Anh Winston Churchill từ chối tham dự, sau đó, Quốc Hội Hoa Kỳ chỉ muốn áp dụng sách lược “Chiến tranh hạn chế” tại Việt Nam, để tránh nguy cơ Thế chiến Thứ 3, nên cũng đã từ chối không giúp Quân Đội Viễn Chinh Pháp tại Điện Biên Phủ.  Hậu quả là Chiến tranh Đông Dương đã chấm dứt, và với Hội Nghị Genève [tháng 7 năm 1954] Việt Nam chia đôi để sau đó tiếp tục cuộc chiến ý thức hệ, giữa Phe Tự do ở Miền Nam Việt Nam và Phe Cộng sản ở Miền Bắc.

  1. VIỆT NAM THÀNH THÍ ĐIỂM CHỦ NGHĨA BE-BỜ 

Tổng Thống John F. Kennedy

TT JF Kennedy [nhiệm kỳ 1960-63] bổ nhiệm học giả McGeorge Bundy vào chức vụ Cố vấn An ninh Quốc gia.  Sau khi Hoa Kỳ thất bại đổ bộ tại Vịnh Heo Cuba [Bay of Pigs Invasion][16] và bị khiêu khích bởi Tường Ngăn Berlin, TT Kennedy & Bundy coi Nam Việt Nam là thí-điểm-để-thực-hiện chiến lược Be-bờ tại Đông Nam Á và nghĩa vụ phải giúp đỡ các đồng minh bản địa chặn đứng chủ nghĩa cộng sản tại Miền Nam Việt Nam và Đông Dương. Đó là tiền đề để giải thích cho sự can thiệp ngày càng sâu của Hoa Kỳ vào Chiến tranh Việt Nam và sau này dẫn đến sự tham chiến trực tiếp của Quân đội Hoa Kỳ tại chiến trường Đông Dương thời TT Lyndon Johnson.

Do đó, chính phủ Kennedy để lại một số dấu ấn trên định mệnh Miền Nam Việt Nam:

Từ năm 1961, TT Kennedy tiếp tục sách lược “chiến tranh hạn chế” tại Miền Nam Việt Nam, đôn đốc một lực lượng tham chiến từ 800 tăng tới 16,300 binh sĩ Hoa Kỳ, với ý định rút quân khỏi mặt trận Việt Nam càng sớm càng tốt.

Trong khi TT Dwight D. Eisenhower nhiệt liệt ủng hộ sự thành lập đệ Nhất Cộng Hoà Việt Nam dưới sự lãnh đạo của TT Ngô Đình Diệm, thì chính quyền Kennedy bắt đầu có triệu chứng “thất sủng” TT Ngô Đình Diệm vì chính thể của Ông lúc đó hạn chế mức độ dân chủ hoá Miền Nam Việt Nam vào trọng tâm ưu đãi của một thiểu số gồm có gia đình họ Ngô, các cựu quan lại và lực lượng quân, dân, cán chính thuộc Đảng Cần Lao, gốc Ky Tô giáo.  Hậu quả là gần 90% dân chúng tại Miền Nam Việt Nam, gồm một số đảng phái như Đại Việt, Việt Nam Quốc Dân Đảng, Dân Xã Đảng v.v., các nhà trí thức độc lập, tín đồ Phật giáo, Cao Đài, Hoà Hảo v.v.  đã mất cơ hội tham dự vào Cao trào Dân chủ mà Chủ nghĩa Be-bờ hứa hẹn đối với toàn dân của Chiến Tuyến này.  Hậu quả của chính sách “biệt đãi/cô lập” dân chủ hoá trên đã tạo ra những xáo trộn trong khắp Miền Nam Việt Nam, một cách rất đáng tiếc.  Chúng ta đã mất một cơ hội hy hữu dựng nước toàn vẹn trong tay của rất nhiều người Việt, cũng yêu nước, cũng tôn trọng dân chủ tự do.

Tổng Thống Ngô Đình Diệm

Sau hai cuộc đảo chính hụt, và sức chống đối của dân chúng, nhất là các cuộc Tranh đấu Phật giáo, TT Ngô Đình Diệm và Cố Vấn Ngô Đình Nhu đã bị bắt và hạ thủ bởi thuộc hạ của Đại Tướng Dương Văn Minh và một số tướng lĩnh trẻ trong cuộc Đảo Chính tháng 11 năm 1963.  Nhiều tài liệu lịch sử [mới được “giải mật”] đã xác định biến cố này có hậu thuẫn của CIA Lucien Conein, Đại sứ Cabot Lodge, Bộ Ngoại gia Hoa Kỳ,[17] dù lúc xẩy ra cuộc ám sát trên, TT Kennedy & Cố vấn Bundy đã khôn khéo “vắng mặt” nơi nhiệm sở.  Riêng Maxwel Taylor, Tư lệnh Hội Đồng Tướng Lĩnh Hoa Kỳ ghi nhận trách nhiệm của Hoa Kỳ về cuộc đảo chính và  ám hại TT Ngô Đình Diệm và Ô. Ngô Đình Nhu.[18]

Từ góc nhìn của Hoa Kỳ, vấn đề loại bỏ TT Ngô Đình Diệm và Ô. Ngô Đình Nhu là do [a] tình trạng khiếm khuyết dân chủ thực sự tại Nam Việt Nam, [b] ảnh hưởng tai hại của vợ chồng Ngô Đình Nhu về chính sách tôn giáo, và [c] phần nào vì Ngô Đình Nhu “hù doạ” chủ trương trung lập, thay thế TT. Ngô Đình Diệm v.v. với ý định làm giảm sức ép của Hoa Kỳ.[19]

  1. BIẾN HOÁ CHỦ NGHĨA BE-BỜ TẠI VIỆT NAM

TT Lyndon Johnson [nhiệm kỳ 1963-69] tiếp tục nhưng biến hoá đường lối đối ngoại “Be-bờ” của cố TT JF Kennedy, bị ám sát vài tuần sau Anh Em họ Ngô.  Năm 1964, khi ứng cử viên Cộng hoà Barry Goldwater thách đố TT đương nhiệm: “Tại sao không nghĩ tới chiến thắng?”[20] thì TT Johnson lại trả lời một cách nước đôi: “Chỉ vào can thiệp tới mức đó thôi”.[21] Thật vậy, đường lối “Can thiệp giới hạn” này vừa tăng, vừa hãm, qua nhiều hình thức:

— Thông qua Biểu quyết về Vịnh Bắc Việt [Gulf of Tonkin Resolution][22] để lấy cớ  trừng phạt vụ các phóng thủy lôi hạm Bắc Việt đụng độ với khu trục hạm USS Maddox & USS Turney;

— Quyết định chuyển Không Đoàn 18 Tác Chiến từ Okinawa đáp xuống căn cứ Đà Nẵng và cho phép phản lực F-105 vượt vĩ tuyến 17 oanh tạc và thả bom các địa phận thuộc lãnh thổ Bắc Việt, cốt gây áp lực hao mòn địch vận để đưa tới thảo luận ngưng chiến;

— Lần lượt đáp ứng số gia tăng quân lực chính quy [Quân Đội Nhân Dân] đột nhập từ Bắc Việt, phối hợp với quân lực địa phương của Giải Phóng Miền Nam [GPMN], Hoa Kỳ đã gia tăng quân lực từ 16,000 binh sĩ [năm 1963, cuối thời Kennedy] tới con số cao nhất là 537,000 binh sĩ [năm 1968, thời Lyndon Johnson], với sứ mạng duy nhất là canh phòng chung quanh các phi trường và các địa điểm “phòng thủ” trong lãnh thổ miền Nam Việt Nam.

Tổng Thống Lyndon Johnson

TT Lyndon Johnson không rút quân dưới áp lực đòi hoà bình của phe “Bồ Câu”, nhưng cũng không liều lĩnh tiến quân đánh ra Bắc Việt như các tướng lĩnh và phe chủ chiến “Diều Hâu” đòi hỏi, chỉ vì “sợ rằng” đó là những hành vi khiêu khích làm các Quốc gia chủ chốt [Nga Xô & Trung cộng]  phản ứng biến thành Đệ Tam Thế chiến Nguyên tử.  Đó là lý do tại sao TT Lyndon Johnson từ chối không cho Tướng William Westmoreland đem quân sang Lào cắt đứt đường tiếp liệu của Bắc Việt.  Đó cũng là ưu điểm bắt nọn của Nga xô, Trung Cộng và Bắc Việt Cộng sản “thừa thắng” xua hết quân lực xâm nhập Miền Nam mà không sợ ai dám phương hại nội tuyến.

Về phía Việt Nam, Giai đoạn “Hậu Đệ Nhất Cộng Hoà” là một thời kỳ “quân quản” với 10 biến cố chính trị gồm những cuộc đảo chính hụt và những cuộc “chính lý” thay quyền, đổi thế giữa các tướng lãnh, thuộc Hội Đồng Quân Nhân cách Mạng, Ủy Ban Lãnh Đạo Lâm thời, Thượng Hội đồng Quốc gia, Hội Đồng quân Lực và cuối cùng là  Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc gia trước khi thanh lập Việt Nam Đệ Nhị Cộng Hoà với Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu làm Tổng Thống và Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ làm Phó.  Sự bất ổn nội bộ gây thêm trở ngại trong việc xây dựng dân chủ và thực thi bình định tại các nơi sôi động.

Đặc biệt trong giai đoạn này, Biến Cố Mậu Thân 1968 có nhiều trạng thái về mặt quân sự và tâm lý chiến:

  • về mặt chiến thuật, CSVN lợi dụng ngày Tết để phát động một cuộc tổng công kích trên toàn cõi Miền Nam Việt Nam, đã thất bại vì không đem lại cuộc tổng nổi dậy chiếm chính quyền, với hậu quả trực tiếp là hạ tầng cơ sở nằm vùng đều bị tiêu diệt hoặc lộ diện phải rút khỏi nơi công tác dân vận phá hoại.
  • Nhưng về mặt chiến lược, cuộc tổng công kích này đã đem một chiến thắng tâm lý cho CSVN.  Biến cố Tết Mậu Thân đã giúp báo chí và dân chúng thuộc Phe chủ hoà chống chiến tranh Việt Nam bên Hoa Kỳ tuyên truyền gây ấn tượng là Hoa Kỳ và VNCH thiếu khả năng tranh đấu hữu hiệu đến nỗi không đề phòng kịp cuộc công kích.  Một số chính khách và cả Phạm Văn Đồng đã cho rằng CS “thắng cuộc chiến tại Việt Nam trên đường phố Hoa Thịnh Đốn”.  Thật vậy, Việt Nam đã mất vào tay CS ngay trong phòng sinh hoạt gia đình tại Hoa Kỳ, chứ không phải nơi chiến trường tại Việt Nam [Vietnam was lost in the living rooms of America–not on the battlefields of Vietnam].[23]  Thực tế đã cho thấy rõ, sự can thiệp của Hoa Kỳ qua chủ thuyết Be-bờ tại Việt Nam đã bắt đầu bị coi là vô hiệu và vô ích, khi tới cuối nhiệm kỳ của TT Lyndon Johnson, Hoa Kỳ hy sinh hơn 30, 000 binh si tử thương, không kể tin tức, hình ảnh số binh sĩ bị thương xuất hiện hằng ngày trên Ti Vi Hoa Kỳ. 
  1. CHẤM DỨT CHỦ NGHĨA BE-BỜ TẠI VIỆT NAM

Khi thay thế Lyndon Johnson vào năm 1969, TT Richard Nixon bắt đầu tái xét Chủ Nghĩa Be-bờ một cách thực tế hơn, không nhất thiết nhằm chống cộng sản hoặc bênh vực dân chủ.  Với con số tử vong hơn 1,000 binh sĩ Hoa Kỳ mỗi tháng trong suốt 10 năm từ 1963 tới 1972, TT Nixon và ngoại trưởng Kissinger đếu thấy rõ cuộc chiến không thể thắng tại Miền Nam Việt Nam, và họ cũng không thể kéo dài tình trạng cầm cự này lâu dài thêm.

Do đó, theo “đường lối đối ngoại xả hơi” [“Détente”][24], Nixon một mặt gia tăng nỗ lực thương thuyết với Nga Xô về “Chiến Lược Giảm Thiểu Vũ Khí Nguyên Tử” [Strategic Arms Limitation Talks],[25] mặt khác, cử Kissinger giao hảo với Trung cộng để hứa hẹn những điều kiện căn bản nhằm chấm dứt chiến tranh “trong danh dự”[26] tại Việt Nam đối với Hoa Kỳ.

Tổng Thống Richard Nixon & Chủ Tịch Mao Trạch Đông

Trong tinh thần đó, TT. Nixon quyết định giảm thiểu quân số tác chiến từ  537,000 xuống 27,400 binh sĩ vào cuối năm 1972 để chuyển sang giai đoạn “Việt Nam hoá” cuộc chiến [Vietnamization], cũng gọi là “Chủ thuyết Nixon”,[27] bằng cách rút quân sĩ Hoa Kỳ về từng đợt và giao thêm trách nhiệm tác chiến cho Quân Đội VNCH.  Trong giai đoạn này đã xẩy ra những chiến cuộc ác liệt như sau:

  • Cuộc Hành Quân Lam Sơn tháng 2 năm 1971 [Lam Son Operation 719] sang Hạ Lào một mặt có thể coi là chiến thắng cho Quân lực VNCH vì trong cuộc hành quân nầy, QLVNCH đã phá hủy được phần lớn căn cứ hậu cần địch dọc theo hệ-thống đuờng mòn Hồ Chí Minh tại cứ điểm Tchépone. Nhưng mặt khác, cuộc hành quân này hao tốn nhiều xương máu của binh sĩ tham chiến.  Nhiều quân trang quân dụng cùng vũ khí đủ loại kể cả pháo binh và thiết giáp đem vào khi xung trận, lại phải hủy diệt tại chổ hay biếu không cho địch.  Chẳng có đơn vị nào còn nguyên vẹn trong cuộc lui binh rầm rộ, hỗn độn.
  • Trận Thành Cổ Quảng Trị là một trong những trận chiến ác liệt nhất trong Chiến dịch “Mùa Hè đỏ Lửa” 1972.  Cuộc chiến khởi đầu từ trưa ngày 30 tháng Ba, 1972. Quân Bắc Việt [QBV] bất ngờ phóng ra cuộc tấn công lớn nhất trong cuộc chiến Việt Nam. Lần nầy QBV gần như đánh một trận đánh qui ước, với viện trợ rộng rãi và vô giới hạn về đạn pháo, xe tăng Liên Xô và các vũ khí phòng không mới nhất. QBV đã đạt nhiều thắng lợi lúc ban đầu. Sư đoàn 3 QLVNCH thoái lui và tan rã trước sức tấn công của 5 sư đoàn QBV và nhiều trung đoàn xe tăng, phòng không, đại pháo, hoả tiễn đủ loại.   Đến tháng 5 năm 1972 thì QBV chiếm được toàn bộ Quảng Trị. Giữa tháng 6, Quân lực Việt Nam Cộng hòa khởi sự phản công.  Sau 81 ngày đêm tranh đấu, các binh chủng Nhẩy Dù, Biệt kích Dù, Thủy Quân Lục Chiến của QLVNCH đã chiếm lại Cổ Thành.
  • Cũng trong chiến dịch Mùa Hè 1972, sau 54 ngày giao tranh qua 7 cuộc tấn công tại An Lộc, Cộng quân đã thiệt hại khoảng 30 ngàn binh sĩ.  QLVNCH được coi là thắng trận vì Bộ binh và Biệt động quân đã ngăn cản được Cộng quân Bắc Việt khi họ mưu mô tiến đánh Thủ Đô Sài Gòn.  Trong trận An Lộc, Hoa Kỳ một mặt dùng không quân chiến thuật yểm trợ QLVNCH phía Nam An Lộc, mặt khác, sử dụng không quân chiến lược B-52 liên tiếp thả bom phía Bắc thị trấn này để phá hủy kho vũ khí đạn dược mà Cộng Sản Bắc Việt chuyển tới.

Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu  & Tổng Thống Richard Nixon

Sau nhiều cuộc thảo luận, thông đồng sau lưng đồng minh và nhiều điều cam kết với ý định lừa lọc, Hiệp Định Paris được ký kết vào năm 1973, giữa Hoa Kỳ, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà, Việt Nam Cộng Hoà và Cộng Hoà Miền Nam Việt Nam [thành lập năm 1969, do Huỳnh Tấn Phát làm chủ tịch].

Năm 1973, Tổng trưởng Quốc Phòng Schlesinger đề nghị Quốc Hội cho phép thả bom lại Bắc Việt nếu HàNội vi phạm Hiệp Định Paris trong trường hợp họ đem quân đánh lớn tại Miền Nam.  Thượng Viện lập tức ra Đạo luật Case-Church Amendment để cấm việc thả bom này.[28] Do đó, mọi cam kết bênh vực, mọi hứa hẹn ngon ngọt của TT Nixon đối với TT NVThiệu đều phải coi là hư ảo, nếu không muốn gọi là lừa đảo.

Trong khi đó,  QBV thao túng dùng đường mòn Hồ Chí Minh tiếp tục tải thêm đơn vị tác chiến, thêm súng ống, đạn dược đủ loại, với xe tăng, thiết giáp do Trung Cộng tiếp viện để chuẩn bị cho một cuộc tổng tấn công dự tính từ 1975 tới 1976.  Nhưng cuộc Hành Quân 275 dưới quyền chỉ huy của tướng Trần Văn Trà đã đem lại những kết quả nhanh chóng hơn dự tính của Hà Nội.  Sau khi Ban Mê Thuột bị bao vây, TT NVThiệu ra lệnh Tướng Phú rút quân khỏi Pleiku và Kontum ngày 12 tháng 3 năm 1975.  Huế, rồi Đà Nẵng thất thủ vào cuối tháng 3. Cuối cùng, Sài Gòn thất thủ ngày 30 tháng 4 năm 1975, chấm dứt một cuộc chiến 20 năm nhiều hy sinh bẽ bàng.[29]

  • hơn 3 triệu binh sĩ và dân sự Hoa Kỳ đã phục vụ tại chiến tuyến Việt Nam từ 1954 tới 1975, với tổng số 53,193 tử vong, 120,000 bị thương [trong đó hơn 20,000 người vĩnh viễn tàng tật].
  • khoảng 239,587 tử vong phía Việt Nam Cộng Hoà;
  • khoảng 680,000 quân chính quy Bắc Việt và 251,000 binh sĩ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, tổng cộng lên tới 931,000 tử vong;
  • Tổng số tử vong “bên lề chiến tranh” cả Nam lẫn Bắc Việt Nam được ước lượng từ 1 triệu 500 ngàn tới 2 triệu người dân vô tội.

II. PHẢN DIỆN CHỦ NGHĨA BE-BỜ TẠI VIỆT NAM: AI THẮNG, AI THUA? 

  1. Chủ nghĩa Be-bờ diễn tiến tại Việt Nam như một vở tuồng bốn màn:[A] Khai mở với sáng kiến của TT Truman & TT Eisenhower, [B] xác định vị trí “be-bờ“ do TT JK Kennedy & Cố Vấn Bundy, [C] biến hoá cao độ với TT Lyndon Johnson, [D] để lần lượt tụt hậu và chấm dứt trong “danh dự”,[30]với TT Nixon và ngoại trưởng Kissinger.

Sự thực cả bốn cảnh đó gom lại vẫn chỉ là “bề diện ngoài” của một ý đồ bền bỉ, vốn là cái tâm của Chủ Nghĩa Be-bờ: quyền lợi của Tư bản.   Căn cứ vào chính ngôn từ của Chủ Nghĩa Be-bờ, cuộc chiến hạn chế ở nhiều mặt trận trên thế giới và tại Việt Nam nhằm :

  • vừa có tác động be-bờ bảo toàn an ninh cho từng khu vực,
  • vừa làm hao mòn đối tác của cuộc chiến hạn chế, kéo dài, chuyển hoá;[31]
  • vừa vận chuyển guồng máy sản xuất chiến cụ “phòng thủ chiến lược” do tư bản ứng vốn, thu lời.

Cái tiềm lực phồn thịnh lên xuống, đôi khi mang tai ách của hiện tượng mà chính TT Eisenhower e ngại: trí tuệ, thiện tâm đôi khi bị chi phối và tận dụng bởi cơ sở liên kết “Tập Đoàn-Kỹ Nghệ-Quân Sự” [Military Industrial Complex].[32] Cái phương thức đấu tranh cho lẽ phải và hoà bình đôi khi quá đắt, quá đáng:

This conjunction of an immense military establishment and a large arms industry is new in the American experience…In the councils of government, we must guard against the acquisition of unwarranted influence, whether sought or unsought, by the military-industrial complex. The potential for the disastrous rise of misplaced power exists and will persist. We must never let the weight of this combination endanger our liberties or democratic process.” — President Dwight Eisenhower.[33]

Quyền lợi của các tài phiệt sản xuất nhu liệu chiến tranh mỗi lúc mỗi tăng trưởng, mỗi lúc mỗi phân hoá, biến thể làm hao hụt công quỹ và tài lực của dân chúng.  Tổng kinh phí của chiến tranh tại Việt Nam lên tới 111 Tỷ Mỹ Kim [tương đương 900 tỷ Mỹ Kim theo vật giá năm 2016], dù hạn chế vừa đủ để nuối dưỡng cái lò cơ khí đạn dược siêu đẳng này, một lúc nào đó sẽ bị coi là quá đáng, quá mức chịu đựng của công quỹ Hoa kỳ.  Dân sẽ chống đối, vì thuế cao, đời sống đắt đỏ. Và khi tư bản Hoa Kỳ thấy hết lời, hết lợi ích đầu tư, họ rút vốn xoá bài, và mặt trận tiêu thụ nhu liệu đó chấm dứt cái một.

  1. Với cái “tâm” của Chủ Nghĩa Be-bờ trên, chúng ta thấy rõ là lý do tại sao chính thể và quân đội Việt Nam Cộng Hoà chỉ được phép “thi hành” một trận chiến phòng thủ, vừa tiêu mòn, vừa luộm thuộm, vì không ai [kể cả tướng tá Hoa Kỳ] có sáng kiến “đánh thực/thắng thực”, nhất là khi “đồng minh” Việt Nam không hề “thực sự” được giao quyền sở hữu cuộc chiến lẫn định mệnh sống còn.  Quân dân Miền Nam Việt Nam tranh đấu không khác gì những “con cờ người” đem nhiệt tình máu mủ vào một “bàn cờ chính trị quốc tế” viễn kiểm bằng trí tuệ và quyền lợi tài phiệt vô cảm.  Chúng ta biết cảm ơn những binh sĩ trẻ đã tới Miền Nam bảo vệ tính mạng dân chúng và những chính khách, chuyên viên có thiện chí thực sự thi hành công cuộc “be bờ” tạo dựng dân chủ non nớt.  Nhưng chúng ta vẫn ai oán khi “chính trị thực tế” [Real Politics] cho thấy chúng ta thực sự không có chủ quyền quyết định về vận mệnh của chúng ta, ngoài việc nhận lấy những việc đã rồi, xắp xếp sau lưng chúng ta, không một chút liêm sỉ và không mấy thướng xót cho kẻ đồng hành, đồng minh kém vế.

Trong cuộc “Chiến Tranh Việt Nam”, sau tháng Tư 1975, cả chính thể Quốc gia lẫn nhân dân Miền Nam đều thất bại.

  1. Ngay cả Quân đội và Nhân dân Bắc Việt cũng lâm vào cảnh ngộ không sáng sủa gì hơn, nếu không nói là khốn đốn, nguy ngập.Quân đội và Nhân dân Bắc Việt đã thắng nhờ vào kỹ thuật chiến tranh có viện trợ của Nga Xô và nhất là của Trung cộng.  Quân đội CS Băc Việt thực sự đánh cho Nga, đánh cho Tầu.  Họ là kẻ thắng trận, nhưng không hề thắng cuộc. Họ đã chiếm được Sài Gòn, nhưng ngay sau 1975 và tới ngày hôm nay họ đang thua trên toàn quốc Việt Nam vì đối nội thiếu khả năng quản trị Đất Nước trong “hoà bình”, khi mất cớ lừa bịp dân chúng với chiến tranh, và nhất là về mặt đối ngoại khi họ phải trả nợ hơn 50 năm viện trợ Trung Cộng bằng cách xoá bỏ ranh giới, cầm cố đất đai, rừng già, bán biển, bán đảo, bán dân.
  2. VẬY AI LÀ PHE THẮNG TRONG CHIẾN TRANH VIỆT NAM?

“Đồng Minh” Hoa Kỳ, sau khi thực nghiệm bất thành cái gọi là “Containment Doctrine/Cold War-Chủ Thuyết Be Bờ/Chiến tranh lạnh/” đã tháo chạy với hội chứng “Vietnam Syndrome” trên đài truyền hình và tại hậu phương Hoa Kỳ, nhưng thực sự đã “thắng cuộc” để trở thành bá chủ [vô địch] thế giới, tạm cho tới ngày nay.

Tuy nhiên, Hoa Kỳ vì đảm nhận vai vế “hiến binh toàn cầu”, nên vẫn đắm đuối với nhiều tai ương, sóng gió tiếp cận qua các cuộc chiến “tầm gửi” khác trên thế giới, nhất là tại Trung Đông, Bắc Phi, phần nào để duy trì kho bạc “petro dollars” và nhu cầu nuôi dưỡng cơ sở (vĩ đại) phát triển kỹ nghệ chiến cụ –“Military Industrial Complex”, cánh tay phải của uy lực tư bản Hoa Kỳ.

Song song, kẻ thắng trận thứ hai là Trung Cộng.  Thật vậy, Trung Cộng từng đầu tư ồ ạt vào các cuộc chiến “đuổi Tây, đánh Mỹ” xuyên hai thế kỷ, nên sau khi giao lưu “ping pong/coca cola” [How Ping-Pong Diplomacy Thawed the Cold War] với các chính thể Nixon-Kissinger và kế nhiệm, đế quốc cộng sản này đã trở thành “phó chủ” toàn cầu [với kỳ vọng trở thành vô địch nay mai], sẵn sáng nuốt chửng Đông Nam Á, dĩ nhiên cả Việt Nam, Biển Đông, và bất cứ nơi nào thèm “tiền xì dầu” (nhân dân tệ Trung Quốc), hay thấy bắt buộc [chẳng đặng đừng] phải tiêu thụ đồ rẻ, đồ độc “made in China”.

Phải chăng Trung Cộng đang trở thành con khủng long thế kỷ 21, và  Việt  Nam là cái đuôi xã hội mafia của nó?

III. TẠM KẾT:

Cuộc chiến mù mờ trên tại Việt Nam cũng là bài học chung cho những thế hệ sau. Đất nước là của chung, phải định đoạt với nhau, không thể nhờ vả ngoại nhân, vì họ có mục tiêu và quyền lợi của họ.  Cái khôn là biết hợp tác để trao đổi thế lực, trí tuệ và phẩm giá với nhau trong một cộng đồng nhân loại mở, nhưng việc sống chết vẫn là quyết định của từng dân tộc, từng  thể chế tác động nhân danh dân tộc họ, chứ không phải theo quyền lợi của đảng phiệt, của quân phiệt, của tài phiệt.  Không ai sống hộ chúng ta và cũng không ai chết thay chúng ta, ngoài chính chúng ta và con cháu chúng ta.  Cái vinh cùng hưởng, cái nhục cũng cùng chịu, khi theo đuổi, thực hiện trên căn bản quyền lợi và và trách nhiệm chung hay tương tự.

Chúng ta, con cháu chúng ta hãy tránh là nạn nhân lẫn tòng phạm của những cảnh khốn đốn luân phiên, luẩn quẩn bao vây, hủy hoại từng thế hệ này sang thế hệ khác.  Hãy lật ngược những trang bi sử đó và nhất quyết trở thành sáng lập viên chung của một vận nước cao đẹp, cởi mở, tử tế, vững bền, tích cực, trọng sinh, trọng nghĩa mà con người toàn diện được bảo trọng, thân thương.  Việt Nam phải là của dân, do dân, vì dân một cách thực sự, nếu không muốn bị vĩnh viễn xoá bỏ.

Để tránh làm nạn nhân của những cuộc chiến ảo thuật bao vây “be bờ” trong tương lai, toàn thể nhân dân Việt Nam, toàn thể Người Việt trong và ngoài nước, tất cả những Người Việt thực sự yêu Nước phải sớm thực hiện tại Việt Nam, ngay từ bây giờ và tiếp nối trong tương lai một Xã hội Chân chính Nhân bản, tự chủ, tự quyết và một Chính thể Cộng Hoà hiến-định-trọng-pháp-trọng sinh, đa nguyên đa đảng, không chuyên chế độc tài.

Dù là cộng sản hay không cộng sản, dù là phát xít, hay quân phiệt, tài phiệt, chủ trương và quyền lợi của một đảng không bao hàm đủ quyền lợi và nhu cầu của cả một dân tộc. Do đó, cứu cánh của quyền lực phải thuộc về dân. Xây dựng và bảo trọng một Xã Hội Nhân bản Pháp trị & một Chính thể Dân Chủ Chân Chính, Tự do Tự chủ, không bị ngoại xâm là giải pháp vậy. 

TS.LS. LƯU NGUYỄN ĐẠT

PhD, LLB/JD, LLM
Michigan State University

CHÚ THÍCH

[1] “Kennan and Containment, 1947”, Diplomacy in Action, U.S. Department of State

[2] In March 1919, French Premier Georges Clemenceau called for a cordon sanitaire, or ring of non-communist states, to isolate the Russians. Translating this phrase, U.S. President Woodrow Wilson called for a “quarantine.” Both phrases analogize communism to a contagious disease.

[3] Referring to communism in Indochina, U.S. President Dwight D. Eisenhower put the theory into words during an April 7, 1954 news conference: Finally, you have broader considerations that might follow what you would call the “falling domino” principle. You have a row of dominoes set up, you knock over the first one, and what will happen to the last one is the certainty that it will go over very quickly. So you could have a beginning of a disintegration that would have the most profound influences.

[4] “Kennan and Containment, 1947”, Diplomacy in Action, U.S. Department of State

[5] Kennan responded on February 22, 1946 by sending a lengthy 5,500-word telegram (sometimes cited as being over 8,000 words) from Moscow to Secretary of State James Byrnes outlining a new strategy on how to handle diplomatic relations with the Soviet Union. At the “bottom of the Kremlin’s neurotic view of world affairs”, Kennan argued, “is the traditional and instinctive Russian sense of insecurity”. Following the Russian Revolution, this sense of insecurity became mixed with communist ideology and “Oriental secretiveness and conspiracy”.

Soviet behavior on the international stage, argued Kennan, depended chiefly on the internal necessities of Joseph Stalin’s regime; according to Kennan, Stalin needed a hostile world in order to legitimize his own autocratic rule. Stalin thus used Marxism-Leninism as a “justification for [the Soviet Union’s] instinctive fear of the outside world, for the dictatorship without which they did not know how to rule, for cruelties they did not dare not to inflict, for sacrifice they felt bound to demand… Today they cannot dispense with it. It is fig leaf of their moral and intellectual respectability.”

[6] Frazier, Robert. “Acheson and the Formulation of the Truman Doctrine” Journal of Modern Greek Studies 1999 17(2): 229–251. ISSN 0738-1727

[7] At the “bottom of the Kremlin’s neurotic view of world affairs”, Kennan argued, “is the traditional and instinctive Russian sense of insecurity”. Following the Russian Revolution, this sense of insecurity became mixed with communist ideology and “Oriental secretiveness and conspiracy”. Soviet behavior on the international stage, argued Kennan, depended chiefly on the internal necessities of Joseph Stalin’s regime; according to Kennan, Stalin needed a hostile world in order to legitimize his own autocratic rule. Stalin thus used Marxism-Leninism as a “justification for [the Soviet Union’s] instinctive fear of the outside world, for the dictatorship without which they did not know how to rule, for cruelties they did not dare not to inflict, for sacrifice they felt bound to demand…

[8] Gaddis, John Lewis. “Reconsiderations: Was the Truman Doctrine a Real Turning Point?” Foreign Affairs 1974 52(2): 386–402

[9] Kort, Michael (2001). The Columbia Guide to the Cold War. Columbia University Press

[10] Fossedal, Gregory A. Our Finest Hour: Will Clayton, the Marshall Plan, and the Triumph of Democracy. (1993).  Gimbel, John, The origins of the Marshall plan (Stanford University Press, 1976).

[11] Reynolds, The origins of the Cold War in Europe. International perspectives

[12] Amy B. Zegart,  Flawed by Design, The Evolution of the CIA, JCS, and NSC

[13] MacArthur, North Korea. Truman’s No-win policy

[14] Referring to communism in Indochina, U.S. President Dwight D. Eisenhower put the theory into words during an April 7, 1954 news conference: “Finally, you have broader considerations that might follow what you would call the “falling domino” principle. You have a row of dominoes set up, you knock over the first one, and what will happen to the last one is the certainty that it will go over very quickly. So you could have a beginning of a disintegration that would have the most profound influences.”

[15] Eisenhower’s memoirs of his years in the White House, Mandate for Change (1963)

[16] Lynch, Grayston L. 2000. Decision for Disaster: Betrayal at the Bay of Pigs. Potomac Books Dulles Virginia

[17] Assistant Secretary of State Roger Hilsman had written in August 1963 that “Under no circumstances should the Nhus be permitted to remain in Southeast Asia in close proximity to Vietnam because of the plots they will mount to try to regain power. If the generals decide to exile Diem, he should also be sent outside Southeast Asia.”  He further went on to anticipate what he termed a “Götterdämmerung in the palace”. We should encourage the coup group to fight the battle to the end and destroy the palace if necessary to gain victory. Unconditional surrender should be the terms for the Ngo family since it will otherwise seek to outmaneuver both the coups forces and the U.S. If the family is taken alive, the Nhus should be banished to France or any other country willing to receive them. Diem should be treated as the generals wish.” Hammer, Ellen J.(1987). A Death in November. New York City, New York: E. P. Dutton. ISBN 0-525-24210-4.

[18] According to General Maxwell Taylor, Chairman of the U.S. Joint Chiefs of Staff, “there was the memory of Diem to haunt those of us who were aware of the circumstances of his downfall. By our complicity, we Americans were responsible for the plight in which the South Vietnamese found themselves.”

[19] Gettleman, Marvin E. (1966). Vietnam: History, Documents, and Opinions on a Major World Crisis.

[20] Senator Barry Goldwater, the Republican candidate for president in 1964, challenged containment and asked, “Why not victory?”

[21] President Johnson, the Democratic nominee, answered that rollback risked nuclear war. Johnson explained containment doctrine by quoting the Bible: “Hitherto shalt thou come, but not further.”

[22] “Gulf of Tonkin Measure Voted In Haste and Confusion in 1964”, The New York Times, 1970-06-25

[23] Television brought the brutality of war into the comfort of the living room. Vietnam was lost in the living rooms of America–not on the battlefields of Vietnam. –Marshall McLuhan, 1975.

[24] Suri, Jeremi. Power and Protest: Global Revolution and the Rise of Détente. Harvard University Press (2003).

[25] SALT [Strategic Arms Limitation Talk]

[26] With honor

[27] Vietnamization or Nixon Doctrine

[28] Senate passed the Case-Church Amendment to prohibit such intervention. Hitchens, Christopher. The Vietnam SyndromeKarnow, Stanley (1991)

[29]  Battlefield:Vietnam | Timeline

20 Years After Victory, April 1995, Folder 14, Box 24, Douglas Pike Collection: Unit 06 – Democratic Republic of Vietnam, The Vietnam Archive, Texas Tech University.

R.J. Rummell (1997). “Table 6.1A Vietnam Democide: Estimates, Sources & Calculations”. web site. http://www.hawaii.edu/powerkills/SOD.TAB6.1A.GIF. Retrieved 2010-01-01.

Tran Van Tra, Tet, pp. 49, 50.web site (1997). “North Vietnamese Army’s 1972 Eastertide Offensive”. web site. http://www.historynet.com/north-vietnamese-armys-1972-eastertide-offensive.htm. Retrieved 2010-02-01. http://www.hawaii.edu/powerkills/SOD.TAB6.1B.GIF

Kevin Buckley, “Pacification’s Deadly Price,” Newsweek 1972.

[30] Nixon, Richard (1978). RN: The Memoirs of Richard Nixon. Simon & Schuster.Also Text of President Nixon’s radio and television broadcast announcing the initialing of the Paris ‘Agreement on Ending the War and Restoring Peace in Vietnam’

[31] Effect of the containment: The solution, Kennan suggested, was to strengthen Western institutions in order to render them invulnerable to the Soviet challenge while awaiting the eventual mellowing of the Soviet regime.

[32] Pursell, C. (1972). The military-industrial complex. Harper & Row Publishers, New York, New York.

[33] President Dwight Eisenhower, farewell speech to the nation, January 17, 1961

Thảm Họa Kinh Tế Việt Nam Bị Lệ Thuộc Trung Cộng

Nguyễn Bá Lộc

Giữa tháng 12 vừa rồi, Chủ tịch Trung cộng (TC) Tập cận Bình đến VN, trong một bối cảnh thế giới nhiều biến động nguy hiểm hơn, và trong khi đó hiện nền kinh tế Trung cộng (TC) suy sụp có nhiều khó khăn khó giải quyết được trong thời gian ngắn. Hai lãnh đạo cao cấp nhất của “hai nước CS anh em”, Tập cận Bình (TCB) và Nguyễn phú Trọng (NPT) đã có nhiều lần và khá thường gặp nhau, lần nầy thì có vẽ dồn dập hơn, cho nên có thể nghĩ có chuyện gì khác thường. Thực sự, cái căn cơ gốc rễ của mối bang giao của hai nước thâm sâu đặc biệt, và khá bền chặt. Chỉ trong vòng hai năm mà hai Tổng bí thư, Chủ tịch nước và Thủ tướng gặp rất thường như chúng ta biết. Đó có thể vài sự kiện mới liên hệ tới thế tam giác Mỹ, Trung và Việt nam. Có thể trước tình thế mới, lãnh tụ TC nay cần phải nhắc nhở CSVN phải kiên định lập trường và giữ vững niềm tin cậy, và sáng suốt trước các hành động của Hoa kỳ và đồng minh. Mặt khác, có thể TCB cũng muốn cho dân chúng VN và thế giới thấy VNCS vẫn còn trong vòng kềm kẹp của TC, và VN vẫn còn sát cánh bên TC.
VNCS từ lâu lệ thuộc TC cách khác biệt và sâu đậm về các phương diện chánh trị, kinh tế, và an ninh. Trong bài viết nầy, tôi xin trình bày sự lệ thuộc đó về kinh tế trong thời gian gần đây.

I. Con đường dẫn kinh tế VN tới sự lệ thuộc TC

1. Khái quát ý niệm Lệ Thuộc Kinh Tế

Theo nghĩa thông thường lệ thuộc kinh tế (economic dependence) của một quốc gia khi có tình trạng kinh tế yếu về một mặt nào đó, cần phải dựa vào quốc gia khác để phát triển khá hơn. Ví dụ: Tây Âu phải lệ thuộc dầu khí vào Nga, Hoa kỳ trước 2020 lệ thuộc chuổi cung ứng linh kiện điện tử và nguyên liệu dược phẩm của TC. Hàng hóa chế biến của VN lệ thuộc mạnh có tính cách sanh tử vào thị trường Mỹ và Âu châu..
Khi phong trào toàn cầu hóa mở rộng trên thế giới sau chiến tranh lạnh, sự cạnh tranh kinh tế càng quyết liệt, thì sự lệ thuộc kinh tế với nhau càng lớn mạnh. Trong trường hợp thế giới ổn định, thương mại và đầu tư giao lưu bình thường, thì sự lệ thuộc thường hay phụ thuộc kinh tế vào nước kia, thì đó là chuyện bình thường, không có vấn đề nghiêm trọng được đặt ra.
Song, nếu một nước lệ thuộc vượt qua mức độ và tính chất bình thường nói trên một cách quá đáng, thì tình trạng nầy có trục trặc, bất công, và thiệt hại cho một bên. Có thể chánh quyền một nước ở thế mạnh áp bức nước kia, hoặc chánh quyền nước yếu cầu cạnh hay tự dâng hiến quyền lợi đất nước mình, để trao đổi bất chánh một cái gì. Trường hơp này đã xảy ra cho một số nước. Cụ thể là trường hợp VN bị lệ thuộc TC cách bất thường, bất công, và bất chánh.

2. Con đường đưa tới kinh tế VN lệ thuộc TC

Nhu cầu hợp tác kinh tế VN-TC. Từ khi tái lập bang giao (1991), cả VNCS lẫn TC đều có nhu cầu dựa sát lại để tồn tại và phát triển. Tình trạng càng lớn mạnh hơn khi TCB ôm giấc mộng lên lãnh tụ thế giới và cũng từ khi tranh chấp Mỹ Trung càng căng thẳng thêm.
Với TC, thì nhu cầu trên mặt kinh tế phải kềm chặt VN là vì: VNCS và TC có mô hình và sách lược kinh tế giống nhau. TC là thầy của VNCS, nên mọi bàn thảo hợp tác dễ nói dễ bàn và thi hành ít có khác biệt. Thứ hai TC rất cần tài nguyên khoáng sản nhất là dầu lửa, cho phát triển mà trong nước rất thiếu, trong khi đó VN có tiềm năng nầy khá, mà VN thì muốn giao cho TC khai thác, TC dễ ép buộc VN thầu khai thác cũng như về giá cả. Thứ ba, hai nước ở cạnh nhau, nên ngoại thương rất thuận lợi. Thứ tư, kinh tế VN đang phát triển khá, lợi tức dân chúng tăng, TC đưa vô mọi hàng, và người Hoa tràn vô mở cửa hàng khắp nơi nhứt là các tỉnh ở biên giới.
Với CSVN, thì cần phải dựa vào TC là vì sau khi kinh tế CS sụp đổ năm 1985, VN không có lối thoát, nên dựa được TC là may rồi. Thứ hai, TC là thị trường rất lớn cho nông sản VN. Thứ ba, VN rất thiếu mọi thứ nhất là nguyên liệu, phân bón… mà TC có nhiều. Thứ tư, TC có chương trình cho vay ra các nước khá rộng rãi, VN cần vay mượn nhiều từ bên ngoài. Thứ tư, Bộ máy công quyền VN-TC giống nhau, nên khi thực hiện các dự án dễ dàng thương thảo về các điều thỏa mãn cả hai bên, kể cả tham nhũng lớn để chia chác nhau.
Dù một vài chuyển biến mới gần đây, nhưng mối tương quan kinh tế hai bên Việt Trung không thay đổi, mà còn tăng rất nhanh trong khoảng 5 năm nay. Vì vậy, hệ quả tai hại cho VN càng ngày càng lớn, và nay CSVN rất khó thoát ra được, dù VN đạt một số thành quả tốt trong hợp tác với Tây phương.

3.Thực tế “cái thế” yếu của VNCS trong lệ thuộc TC.

Thực tế, VNCS bị cưỡng bức và tự dâng cho TC trong cái gọi là hợp tác chiến lược toàn diện. Chúng ta có thể thấy được cái yếu thế của VNCS qua thực tế, qua cả dự án kinh tế lớn mà VN đưa cho TC không qua thầu công khai, và qua các phái đoàn VN-TC qua lại khai triển các dự án , các kế hoạch và các mưu mô thầm kín. Chúng ta cũng có thể hiểu qua rất nhiều Hiệp ước kinh tế mà hai bên đã ký. Và cũng có thể hiểu qua thái độ gần như sợ sệt của CSVN về sự vi phạm lãnh hải VN, hoặc các sự kiện quốc tế VNCS theo y như TC về lập trường và sự kiện thế giới.
Có thể tóm tắt những thỏa ước toàn diện và chiến lược VN-TC. Kể từ khi TC-VN nối lại bang giao (1991), hai bên ký rất nhiều thỏa ước về kinh tế, trong đó có các cam kết kín. VN bị đặt vào cái “tròng”phải tuân theo ý của TC. Không kể các Thỏa ước về an ninh, và chánh trị, các thỏa ước kinh tế gồm đủ mọi lãnh vực kinh tế. Một số thỏa ước quan trọng như: Thỏa ước hợp tác xây dựng “Hành lang kinh tế Việt Trung” (2008), “Thăm dò dầu khí và tài nguyên khác dưới biển” (2011), năm 2013 hai bên ký Thỏa ước Mậu dịch, hạ tầng cơ sở, và năm 2017 khi Tập cận Bình đến dự Hội nghị APEC, VN-TC ký thỏa hiệp về kinh tế trong đó có xây dựng đường xe lửa, kiểm soát quyền lợi lãnh hải. Sau chuyến đi đó của Tập, hai bên ký một loạt 83 thỏa ước chi tiết hóa thực hiện các cam kết. Sau cùng trong lần Tập đến vừa rồi, hai bên có 36 thỏa hiệp gồm nhiều lãnh vực từ chánh trị, an ninh và kinh tế.
Sau khi ký các thỏa ước, nhiều phái đoàn chánh phủ hai bên gặp nhau thường xuyên để lập kế hoạch thực hiện các thỏa ước. Tiến trình thi hành các cam kết các phương án hai bên đã hứa.
Ngoài sự gặp gỡ rất thường xuyên của các lãnh đạo cao cấp hai bên, tình trạng chưa thấy có quốc gia nào gắn bó với siêu cường TC như vậy trong độ chục năm gần đây. Cũng như VN chưa bao giờ đi ngược lại quyết định hay biểu quyết vấn đề quốc tế của TC.

II. Những lãnh vực kinh tế VN bị TC xâm lấn

Sau đây là những lãnh vực kinh tế bị TC ép buộc bị lệ thuộc hay tự CSVN muốn đưa tới sự lệ thuộc đó:

Tài nguyên khoáng sản, dầu mỏ. TC phát triển mạnh, nhu cầu nguyên liệu và khoáng sản nói chung TC phải nhập từ 40-50%. VN dâng cho TC (Công ty quốc doanh Chalco) khai thác hai quặng nhôm Giá rai và Nhân cơ (Trung nguyên) bằng đấu thầu giả (2015) hai gói thầu trị giá 980 triệu mỹ kim trong số dự trù các dự án khoáng sản trong 10 năm lên tới 15 tỷ mỹ kim. TC cho VN vay, và một đấu thầu giả cho TC trúng thầu, trong lúc có những công ty Mỹ, Anh, Úc có trình độ cao hơn công ty TC nhiều. VN phải số quặng nhôm đào được bán hết cho TC với giá rẽ. Lúc đầu chánh quyền VN ước tính mỗi năm thu về ít nhứt 200 triệu đô, nhưng sau khi khai thác (2018), mỗi năm lỗ gần 200 triệu đô. TC và VN còn hợp tác khai thác quặng sắt và sản xuất thép, công ty thép Thái nguyên, đầu tư hàng trăm triệu rồi bỏ đi sau 8 năm.
Quan trọng nhất là dầu khí. Theo khảo sát ước lượng tiềm năng dầu khí, VN có tiềm năng 4,4 ngàn tỷ thùng dầu thô, và 24,7 ngàn tỷ mét khối khí đốt. VN đã cho một số công ty ngoại quốc dò tìm trong nhiều năm qua. Nhưng TC tìm cách ngăn cản, cho là vùng lãnh hải của TC và xua đuổi các giàn khoan ngoại quốc. Một mặt, TC đem giàn khoan Hải dương HQ 981 vào lãnh hải VN ở Trường sa. Chỗ HQ 981 tìm kiếm dầu cách Nam hải 180 dặm, và cách đảo Lý sơn (Quảng ngải) 120 dặm, mà TC cho là vùng của họ. Dù HQ 981 rút đi, nhưng tranh chấp vẫn còn đó. Ngoài ra, số dầu khai thác được trong những năm qua phải bán cho TC, trong đó có việc bán lậu để chia chác, ước lượng tới 20-30% tổng số dầu thô VN khai thác được.
Gần đây VN khám phá có mõ đất hiếm, một loại khoáng sản rất cần thiết cho một số ngành kỹ nghệ quan trọng. VN có thể có trữ lượng đứng hạng nhì sau TC. TC muốn khai thác loại nầy, loại mà TC đã độc quyền từ lâu, nên Tập có đề cập trong lần qua VN kỳ nầy.

Xuất nhập cảng: Thương mại hai chiều, TC là đối tác lớn nhứt của VN. Nhưng VN phải nhập hàng TC quá nhiều thứ với số lượng trị giá gấp 3 lần hàng VN xuất qua TC. VN nhập siêu trong 10 năm qua trung bình 35-40 tỷ mỹ kim/năm, và mỗi năm mỗi tăng thêm. Con số nầy tương đương với số xuất siêu của VN qua Mỹ, tức là ngoại tệ từ Mỹ đưa qua cho Tàu gần hết.
Vài chi tiết, năm 2000 (tỷ mỹ kim) VN xuất $1,536, nhập vào $1,401, nhưng đến 2015 thì VN xuất $16,563, nhưng nhập tới $65,573, VN nhập siêu -$32,891, sang 2020 xuất $48,905 nhập $84,186 nhập siêu -$35,281, và trong 11 tháng 2023 VN xuất $61,4 nhập $140,8, nhập siêu -$69.8, nhập siêu tăng 3 lần từ 2015 tới nay, (Tân hoa xã 12/12/23).
Khi một nền kinh tế có sự chênh lệch nhập siêu quá cao, khi có một số hàng không thiết yếu mà nền kinh tế còn yếu, thì phải xem lại và cố cân bằng cân ngoại thương.

Đầu tư TC (FDI) tại VN: TC đầu tư ở VN tăng một cách nhanh chóng và bất thường trong 10 năm qua. Các lý do TC đầu tư nhiều và nhanh ở VN: Thứ nhứt, Chánh sách TC trong thập niên qua bung ra ngoại quốc, Thứ hai, VN có nhiều điều kiện kinh tế, chánh trị, văn hóa rất thuận lợi cho TC. Thứ ba, Mỹ và nhiều nước Âu châu gia tăng hợp tác kinh tế với VN. Thứ tư, TC bị cấm vận trong chiến tranh lạnh mới đẩy TC phải tìm con đường lách né bám sát sát về kinh tế và chánh trị. Tình hình FDI của TC ở VN được tóm tắt :
Trước năm 2000 FDI của TC không đáng kể, tới 2011 có một số dự án, nhưng còn nhỏ chỉ có $700 triệu mỹ kim, Năm 2018 lên $2.400 triệu, được hạng 9 trong các nước ngoài đầu tư ở VN. Nhưng đến 2019, FDI TC nhảy vọt lên hạng 3 với $7.100 triệu (Yosof Isank Intitute 4/2019), và 2022 FDI của TC lên hạng nhứt với $23.5 triệu. (VN Express Internatioal 9/2023).
Trong vòng 12 năm FDI của TC tăng hơn 7 lần. FDI của TC đủ mọi thứ mọi ngành, từ khai thác dầu và khoáng sản tới tơ sợi, sắt thép, máy móc điện tử, khu nghĩ dưỡng nhà đất, đến tiệm tạp hóa , tiệm thuốc Bắc, tình hình tràn ngập khắp nước.
Nhứt là từ khi VN mở rộng cho Hoa kỳ và Tây Âu, Hiệp định CPTPP, EUFTA, và nhiều nữa..
Vay nợ và thầu công trình: Chương trình này mở rộng từ khi TCB lên làm Chủ tịch TC. Viện trợ kinh tế và thầu thi công các dự án nước ngoài là hai mặt của đại kế hoạch vừa có tính cách kinh tế vừa quân sự vừa ngoại giao, nó có liên hệ tới mục tiêu đại bá TC.
Mục đích chánh là đem tiền có dư thừa nhiều cho các nước nghèo vay phần lớn là xây dựng hạ tầng cơ sở. Khi cho vay, với các điều kiện là phải để TC thầu thực hiện phương án, bán vật liệu và đem đến nhiều công nhân viên người Hoa. Có thể kể ở đây:
Dự án đường sắt Cát Linh – Đông Hà, Công ty Gang thép Thái nguyên, một số xa lộ, phi trường và hải cảng như Vân đồn ở Quảng ninh, các nhà máy nhiệt điện ở Bình thuận và Vĩnh Bình (tổng số vốn đầu tư tới 6 tỷ mỹ kim).
TC cho VN vay khá lớn, từ 2000-2017 VN vay $16.3 tỷ mỹ kim (The Diplomat 2010). Lãi suất rất cao (4%) gấp đôi lãi suất vay của Nhựt, Âu châu. TC đòi thế chấp rất cao. Mục đích không trả nợ nỗi sẽ bị TC quản lý tài sản thế chấp. Các dự án lớn vay nói trên nằm trong đại kế hoạch Belt & Road (BRI) của TC.
Phương án đặc biệt: TC dùng nhiều phương án và kế hoạch lớn để ép VN trên nhiều mặt vừa kinh tế, vừa an ninh, và văn hóa. Xin tóm tắt các phương án:
Hành lang kinh tế Việt Trung, nối TC với các tỉnh miền Bắc VN, qua bốn đường bộ và một đường sắt nối Côn minh (Vân nam) đến Hải phòng. Chi phí chung 4 tỷ (2 tỷ do Ngân hàng Á châu viện trợ). Thực hiện từ 1992 và đã xong. Trong chuyến đi qua VN vừa rồi của TCB ký 36 dự án về an ninh, kinh tế, .. trong đó có nói tới xây dựng đường xe lửa thứ hai, Quảng tây – Hải phòng .
Hiệp ước VN- TC thăm dò dầu khí khu vực lãnh hải VN (2013). VN hợp tác TC tìm kiếm và khai thác dầu khí ở vùng lãnh hải VN và cà vùng lãnh hải mà TC tự cho là của mình, cho nên có xảy ra sư tranh chấp, nhưng tới nay tình trạng chưa giải quyết, vì áp đảo của TC.
Đặc khu hành chánh kinh tế (2017) Vân đồn (Quảng ninh), Vân phong (Phú khánh), và Phú quốc (Kiên giang). Đây là các khu vực đặc biệt nó thích hợp cho sự chiếm đóng của TC về đất đai, về di dân Tàu theo truyền thống, và căn cứ quân sự tương lai trong vùng. Vì sự chống đối mạnh của dân chúng, chánh quyền VN tạm không ban hành luật nầy. Nhưng thực tế, các công ty TC đã qua xây dựng một số hải cảng, phi trường ở Vân đồn dựa theo cam kết trước và theo luật trước hay đôi khi bất cần luật lệ gì.
Phương án Vành đai & Con đường (BRI) 2013, đây là kế hoạch lớn trên khắp thế giới, nó nằm trong tham vọng bá quyền của TCB.
VN còn là thành viên của Hiệp định đa phương qui mô rất lớn của TC thiết lập, Hiệp ước hợp tác thương mại, RCEP (2020), chánh yếu là TC muốn kết hợp và nắm các nước ASEAN.
Trên đây là các phương án hay hợp tác kinh tế giữa TC và VN nó vừa mang mục tiêu kinh tế vừa an ninh. Hầu hết phương án nầy mang lợi cho TC nhiều hơn cho VN.

III. Những thiệt hại nghiêm trọng và vấn nạn tồn tại

VN là một điển hình về mức độ phát triển, về mục tiêu, nhứt là về cách vận hành guồng máy chánh quyền, cho nên sự gian xảo, cách độc ác với dân, cách dối trá với quốc tế, hai nước CS thực hiện sự “hợp tác” cách nhịp nhàng. Nhưng VN, đứng về phương diện quần chúng thì chịu quá nhiều thiệt hại về tinh thần lẫn vật chất. Cũng có phần nào có lợi cho VN, trong đó lợi cho đảng và đảng viên dính líu tới các hoạt động kinh tế TC, nhưng cái lợi cho TC nhiều hơn. Có thể tóm tắt các tai hại lớn cho VN như dưới đây:

1. Thiệt hại về mặt xã hội và chánh trị:

Chủ quyền quốc gia và sự độc lập của dân tộc bị mất hay ít nhứt bị xoáy mòn. Điều nầy là một đau thương lớn nhứt cho dân tộc VN.
Nạn tham nhũng do hai bên cấu kết trầm trọng thêm và không cứu chữa nỗi. Những tham nhũng kinh tế lớn có liên quan với sự vay nợ hay thầu thi công với TC. Hoặc các vụ tham nhũng liên hệ nhà đất, ngân hàng, hầu hết có dính đến người Hoa ở VN hay người Hoa từ ngoài vào.
TC dẫn VN theo con đường phi dân chủ, phi tự do trong kinh tế. Nền “kinh tế thị trường XHCN” không phải là kinh tế tự do thực sự, điều nầy có hại theo Thỏa hiệp kinh tế với Tây phương.
VN và TC không có thực hiện tôn trọng về nhân quyền trong kinh tế mà hai nước có cam kết với quốc tế, trong đó quyền công nhân là quan trọng nhứt.
Trong kinh tế đối ngoại, VN có giả dối trong các Hiệp ước Thương mại và đầu tư quốc tế với Tây âu mà VN rất cần, qua những vụ đấu thầu công khai. Nhưng với TC thì VN và TC không bao giờ đặt ra những vấn đề nầy về mặt Dân chủ và Nhân quyền, TC và VN còn dối quốc tế bằng cách hàng TC chuyển qua VN, dán nhản xuất xứ lại và tái xuất đến Âu Mỹ để tránh thuế cao do bị cấm vận.
Sự gian xảo trong thương mại theo con đường chánh hay theo con đường tiểu ngạch càng ngày càng khủng khiếp, hàng lậu , hàng trốn thuế, trốn kiểm soát, hàng hóa giả, thiệt hại hàng tỷ đô.
Các khu casino TC đã và sẽ, có một số tạm ngưng, đầu tư ở VN là nơi sản sinh đủ loại tệ trạng xã hội. Casino và khu nhà ở cho di dân là kế hoạch lớn cho TC.

2.Thiệt hại về kinh tế trực tiếp:

Tài nguyên kinh tế VN bị khai thác mạnh và thiệt hại với giá rẽ. Nhứt là dầu khí là tài sản quí giá.
TC ép VN nhập cảng quá nhiều hàng hóa, trong đó có nhiều món VN có thể tự làm ra được, với chánh sách giá rẽ, tràn ngập khắp nước, làm kỹ nghệ trong nước bị khó khăn và trình độ phát triển kinh tế khó đạt mức tự lực tự cường.
Kỹ nghệ trong nước bị hai khó khăn là hàng TC mọi thứ quá rẽ và tràn ngập, kể cả trang bị máy móc mua của TC với phẩm chất kém. Phần lớn kỹ nghệ VN chỉ là ráp nối hay kỹ nghệ sơ đẳng chế biến nông hải sản.
Chuyên viên và công nhân đi theo các công ty TC trúng thầu, làm thất nghiệp của VN càng cao
VN phải nhập quá nhiều nguyên liệu cho các ngành rất quan trọng như 80% tơ sợi cho ngành may mặc, ngành giày dép. Sau khi VN ký Thỏa hiệp thương mại CPTPP và EUFTA, hàng may mặc phải sử dụng nguyên liệu VN hay nước thành viên, TC nhào qua lập nhà máy sản xuất tơ sợi.
Nông nghiệp VN bị khó khăn không nhỏ, do chánh sách nhập phân bón thuốc sát trùng từ TC chiếm trên 75% nhu cầu, phải chi hàng tỷ đô cho loại mà VN có thể sản xuất được.
Nông sản VN có thể bị khó khăn vì sự thay đổi bất thường của TC .
Cách thức viện trợ kiểu TC đễ đưa tới cái kẹt cho nước đi vay, nó như “cái bẩy”, không trả nợ nỗi, thì bị chủ nợ siết tài sản thế chấp, đàng nào TC cũng có lợi.
Sau cùng, sư mở rộng du lịch và các khu nghĩ dưỡng cho người Hoa ồ ạt tới VN định cư lâu dài là chiến thuật tạo ảnh hưởng chánh trị và hỗn tạp văn hóa của chánh sách “cộng đồng người Hoa hải ngoại”.

3.Vấn nạn tồn tại.

Trong ba mươi năm dưới sự áp đảo và chiếm đoạt kinh tế cách bất công. Giữa hai đảng thì là “đồng chí tốt”. Nhưng với hai “dân tộc”, hai “láng giềng” và hai “đối tác”, là không tốt. Sự thiệt hai rất nhiều. Tương lai, hãy còn nhiều khó khăn thiệt hại tồn tại. Có thể là:
Sách lược và con đường phát triển giống nhau. Kinh tế đang xuống và chưa có dấu hiệu chấm dứt, TC phải bung ra ngoài để tìm lợi ích kinh tế bù đắp vào, và bị đính thêm chương trình BRI.
VN còn phải nhập nhiều hàng TC, nhất là máy móc và phân bón, đồ gia dụng cho nên nhập siêu phải tiếp tục tăng lên cao nữa. Đó là bất lợi cho một nước đang phát triển.
Dầu khí sẽ còn là sự tranh chấp quan trọng trong tương lai, khi VN TC chưa giải quyết rõ ràng lãnh hải, nhứt là khi Mỹ có dự định tham gia khai thác khí đốt, hay tiếp tục hơp đồng với Exxon.
Kỹ nghệ VN sẽ còn gặp khó khăn do FDI TC tràn vào đầu tư mọi thứ mọi ngành, lợi dụng ngoại thương VN để tranh bớt hệ quả do cấm vận của Tây phương.
Nông sản bán cho TC sẽ còn những lúc khó khăn về số lượng hay giá cả.
VN còn phải vay nợ TC nhiều cho các dự án lớn xa lộ, đường hỏa xa, cảng. Khi nhờ TC phải gánh nặng trả nợ hay bị điều kiện bất lợi khác, kể cả vấn đề an ninh.

IV. Vị thế VN trong “Cộng đồng TC”, và trong “thế cân bằng” vùng Á châu Thái bình dương

Nhân kiểm lại và cập nhựt bang giao kinh tế Việt Trung trong tình hình thế giới có diễn biến mới trong bang giao của “tam giác Mỹ Trung Việt”. Ở đây có hai vấn đề liên hệ.

1.Vị thế VN trong “Cộng đồng TC”

Tuyên cáo chung của hai lãnh đạo VN- TC trong cuộc gặp hai lãnh đạo ngày 12-12-23, có đề cập “tiêu đề ngoại giao” trong một nhóm hợp tác với TC, đó là “Cộng đồng chung vận mạng” (Community of common destiny). Tuyên cáo nầy viết bằng ba thứ tiếng: Anh, Trung và Việt. Báo ngoại quốc xử dụng bản tiếng Anh có câu “Community of destiny” hay “Community of common destiny”, báo Trung hoa thì dùng chữ “ Công đồng chung vận mạng” (Community of common destiny) , còn báo chí VN thì nói “Cộng đồng chia sẻ tương lai” (Community of shared future” . Như vậy có sự khác biệt phần bản tiếng Việt, mà theo tin báo ngoại quốc thì Nguyễn Phú Trọng có “endorsed” trong bản tiếng Anh.
Theo như trên thì “tư cách thành viên” của VNCS với một số thanh viên của loại Cộng đồng chặc chẽ của TC. Thực sự các tên Cộng đồng nói trên hãy mơ hồ, quan trọng là những chi tiết cam kết giữa hai bên, mà thường với CS đó là vấn đề “mật”.
Dù giải thích cách nào, đối với dân chúng Việt nam, gần như không quan tâm. Đó chỉ cho những người ngoài cuộc.
Các tiêu đề hay thuật ngữ chánh trị kiểu Tàu (từ xưa tới nay các triết gia chánh trị Tàu thường ưa dùng chữ rất kêu, nhưng thường là rỗng) đã đươc đặt ra và xử dụng trong hơn 10 năm qua, trong nhiều lần tuyên bố hay diễn từ của Tập cận Bình .
Trước hết chữ “common destiny” được nói ra đầu tiên từ Chủ tịch Hồ cẩm Đào (2012). Sau đó Tập cận Bình lập lại nhiều lần trong các buổi họp ngoại giao quốc tế, kể cả những lần ông gặp NPTrọng (2017), và ông Hunsen của Cambodia và lãnh tụ Lào.
TCB đưa ra ý niệm “Cộng đồng chung vận mạng” là từ khi ông đưa ra mô hình và sách lược ngoại giao mới là: “XHCN trong thời đại mới”, và “mộng bá quyền toàn cầu”, hay ý kiến về “Trật tự thế giới mới”. Như vậy, lúc đó TCB đã định hình thế giới, phân ra các cực quyền lực, hay các khối mà bước đầu tiên TC muốn thay đổi “độc bá quyền” thế giới do Mỹ lãnh đạo từ sau thế chiến II.
Năm 2013, TCB dùng câu”common destiny” khi nói chuyện ở Viện bang giao quốc tế của Nga, và một lần nữa trong buổi họp với các nước Trung Á (2015), Tập cũng dùng “common destiny” trong thỏa ước chung với Cambodia và Lào trước kia.
Sau đó vài năm thì Tập cận Bình dùng “Cộng đồng chia sẻ tương lai” trong những buổi nói chuyện với các Cộng đồng tương đối mở rộng hơn. Trong đó có tại đại Hội đồng Liên Hiệp quốc 2017 (Asian Journal of Middle Eastern 2017), Tập nói: “mọi quốc gia trên thế giới cần hợp tác xây dựng một tương lai chung cho nhân loại”, ông dùng tiêu đề “Cộng đồng chia sẻ tương lai của nhân loại” (Community of shared future for mankind).
Qua chút diễn đạt trên, chúng ta có thể hiểu TC muốn kết hợp và tạo đồng minh qua hai mức gắn bó. Một là loại Cộng đồng có vận mạng chung, nó chặc chẽ, sống chết có nhau, có thể như một “khối”, có thể hiểu đó là một “Liên minh” theo quan điểm Tây phương. Cái Cộng đồng thứ hai (chia sẻ tương lai) rộng lớn hơn, lỏng lẽo, có nhiều khác biệt nhưng cũng có một số mục tiêu chung với TC. Thành viên của Cộng đồng nầy đa số là các nước đang phát triển mà TC nhắm tới và lôi kéo từ hàng chục năm nay.

Thực tế, Cộng đồng thế giới theo ý niệm hay theo kiểu TC, có thể tóm tắt thành 4 loại, hay 4 mức độ về thành viên liên hệ dưới trướng TC:
A.”Cộng đồng của nước Trung hoa”. Gồm nước Trung hoa vĩ đại và các “khu vực tự trị” không có chủ quyền hoàn toàn như Tân cương, Tây tạng. Và các cộng đồng nhỏ ở hải ngoại trên thế giới, có liên kết với tổ quốc chánh là Trung hoa lục địa, đó là Cộng dồng người Hoa kiều ở hải ngoại, dù loại cộng đồngnhỏ, nhưng có tầm quan trọng đặc biệt về kinh tế, văn hóa và tình báo. Chúng ta biết khá nhiều các cộng đồng Hoa kiều hải ngoại rất mạnh nó chẳng những nắm rất lớn kinh tế mà cả chánh trị trong nhiều nước, đặc biệt ở Á châu như Cambodia, Lào, Thái lan, Malaysia, Singapore, Indonesia, Miền Nam Việt Nam trước 1975, và cả nước VN hiện nay. Dĩ nhiên không phải người Hoa nào cũng theo Trung hoa CS. Nhưng về kinh tế, những người Hoa hải ngoại khá hữu ích cho Trung hoa lục đia, có thể gọi là “cộng đồng A+”
B.”Cộng đồng chung vận mạng”, như nói ở trên, đó là tập hợp của một số nước đàn em hay bạn bè chí cốt. Có cùng mục tiêu, cùng con đường, sống chết có nhau.
C.”Cộng đồng chia sẻ tương lai”. Sự kết hợp lỏng lẽo, có một số mục tiêu chung, và một số quyền lợi chung. TC vận dụng trong các nước đang phát triển, một nhóm quốc gia rất đông và khá phức tạp “Cộng đồng C”. Trong loại Cộng đồng này có gồm một số cộng đồng nhỏ, nghĩa là số nước tập hợp do TC có vai trò quan trọng nhứt. Có thể gọi “Cộng đồng C+”. Nhóm nhỏ nhưng mạnh, có thể kể Liên minh TC, Nga và Iran . Nhóm lớn nói trên thì TC kết hơp trước hết là viện trợ, là đại dự án Belt & Road (150 thành viên).Thực sự “Cộng đồng chia sẻ tránh nhiệm” còn nhiều bất đồng và khác biệt, thứ hai là những nước nầy còn bị dao động bởi sự vận động lôi kéo của Tây phương trong những năm gần đây.
D.”Cộng đồng toàn thế giới”. Đó là tất cả mọi quốc gia trên quả địa cầu nầy, không phân biệt lớn nhỏ, không phân biệt mức độ kinh tế hay thể chế chánh trị. Cái nầy thì hãy còn rất mơ hồ. Nó chút gì gần ý niệm của triết lý Trung hoa xưa, Khổng Tử thường dùng từ “thiên hạ” , và thêm một chút triết lý Các Mác, ông nầy thường nói là “Global society” hay “Human society” để chỉ cái gọi là “Thế giới đại đồng” của CS.
Vậy VN ở trong loại Cộng đồng nào do TC vẽ ra và lãnh đạo ? VN hiện tại có thể đính vào các công đồng kiểu TC hay “made in China” nói ở trên.
Loại A+, Vì Hoa kiều ở VN nắm các ngành kinh tế trọng yếu như nhà đất, trong kỹ nghệ chế biến, trong các khu nghĩ dưỡng cho người Hoa lục địa , hành lang kinh tế Việt Trung. Hoa kiều ở VN còn là đường dây tình báo quan trọng.
Loại B, VN chắc chắn ở trong cộng đồng loại nầy của TC về thực tế , “Chung vận mạng”, dù bề ngoài chánh quyền hay báo chí VNCS có đồng ý hay không .
Và VN cũng ở trong cộng đồng loại C (Chia sẻ tương lai) về nguyên tắc trong một số trường hợp, mà VNCS muốn nói với dân và quốc tế rằng VN không bị TC kềm kẹp.
Với mức độ lệ thuộc chặc chẽ tai hại như vậy, không phải chỉ VN mà tất cả các nước bị TC kềm kẹp như một loại “thực dân đỏ”, quốc gia nào cũng muốn thoát Trung hay giảm bớt lệ thuộc TC.
Trong mối tương quan Việt nam- TC hiện nay, khi nói đến “thoát Trung “ phải biết ai muốn thoát Trung, CSVN hay người dân Việt nam? Người dân thì đã nhiều lần tỏ thái độ và mong ước này. Chánh quyền phải không bỏ tù dân khi dân phản đối sự áp bức thô bạo từ TC.
Còn CSVN không muốn và không thể, vì vấn đề sinh tồn và quyền lợi của đảng CS. Hơn nữa TC đâu có muốn để VN thoát ra khỏi cái gọng kềm, nhứt là trong Chiến tranh lạnh mới hiện nay.

2.Vị thế VN trong “thế cân bằng Mỹ Trung”.

Việt Nam trong thế cân bằng Mỹ-Trung: Ngoại giao kiểu “Cây Tre”?

Trong mấy lần trước, tôi có nói qua cái thế kẹt của VN trong sự xung đột Mỹ Trung, nhứt là tại vùng Á châu Thái bình dương.Tình trạng càng ngày càng căng thêm. Trong phần cuối của bài này, tôi xin ít bổ xung và cập nhựt với một vài diễn biến mới trong năm qua.
Về chánh tri và ngoại giao, Cả Mỹ và TC đều đến sát VN, qua việc TT Biden và TCB đến VN . Nhưng Mỹ thì có vẻ tới nhiều hơn vì VN-Hoa kỳ nâng cấp ngoại giao lên Chiến lươc toàn diện. Lại thêm Nhật, đồng minh với Mỹ, cũng được lên cấp ngoại giao cao nhứt này. TCB qua VN rà soát và xác minh VN TC phải nắm chặt tay hơn về các lãnh vực, nhứt là về kinh tế và an ninh.
Về kinh tế, Mỹ hứa sẽ có những món đầu tư lớn cho VN trong khí đốt, đất hiếm, đường xe lửa, môi trường, kỹ nghệ kỹ thuật cao (Quan hệ Việt Mỹ là một trong bang giao quan trong nhứt, (VOA, 5/2023) .. Mỹ hứa sẽ mang đến hàng chục tỷ cho tương lai gần. Công ty Mỹ ở TC chuyển sang VN nhiều hơn, nhứt là công nghệ chip. Mặt khác, để đối trọng lại đại kế hoạch Belt & Road của TC, Hoa kỳ và khối G7 tung ra $1000 tỷ cho các nước đang mở mang vay xây dựng hạ tầng cơ sở. Còn TC thì mở rộng đầu tư tại VN rất nhanh trong hai năm qua, gia tăng ngoại thương .. như trình bày phần trước.
Năm qua, có sự bất lợi cho chính TC về kinh tế do khủng hoảng địa ốc và ngân hàng. Tình trạng nầy làm cho TC giảm bớt đầu tư và cho vay cho các nước Đông nam Á, trong đó có VN.
Về an ninh và quân sự, đối với Mỹ vùng Á châu Thái bình dương có mức quan trọng hàng đầu. TC đã ảnh hưởng khá nhiều ở đây, Mỹ và đồng minh không có cách nào khác là phải bao vây và đụng độ với TC.
Tình hình có thể trở thành nóng vì vấn đề Đài loan, nên hai năm qua, Mỹ và đồng minh kết hợp lớn hơn và chặt hơn bao giờ hết kể từ sau Chiến tranh lạnh I. Mỹ đã liên minh được hầu hết với các đồng minh quan trọng như Nhật, Úc, Anh, Tân tây Lan, Ấn độ, Singapore. Cũng cố Liên minh Mỹ, Nhật và Nam hàn. Đặc biệt sự quay lại của Phi luật tân, và sự đi gần thêm về an ninh của Mỹ và VN.
Như vậy nhìn chung trong bước mới nầy: VN đi nhiều với Mỹ hơn. Nhưng từ đầu tới nay thì VNCS vẫn phải lệ thuộc mạnh với TC về phần hồn lẫn xác hơn với Mỹ. Và cách thức VN tiếp xúc hay làm việc với lãnh đạo TC, và cả thái độ ngoại giao của VN với TC trên bình diện quốc tế, chúng có thể thấy phần nào CSVN có thái độ “đu giây” giữa Mỹ và TC.
Nhưng dù có vài điều mới, nhưng cách giao dịch giữa TC và Mỹ, chưa có thay đổi tình trạng cũ bao nhiêu, chánh yếu là vì quyền lợi kinh tế của hai bên và kinh tế thế giới mà chưa có đụng độ mạnh hơn, nhưng hai bên tiếp tục vận động kết hợp bạn bè, đồng minh giống như chuẩn bị cho một trật tự thế giới mới, nhưng lần nầy có nhiều cái khác, so với thời Chiến tranh lạnh I, về bạn và thù, về đối tác và đối nghịch, hai lằn ranh địa lý và địa chánh trị cũng lộn xộn, không minh bạch, không nhứt quán. Như vậy, CSVN vẫn phải kẹt với TC rất nhiều, dù trong cái thế mềm dẽo, linh động nào. Còn VN với Mỹ chỉ có lẽ là kinh tế, hay đúng hơn VN lợi dụng thời cơ khi Mỹ và Âu châu và một số nước giàu khác chỉ về kinh tế, và không phải là “đồng minh” hay “liên minh”. Cái sách lược ngoại giao mà nay VNCS gọi là “ngoại giao cây tre” là hợp lý trong hoàn cảnh hiện nay. Tình hình thế giới còn thay đổi và phức tạp.
Lịch sử VN cũng như lịch sử thế giới cho chúng ta nhiều bài học. Cái mối “bang giao nghiệt ngã” với TC, và cái gọi là “tình bằng hữu” với Hoa kỳ, thực tế có những lúc gặp đau thương. Khi nào dân tộc và đảng cầm quyền có cùng đi chung một con đường, thì lúc đó VN mới hy vọng có những buổi bình minh lâu dài.

Nguyễn Bá Lộc

Cali, January/ 01/2024

Thực Lực Của Người Việt Tỵ Nạn Tại Hải Ngoại

TS LS Lưu Nguyễn Đạt

Từ 1975, hơn bốn triệu người Việt Tỵ Nạn định cư và sinh sống tại hải ngoại, trên khắp thế giới tự do, đều chia sẻ cùng một thân phận khắc nghiệt, trầm bổng, hồi sinh.  Đa số đã mất tất cả — tài sản, nhà cửa, địa vị, danh dự, hạnh phúc, liên hệ gia đình, ân tình làng xóm để bơ vơ nơi đất khách quê người và tại đó cố gắng tạo dựng lại từ đầu một đời sống mới, nhiều thách thức trở ngại, nhiều thương đau, đổ vỡ: chính khách mất chính thể; sĩ tướng mất quân quyền; chủ nhân ông trắng tay, đổi đời; chuyên viên giải nghiệp; trí thức mất thế; gia đình, tập thể, cộng đồng lo âu tái lập truyền thống, lý tưởng, tình người.

Có một điều họ không mất, đó là niềm tin vào thực lực tồn tại của họ, vào lẽ sống trong thế hội nhập của ba khả năng chọn lựa:

  1. Tồn giữ Nhân phẩm, Chia sẻ Giá Trị Việt Tính;
  2. Yêu Chuộng Tự do, Công Lý, Dân Chủ chân chính;
  3. Gắn bó Đại Nghĩa với Chí Nhân.

Các đặc tính và khả năng trên thụ hình ít hay nhiều, tùy thuộc vào từng hoàn cảnh cá biệt, đa dạng, nhưng hiển nhiên đều là những thành tích tiếp nối  tới ngày nay, sau 47 năm phấn đấu.

I. THỰC LỰC TỒN GIỮ NHÂN PHẨM, CHIA SẺ GIÁ TRỊ VIỆT TÍNH

Người Việt Tỵ Nạn bỏ nước ra đi vì họ quyết tâm khước từ thân phận tù đày, vô nhân cách. Họ từng bị “điều kiện hoá”, nhồi sọ; hạ nhục thành loài vật, thành dụng cụ khai thác đoản kỳ; thành kẻ tiêu thụ hạ cấp, lỗi thời, ươn hèn, vô thức.

Họ quyết tâm thoát ly cảnh tù túng, đày đoạ, bất nhân, bất nghĩa trong nước là vì họ còn đủ nghị lực kiên trì bảo trọng giá trị làm người tử tế, tự trọng, biết nhận, biết hưởng và biết cho lại.

Phẩm giá làm người chân chính đó có tính cách bẩm sinh, bất khả tước đoạt, mà con người chỉ từ bỏ khi lìa đời.  Nhân phẩm và lòng tự trọng không cho phép mình hạ thấp, quỵ lụy hơn những gì cần thiết; không cho phép con người sống còn trong nhục nhã, sợ hãi, hèn mọn.  Con giun xéo lắm cũng quằn, huống chi là con người?

Do đó, quyết tâm ra khỏi địa ngục CSVN là vì con người chưa vô cảm, còn biết quằn quại, vùng vẫy, đứng dậy và chạy thoát cảnh nô lệ, thoái hoá và thú hoá vậy.

Ngoài ra, khả năng “vượt thoát” ra khỏi bế tắc, sa lầy và sai lầm cũng như khả năng “vượt thắng” đều chiết tự ngay từ “Việt tính”, mà ông cha chúng ta ra công gắn liền với “siêu việt”, vì “Việt” (越, bính âm: yuè) là một từ gốc Hán-Việt có nghĩa là “vượt qua”.  Hy sinh của người Việt Tỵ Nạn Cộng Sản dám liều lĩnh thách đố cái chết trăm hình vạn trạng để đổi lấy hy vọng sống thực, sống trọn vẹn có đáng gọi là hành động “siêu việt”, vượt bực hay không?

Người Việt còn lại trong nước chưa “vượt ngục” CSVN, không hẳn vì hèn nhát, thiếu can đảm, mà chỉ vì họ chưa hồi hướng đúng mức, đúng độ, hay chưa gặp đúng thời, đúng cuộc. Người dân trong nước sẽ tụ tập đứng lên khởi nghĩa khi vỡ lẽ CSVN chỉ là quân bịp bợm, phá hoại, bất tài, vô luân; khi toàn dân thấy rõ xã hội họ đang sống chỉ là “nhà tù tập thể” không còn tầm vóc và mánh khoé bao vây, kìm hãm, doạ nạt họ được nữa.

II. THỰC LỰC CỦA NGƯỜI VIỆT YÊU CHUỘNG TỰ DO DÂN CHỦ CHÂN CHÍNH

Bên cạnh một thiểu số nạn nhân bị thời cuộc rày vò điêu đứng, bị phá hủy nhân vị đến kiết sức phân tâm, nên không sao hội nhập toàn vẹn cuộc sống phấn khởi, rộng lượng hài hoà nơi đất khách quê người, thì may mắn hơn, đa số người Việt Tỵ Nạn Cộng Sản trên thế giới tự do đã biết hoàn chỉnh, cải sinh đời sống và thân phận mình từng bị CSVN ngược đãi, hủy hoại.

Sau 47 năm gắn bó với nếp sống đáng sống, đa số người Việt Tỵ Nạn và nhất là hậu duệ, con cháu họ đều ý thức rõ rệt phạm vi định chế nhân quyền, dân quyền và trách nhiệm công dân là một thoả ước xã hội chính trực, kết sinh đa thể, linh động và hiển nhiên, luôn luôn cần bảo trọng, tu bổ cho thêm vẹn toàn, siêu thoát.

Sức mạnh của người Việt Quốc Gia Tỵ Nạn Cộng Sản chỉ hội đủ khi đa số

  • thực thi dân chủ chân chính, pháp trị, hài hoà, tử tế, nhân đạo;
  • tôn trọng tự do và nhân phẩm của chính mình và tha nhân;
  • ý thức về quyền sở hữu, quyền hành chính trị và trách nhiệm công dân.

Như vậy, người Việt Quốc Gia chúng ta cần thi hành và bảo trọng đúng mức tôn chỉ dân chủ tự do, chứ không thể ỷ lại vào “căn cước” dân chủ tự do vừa được cung cấp để làm ngược lại.  Đó là trường hợp của một thiểu số cá nhân cố vị, bị lây thói võ đoán hàm hồ, thường khôi phục thủ đoạn võ đoán, mánh mung, bằng cách chụp mũ, chửi-rủa, phá phách bất cứ ai không vừa ý họ, thì chắc chắn họ không thể “thắng cuộc”, vì không sao sánh kịp ma phiệt CSVN, vốn nổi tiếng về các thủ đoạn rừng rú, hèn mọn; ném đá giấu tay, phun máu hại người.

Nếu giả thử tất cả người Việt Tỵ Nạn chúng ta tiếp tục long đong, sai quấy, thiệt thòi, thất thế, thất thểu, thì con cái họ và người dân trong nước lấy gì để trông mong, nhờ vả, noi theo?

May thay, người Việt Tỵ Nạn đi trước đã từng vượt thoát và thành công chính trực, thì những đợt tỵ nạn sau này cũng có bề vượt thoát và thành tựu như chúng ta mong muốn.  Đó là trách nhiệm quy tụ, bao bọc bằng nghĩa cử dấn thân gương mẫu, bằng thực hành đối chiếu.

Chúng ta hãy cố hành động đúng nhân cách của người Việt tự do, tự trọng đề thẳng tiến và đem lại hy vọng cho hậu duệ, cho người “tới” sau.  Chúng ta không thể tự hủy bằng cách đi ngược đường hay dùng ngõ tắt thủ lợi sáo mòn, do địch gài bẫy kết dụ, ám hại như theo “nghị quyết 36” chẳng hạn.[1]

III.  ĐẠI NGHĨA & CHÍ NHÂN

Thế lực của người Việt Tỵ Nạn Cộng Sản là khả năng dấn thân theo đại nghĩa, đại cuộc: biết cưu mang lẽ phải, bảo trọng công lý; trợ lực nghĩa sống và phúc lợi nhân loại. Đó là cách ứng dụng “chính nghĩa siêu việt” của Ông Cha chúng ta vào đời sống hiện đại:

Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
Lấy chí nhân để thay cường bạo.

Nguyễn Trãi, “Bình Ngô đại cáo”[2]

Nguyên văn “Bình Ngô đại cáo” 

 ĐEM ĐẠI NGHĨA ĐỂ THẮNG HUNG TÀN

Đại Nghĩa là Lẽ Sống Chính Đáng, Toàn Diện; là Trào lực Chỉ đạo lấy phẩm giá con người làm trọng tâm cho mọi sinh hoạt hiện hữu.  Do đó, luật pháp công minh và công lý đạo đức phải căn cứ vào nhân phẩm để định chế hoá và hướng dẫn đời sống toàn vẹn.

Phẩm giá làm người chân chính có tính cách bẩm sinh, bất khả tước đoạt. Nhân phẩm phải được kết tạo bằng nguồn gốc nhân sinh và truyền thống văn hoá của một dân tộc hài hoà, phân minh, hướng thượng; bằng kích thước và vị trí địa-chính của một lãnh thổ; bằng tầm vóc môi sinh và dưỡng khí bao bọc liên hệ.

Nhân phẩm đòi hỏi một hiện tượng tổng hợp, mà bất cứ kết tố nào khiếm khuyết đều làm nhân phẩm chao đảo, thất tung, bất toàn.

Do đó, con người sẽ mất nhân phẩm khi phải sống cảnh nô lệ, đói khát, bệnh hoạn, ngu xuẩn, tù đày, đe doạ, khinh miệt, kỳ thị, bóc lột, lợi dụng, quên lãng.  Như toàn dân Việt đang sống lây lất dưới ách cộng sản Việt Nam, trừ thiểu số đại gia, băng đảng của chúng.

Hiển nhiên công dân mất nhân phẩm khi đất nước họ bị ngoại bang xâm lấn; khi lãnh thổ họ bị tháo ranh, cắt đất; khi lãnh hải, hải đảo, núi rừng, nguồn lợi thiên nhiên bị tài phiệt đại gia tham ô trục lợi, bị ngoại nhân bất chính cưỡng đoạt, phá hủy; khi dân oan thấy mình thất lạc, hắt hủi ngay nơi chôn nhau cắt rốn, ngay nơi thờ phụng tổ tiên.

Công dân cũng bị tước đoạt nhân phẩm khi tiếng mẹ đẻ thuần túy mỗi lúc trở nên pha tạp, hổ lốn, ngọng ngịu, sai lạc, bôi bác, sa đoạ.

Vậy “Đại Nghĩa”, song song với công minh chính đại, đòi hỏi:

  1. người Việt Tỵ Nạn và người chiến sĩ tự do phải dứt khoát “Tr Cộng”
  • không chỉ để “chống đỡ, chống cự, phòng thủ, tự vệ” một cách tiêu cực, yếm thế;
  • mà thực sự để vạch rõ làn ranh giữa chính nghĩa nhân bản và ý thức hệ của tội ác;
  • để sáng suốt thu thập tài liệu vạch trần hành động và thủ đoạn của kể hung tàn diệt chủng; bá quyền, bá đạo, vô nhân, thất đức;
  • để xác định lập trường cảnh tỉnh, minh mẫn trong việc chuẩn bị đối phó và ngăn ngừa kẻ trọng tội tái phạm.  Ngăn ngừa đã là thực hiện nửa đường của điều trị.
  1. người Việt Tỵ Nạn và người chiến sĩ tự do phải dứt khoát “Thắng Cộng”
  • không bằng thế quân sự, vì lúc này chiến tranh ở ngoài tầm tay “bất bạo động” của người Việt Tỵ Nạn và người chiến sĩ tự do; hơn nữa, quân sự chỉ là giải pháp ngoại vi, cục diện, tạm bợ, không thể giải quyết toàn thể quốc nạn, tai ương nhân tạo dưới ách cộng sản;
  • cũng không áp dụng chính sách hung tàn để trả đũa trừng phạt, khai trừ, thủ tiêu con người cộng sản, khi họ chỉ là những thành phần mù quáng, lỗi thời, bất tài, bệnh hoạn;
  • mà thực sự để “khử trùng cộng sản”; để điều trị, tảy trừ tận gốc căn bệnh cộng sản hiểm nghèo, ngu xuẩn, điên cuồng bằng cách [a] nâng cao dân trí, [b] phát triển đời sống vật chất và tinh thần của người dân, [c] bảo trọng công lý thượng tôn luật pháp, v.v.
  • “Thắng Cộng” vắn tắt là nỗ lực trừ ác tính để trọng sinh, khi dõng dạc, công minh bảo đảm quyền lợi và phẩm giá toàn diện của người dân, tại học đường; trong xã hội mở rộng; tại thương trường; nơi công quyền, pháp quyền, chính quyền; dưới mọi hình thức chọn lựa tín ngưỡng, phát biểu tư tưởng sáng tạo, bảo trọng môi sinh, đời sống căn bản.

 LẤY CHÍ NHÂN ĐỂ THAY CƯỜNG BẠO

Nhưng “Đại Nghĩa” tức lẽ sống chân chính đó phải được thực hiện và bảo trọng một cách ôn hoà, nhân từ, bác ái. Quyền sống phải được thực hiện đúng mức và bảo vệ đúng nghĩa, một cách công bằng, đạo đức, trách nhiệm.

Trong quan niệm “Chí Nhân”, nhân từ là căn bản.  Khi nhân từ được tôn trọng và thực hiện ở mức cao đẹp, thì mẫu mực nhân từ trở thành chí nhân, ở mức độ toàn hảo, cao vượt.  Do đó:

  • người chiến sĩ tự do phải luôn luôn tố cáo, khai trừ mọi vi phạm nhân quyền;[3] đồng thời cổ võ các biện pháp ôn hoà “phục hồi công lý”; ứng dụng pháp lý công bình[4] thay vì công lý trừng phạt, trả thù.[5]
  • người chiến sĩ tự do chủ trương hoàn trả, bồi thường, bù đắp tương xứng mọi thiệt hại trong quá khứ giao tranh; mặt khác chỉ trừng phạt những trọng tội, sai phạm quá đáng như tàn bạo, lạm quyền, tham nhũng bất chính; còn các tội danh khác đều được hưởng miễn trách[6] hay ân xá [7] nếu nghi can chỉ thi hành nhiệm vụ giao phó.  Điều này không có gì khó hiểu, vì trước đây, chính thể Việt Nam Cộng Hoà đã từng áp dụng chính sách “chiêu hồi”.  Dù sao, chính sách “Chí Nhân” không nhằm phục vụ mục tiêu chính trị của “chiêu hồi”, mà thực sự nhằm chấn hưng đạo đức; tái phục nhân phẩm; cải thiện nhân tính công dân.

Với quyết tâm đem đại nghĩa để thắng hung tàn cộng phỉ, lấy chí nhân để thay tận gốc căn bệnh cộng sản, người Việt Tỵ Nạn Cộng Sản và người chiến sĩ tự do đã rõ rệt “vượt cộng” hay vượt thắng CSVN khi dồn sức tạo dựng một nhân sinh quan trong sáng, phồn thịnh, tử tế, khả trọng.

ĐỂ TẠM KẾT:

Thắng lợi là điều hay nếu chúng ta không đánh mất liêm khiết trong lúc thi hành.[8] Vậy, muốn có thế lực đối phó với chính mình, với đối tác và đối thủ, và muốn thực sự “thắng cuộc” một cách chân chính, nhân hậu, người Việt Tỵ Nạn Cộng Sản cần

  • có can đảm đối mặt với sự thật, để bổ túc lẽ phải hay kịp thời sửa sai;
  • sống ngay thẳng, làm điều tốt lành, vì như thế sẽ giúp chúng ta sống một cách chính trực, làm gương mẫu cho hậu duệ và đồng bào trong nước;
  • chủ trương công minhbất bạo động vì cách đó sẽ đưa tới trình độ đạo đức cao nhất, vốn là cứu cánh của mọi tiến hoá;
  • thương xót tất cả những gì thuộc về đời sống, vì đạo đức không khác gì hơn là sự kính cẩn đời sống.[9]

Phẩm chất của người Việt Tỵ Nạn Cộng Sản, của người chiến sĩ tự do còn lại sau khi gạt bỏ mọi hư danh, ảo tưởng; mọi mánh mung, thiển cận; mọi mặc cảm tự hủy. Thực lực của họ chỉ đáng kể khi đo lường bằng kinh nghiệm sống chính trực, can đảm; bằng trí tuệ và viễn kiến trong giai đoạn liên kết phục hồi sự vẹn toàn cho đất nước; an sinh, phúc lợi và phẩm giá cho toàn dân, cho tha nhân, cho chính mình.

Trân trọng,

LƯU NGUYỄN ĐẠT, PhD, LLB/JD, LLM
Michigan State University

 

 

CHÚ THÍCH

[1] Nghị Quyết số 36 của Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam nhằm Công tác chính vận “kết dụ” cộng đồng người Việt ở nước ngoài.

[2] “Bình Ngô đại cáo” (平吳大誥) là bài cáo của Nguyễn Trãi viết bằng chữ Hán vào mùa xuân năm 1428, thay lời Bình Định vương Lê Lợi để tuyên cáo kết thúc cuộc kháng chiến chống Minh, giành lại độc lập cho Đại Việt.
[3] human rights violations
[4] equity justice
[5] penal repression, vengeance & retaliation justice
[6] excuse
[7] amnesty
[8] “Winning is nice if you don’t lose your integrity in the process.” Arnold Horsham
[9] “I can do no other than be reverent before everything that is called life. I can do no other than have compassion for all that is called life. That is the beginning and the foundation of all ethics.” — “Ethics is nothing else than reverence for life.” Albert Schweitzer [1952 Nobel Peace Prize]

Luận Về Tâm Lý Chính Trị

Trần Xuân Thời

Người ta thường nói đến tâm lý quần chúng, tâm lý xã hội, nhưng ít nghe ai nói đến “tâm lý chính trị”. Thật ra tâm lý chính trị thường được thể hiện qua “diễn đàn chính trị” nghĩa là tư tưởng lên khuôn cho hành động theo nhiều chủ trương, đường lối khác nhau, gọi chung là lập trường chính trị… Hành động nào cũng thường nhắm thực hiện một chủ đích, một sứ mệnh. Từ quan niệm tồn cổ, những gì do quá khứ tạo nên và lưu truyền lại cho hậu thế đều tốt đẹp, đều đáng quý, đáng học hỏi và đáng được xem là khuôn vàng thước ngọc, “Xưa Bày Nay Làm” hoặc hiện tại đáng yêu, đáng mến, đáng duy trì không cần phải thay đổi, đến quan niệm cải cách, phá hoại truyền thống, khuynh đảo trật tự xã hội đương thời để thay thế bằng cơ cấu tổ chức và trật tự mới, con người đã đi từ quan niệm cực hữu (reactionary–rightist) đến quan niệm cực tả (radical–leftist).

Trong quần chúng có những người đắn đo kỹ lưỡng trước khi chấp nhận một lập trường vĩnh viễn, cũng có người thay đổi lập trường tùy hoàn cảnh. Dù trong hoàn cảnh nào, lập trường chính trị cá nhân hay tập thể thường được thể hiện qua bốn ý niệm chính:

  1. Cực tả/Cách mạng (Radical extremist/Revolutionary);
  2. Cấp tiến (Liberal/Progressive);
  3. Bảo thủ (Conservative);
  4. Cực hữu/Phản cách mạng (Far right/Reactionary).

Các “nhãn hiệu” này thường được đề cập trên sách báo hiện hành, nhất là tại các nước dân chủ, trong đó người công dân có quyền tự do ngôn luận và có quyền gán bất cứ “nhãn hiệu” nào cho người đối lập trong phạm vi tự do tư tưởng theo luật định.

1. Cực tả/Radical extremist

Chúng ta thường gọi người theo chủ thuyết cộng sản là “bọn phá hoại” (radical). Người cộng sản gọi là cách mạng (revolutionary). Vì cộng sản chủ trương tiêu diệt tư bản chủ nghĩa, đả phá hệ thống xã hội đương thời tận gốc rễ. Nói khác đi kẻ chống đối phải bị thủ tiêu. Ngôi nhà cũ thì phải bị triệt hạ, đập nát để xây ngôi nhà mới, không cần tu bổ hay sửa chữa. Thay đổi tận gốc rễ như chính sách cải cách điền địa của nhà nước cộng sản. Cộng sản không những chỉ tịch thu ruộng đất mà còn đấu tố, sát hại các địa chủ nhằm khủng bố và triệt tiêu đầu óc tiểu tư sản như đã áp dụng ở các nước cộng sản “Trí, phú, địa, hào, đào tận gốc, trốc tận rễ”.

Đa số những người theo Cộng sản hoặc vì hận thù, hoặc vì nhẹ dạ, nóng lòng thay đổi, nghe theo lời hứa hẹn hão huyền, những lời hứa hẹn không mất tiền mua của các “Đỉnh cao trí tuệ CS”. CS không hề có chủ tâm thực hiện điều họ hứa hẹn, như triết gia chính trị Edmund Burke đã nhận xét “Hypocrisy can afford to be magnificient in its promises; for never intending to go beyond promises, it cost nothing”. Những người mù quáng mơ ước thiên đường cộng sản, ngày nay đã dần dần vỡ mộng. Thực tế chứng minh các lãnh tự CS Đông Âu, Trung Cộng hay Việt Nam đều lợi dụng giới vô sản, bần cố nông để giành quyền lực với danh nghĩa giả tạo, hứa hẹn hão huyền sẽ mang lại “Độc lập–Tự do–Hạnh phúc”. Sau khi cướp được chính quyền, các đảng vỉên CS trở thành tư bản đỏ, triệu phú, tỷ phú, nhà cao cửa rộng, áo xiêm buộc trói lấy nhau, nắm giữ các đặc quyền đặc lợi.

Thực sự, không hề có tự do, hạnh phúc thực sự trong một xã hội mà chính quyền không tôn trọng luân thường đạo lý. “Liberty does not exist in the absence of morality”. Không có luân lý, đạo đức thì không thể có tự do. Người đời gọi chủ nghĩa cộng sản vô thần hay chủ nghĩa Tam Vô:

(1) Vô gia đình: CS xoá bỏ đơn vị căn bản của cơ cấu xã hội là gia đình, khuyến khích con cái đấu tố cha mẹ, triệt tiêu liên hệ thân tộc;

(2) Vô Tổ quốc: Cộng sản chủ trương xóa bỏ biên giới quốc tổ để hòa mình vào thế giới vô sản đại đồng. Hồ Chí Minh chủ trương chiến đấu cho đến người Việt cuối cùng, vì đảng CSVN không chiến đấu cho sự sinh tồn giống tộc Việt Nam mà đem xương máu dân Việt chiến đấu cho chủ nghĩa CS, cho quan thầy Nga Sô, Trung cộng;

(3) Vô Tôn giáo vì CS chủ trương tôn giáo là thuốc phiện mê hoặc lòng người.

Tôn giáo hướng thượng con người. Giúp con người tạo cho mình một lý tưởng để sống vượt lên trên loài cầm thú vì loài thú chỉ sống theo bản năng, duy vật, không có lý tưởng cao cả. Con người biết sống, hành thiện đời này để hưởng phước đời sau. Đó là chủ đích của đời người mà nhân loại hướng đến qua sự chấp nhận và thi hành tín điều do các tôn giáo truyền dạy. Hay nói khác đi, người không thể xứng danh là con người trọn vẹn nếu không có lý tưởng cao cả. Tổng Thống Hoa Kỳ Calvin Coolidge (1872–1933) đã nhận xét, chỉ khi nào con người có tín ngưỡng mới có thể sống đời sống trưởng thành “It is only when men begin to worship that they begin to grow”.

Cộng sản duy vật quan niệm con người chỉ là sản phẩm thiên nhiên (product of natural selection) như các lãnh giới khoáng vật, thực vật hay muôn thú khác. Đảng viên CS được đào luyện, nuôi ảo tưởng tự cho mình thuộc giai cấp đỉnh cao trí tuệ, nhưng thực sự đa số thiếu trình độ hiểu biết về thực chất của chủ nghĩa CS. Nhận xét này được thể hiện phần nào qua lời chứng được ghi nhận trong vụ án:

Flemming v. Nestor 363.U.S. 603 (1960). Nestor, an alien, became eligible for Social Security payments in 1955. In July 1956 he was deported for having been a member of the Communist Party from 1933 to 1939. Section 202(n) of the Social Security Act provided for the termination of Social Security payments when an alien is deported for being a member of the Communist Party. “Ephram (Fedya) Nestor, a Bulgarian–born immigrant to the United States, was ‘an unusual person,’ according to his second wife Barbara. She met him in 1933 when he was selling vegetables from his car and remembers not really liking him. ‘He stayed too long,’ he ‘talked too much,’ and worst of all to this devoted radical, he ‘passionately espoused the cause of Communism [but] he didn’t know too much about it.’ Interviewed when she was ninety, sharp–witted Barbara Nestor still recalled how Fedya embarrassed her at a Marxist study group with his ‘foolish’ statements and obvious lack of knowledge about Marx or communism. His family agreed he was ‘not much of a Communist’ when he joined the local party in 1936 and could not be trusted with the simplest duties. Nonetheless, the federal government deported Fedya in 1956 for his brief Communist Party (CP) membership.”

Trước khi bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Cộng Sản ra đời năm 1848. Thủ lãnh của tôn giáo lớn nhất hoàn vũ, Đức Giáo Hoàng Piô Thứ 9 (Pope Pius IX), năm 1846 đã cảnh giác thế giới về hiểm hoạ của chủ nghĩa cộng sản:

“The unspeakable doctrine of Communism, as it is called, a doctrine most opposed to the very natural law. For if this doctrine were accepted, the complete destruction of everyone’s laws, government, property, and even of human society itself would follow.” (Thông Điệp Qui Pluribus.16, ngày 9/11/1846). (Cái học thuyết nguy hại mà người ta gọi là chủ nghĩa Cộng Sản từ bản chất trái với luật thiên nhiên (Thiên luật), mỗi khi được chấp nhận, tà thuyết đó sẽ tiêu diệt hết nhân quyền, mọi định chế công quyền hợp pháp, quyền tư hữu và chính xã hội loài người.)

Nhiều quốc gia đã xoá bỏ chủ nghĩa CS. Nhiều người đã ly khai đảng CS, mặc dù trước đây họ đã hết sức hăng hái mang nhãn hiệu cách mạng, hãnh diện là đồ đệ của đệ nhất, đệ nhị hoặc đệ tam Cộng Sản Quốc Tế. Chủ nghĩa CS đã tạo nên những kẻ sát nhân như Stalin đã tàn sát hơn 20 triệu người, Mao Trạch Đông giết trên 70 triệu người, Hồ Chí Minh, cũng như Pol Pot được liệt kê vào danh sách của những kẻ diệt chủng nổi tiếng nhất trên thế giới. (Mao: The Unknown Story, Jung Chang).

Tại Hoa Kỳ, môn phái cực tả quá khích đã phát triển từ cuộc suy sụp về kinh tế năm 1929. Họ chủ trương tái tạo xã hội Hoa Kỳ mới, dựa trên căn bản lý thuyết của Karl Marx. Họ hỗ trợ tích cực các phong trào công nhân thợ thuyền với khẩu hiệu “Not Black, not white Power but Worker’s Power”, như là phương tiện gián tiếp để cộng sản hóa Hoa Kỳ… Môn phái cực tả chủ trương canh tân các chương trình xã hội, tôn giáo và xã hội Hoa Kỳ theo quan điểm của Chủ nghĩa Cộng Sản.
Hiện nay có hai nhóm cực tả: Nhóm thứ nhất chủ trương cải cách xã hội bằng phương tiện cách mạng bạo động và sắt máu. Nhóm thứ hai chủ trương cải tổ ôn hoà bằng cách lợi dụng quyền đầu phiếu. Các nhóm này lôi cuốn một số người nhẹ dạ, nhưng không đủ khả năng lôi cuốn quần chúng và chính quyền. Những người này thường không liên kết với đảng Cộng Hòa hay Dân Chủ. Những người Mỹ theo đường lối này thường áp dụng chính sách mị dân. Chủ trương tự do cá nhân phải có tính cách tuyệt đối nhằm dụ hoặc quần chúng. Họ chủ trương cứu cánh biện minh cho phương tiện, nghĩa là dùng bất cứ phương tiện tốt, xấu gì cũng được miễn là đạt được kết quả mong muốn. Họ tuyệt đối tin tưởng vào chương trình cải cách Chủ nghĩa CS là thể chế hoàn mỹ, không có chủ nghĩa nào có thể thay thế…

Các tổ chức tà phái của Hoa Kỳ đã từng hoạt động như Communist Party – USA, W.F.B Dubois Club of America, Progressive Labor Party, Socialist Labor Party, Socialist Worker Party, Young Socialist Alliance, Spartacist League, Guardian, Worker League, World Socialist Party of USA, Ramparts, Monthly Review… Mỗi tổ chức đều ấn hành tạp chí để phổ biến chủ trương đường lối cho hội viên và quần chúng. Cũng nên lưu ý là ngược lại danh từ Radical ngày nay còn được dùng để mệnh danh những phần từ chủ trương đả phá chế độ cộng sản tại Nga và các nước Cộng Sản Trung Âu hay những phần tử quá khích như Radical Islam….

2. Cấp tiến/Liberal:

Chủ trương thay đổi với mức độ ôn hoà thường được gọi là cải cách (reformer/liberal). Những người cấp tiến sẵn sàng chấp nhận sự thay đổi nhưng không có tính cách đả phá, hủy hoại chế độ hay hệ thống đương thời. Tu bổ, sửa chữa lại ngôi nhà đang cư ngụ hơn là áp dụng phương thức phá hoại như cộng sản đã và đang áp dụng. Cộng sản chủ trương đốt nhà để cho nhân dân sống cảnh màn trời chiếu đất, nghĩa là chịu hy sinh cực khổ trong hiện tại, trong lúc xây cất lại ngôi nhà mới nhưng không biết bao giờ ngôi nhà mới hoàn thành.

Những người chủ trương thay đổi cải cách thường chấp nhận chủ thuyết của đảng Dân Chủ hoặc cấp tiến, đều có khuynh hướng cải cách xã hội, và thường được quần chúng Mỹ liệt vào loại thiên tả ôn hoà (leftist) vì đảng CS được tự do hoạt động tại Mỹ dưới nhiều hình thức, kể cả hình thức đoàn thể xã hội và lợi dụng các quyền tự do để bành trướng. Danh từ “Liberal” phát xuất từ thế kỷ thứ 19 do tiếng Tây Ban Nha, tên của một chính đảng ở quốc gia này. Đảng viên Liberal tin tưởng vào khả năng của công dân biết sử dụng quyền hành của mình một cách xứng đáng. Trong cuộc tranh cử Tổng Thống năm 1988, ứng cử viên TT Bush đã nhận xét ứng cử viên TT Dukakis là “Liberal”. Dù danh hiệu này rất thông dụng, nhưng hiện nay vẫn chưa được xem là ý niệm tốt trong tâm lý quần chúng vì có tính cách thiên tả và các phương pháp cải cách của tả phái.

3. Bảo thủ/Conservative

Khác với hai chủ trương nêu trên (radical và liberal) có tính cách khuynh tả (leftist), theo quan niệm hiện hành của đa số công dân Hoa Kỳ. Những người chủ trương bảo thủ (conservative) ôn hoà bằng lòng với hiện tại. Họ cho rằng hiện tại vẫn tốt đẹp, không cần phải thay đổi. Những người này thường chủ trương hỗ trợ đảng Cộng Hòa. Danh từ Bảo thủ nghĩa là bảo tồn, như bảo tồn truyền thống, thuần phong mỹ tục và định chế chính quyền dân chủ đã được hình thành qua kinh nghiệm chung của nhân loại. Môn phái bảo thủ cũng chống lại chủ trương tự do quá trớn hay tự do phóng nhậm, vì tự do cũng cần phải được giới hạn để mọi người có cơ hội hưởng tự do đồng đều. “The extreme liberty as we all know, in every point, is destructive to both virtue and enjoyment” (Edmund Burke).

Sở dĩ đảng Cộng Hòa giành được thắng lợi trong các cuộc tranh cử Tổng thống ba nhiệm kỳ liên tiếp trong 12 năm (1981–1993), một phần cũng nhờ dân chúng nhìn thấy tình trạng xã hội đương thời không cần thay đổi nên đã dồn phiếu cho đảng Cộng Hòa thay vì bầu cho Dân Chủ. Đa số những người trung niên, giới trí thức và lão niên chấp nhận khuynh hướng bảo thủ. Khuynh hướng này đang là những làn sóng ngầm ảnh hưởng đến tâm lý quần chúng hiện nay khiến cho những đề nghị cải cách táo bạo không có cơ hội phát triển. Tuy nhiên những cải cách táo bạo vẫn được các ứng cử viên Clinton, Sander quảng bá trong cuộc tranh cử năm 2016 và Ứng cử Viên Trump đã đắc cử với chủ trương “Make America Great Again”. Nền chính trị Hoa Kỳ phức tạp nên khó tiên đoán đảng nào sẽ đắc cử trong các nhiệm kỳ sắp đến.

4. Cực hữu/Reactionary

Lớp người bảo thủ cực hữu (reactionary/far right) là những người vẫn thích thay đổi, nhưng thích tồn cổ hơn. Những gì do tiền nhân để lại đều đáng quý trọng, đáng được học hỏi, đáng bảo tồn, đúng với câu “xưa bày nay làm”, và thích trở lại những ngày vàng son của thời đại vua Nghiêu, vua Thuấn. Những người này đương nhiên không chấp nhận thái độ cách mạng, phá hoại truyền thống của cộng sản nên đã gây trở ngại cho sự bành trướng của cộng sản. Cộng sản gọi những người quốc gia chống cộng thuộc khuynh hướng cực hữu là thành phần “phản động” (right wing extremist/Reactionary).

Tại Hoa Kỳ hiện nay có một số tổ chức chủ trương cực hữu như John Birch Society, 20th Century Reformation Hour, Life Line, Christian Crusade, Manion Forum, Christian Anti–Communist Crusade, Liberty Lobby, Conservative Society of America, Church League of America, Harding College’s National Education Program, Richard Cotten, Christian Freedom Foundation, v.v. những người di dân từ các nước Đông Âu bị Hồng quân Nga chiếm đóng sau đệ nhị thế chiến hoạt động mạnh trong các tổ chức cực hữu.

Mỗi cơ quan đều có tạp chí để phổ biến đường lối trong quần chúng. Chủ trương quốc gia cực hữu nhất quyết không công nhận cộng sản dưới bất cứ hình thức nào, đã đang là thành trì chống cộng hăng hái nhất hiện nay. Tâm lý chính trị tại Miền Nam VN trước 1975 cũng vậy, không chấp nhận CS dưới bất cứ hình thức nào nên đã trục xuất ra Bắc một số điệp viên CS len lỏi vào chính quyền Miền Nam. Trong lịch sử xây dựng nền dân chủ tại Nhã Điển (Athens), thủ đô của Hy lạp, năm 461 trước Công Nguyên, Pericles cũng đã dùng biện pháp an trí (ostracism) các phần tử chống đối ra khỏi thành Athens một thời hạn tối đa 10 năm. Nền dân chủ tại Nhã Điển thời bấy giờ là nền dân chủ trực trị như hình thức Hội Nghị Diên Hồng, người dân trực tiếp tham gia bàn luận kế sách về thuế khóa, hòa hay chiến…

Tâm lý chung của những người bảo thủ cho rằng không phải người nào cũng đáng tin cậy, cho nên phải “chọn mặt gởi vàng”. Họ không hẳn tin tưởng vào khả năng của công dân có thể quyết định sáng suốt, nên họ chủ trương cần có chính quyền. Họ chủ trương quốc gia cần được giai cấp ưu tú (enlightened group) lãnh đạo. Hiến pháp Hoa Kỳ năm 1787 cũng do các vị khai quốc công thần ưu tú soạn thảo. Quốc hội Hoa Kỳ cũng gồm hai viện. Thượng Viện thể hiện giá trị truyền thống, tôn trọng kho tàng văn hiến, khôn ngoan đã được tích lũy qua hàng trăm năm lịch sử.

Trong bài diễn văn lịch sử đọc tại Gettysburg, Pennsylvania năm 1863, Tổng Thống Abraham Lincoln đã tái xác nhận Hoa Kỳ sẽ được tái sinh trong Ơn Thánh Chúa là quốc gia tự do của dân, bởi dân, để phục vụ nhân dân và sẽ không biến mất trên thế gian này: “This nation, under God, shall have a new birth of freedom –– and that government of the people, by the people, for the people, shall not perish from the earth.” (Abraham Lincoln, November 19, 1863)

Trong thời gian chiến tranh lạnh sau thế chiến thứ hai, giữa hai khối Tự do và Cộng sản, Mao Trạch Đông đã từng khích lệ các lãnh tụ CS Nga Xô tấn công tiêu diệt Hoa Kỳ. Năm 1963 dưới thời TT Kennedy, Nga Xô đã đem hoả tiễn thiết trí tại Cuba, chỉ cách Hoa kỳ 90 miles. Hoa kỳ phản ứng mạnh mẽ, một mặt phong tỏa vịnh Cuba, mặt khác ra lệnh chuẩn bị tấn công, nếu Nga Sô không tháo gỡ các dàn hoả tiễn. Nga Sô sợ Thượng Đế bảo vệ Hoa Kỳ qua lời “Sấm” của Tổng Thống Lincoln “Hoa Kỳ sẽ không biến mất trên thế gian này” bèn lui binh vô điều kiện!

Xã hội Hoa Kỳ đã và đang được thay đổi bằng những cải cách tiệm tiến, tuy chậm nhưng chắc, cũng nhờ những anh tài thực sự nỗ lực làm việc vì quốc gia dân tộc. Thay đổi nhanh chóng theo kiểu cách mạng cộng sản, thiếu suy tư và thiếu điều nghiên kỹ lưỡng đã đưa đẩy các nước cộng sản đến bờ vực thẳm, thảm khốc về cả hai phương diện kinh tế lẫn chính trị.

Những người cực hữu chống Cộng Sản mãnh liệt tại Hoa Kỳ cũng như các nước tự do trên thế giới, nhiều khi “dùng gậy ông để đập lưng ông”, nghĩa là “dĩ độc trị độc”. Họ dùng ngay phương pháp cộng sản để trị cộng sản. Họ là những người lớn tiếng cảnh giác quần chúng về hiểm hoạ cộng sản trước và sau khi bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Cộng Sản ra đời. Trong suốt 100 năm từ khi cuộc cách mạng Cộng Sản năm 1917 xảy ra tại Nga sô, những người chống cộng cực hữu chấp nhận thái độ bất cộng đái thiên với cộng sản, đa số không vì tư lợi cá nhân mà chỉ vì quốc gia dân tộc. Họ sẵn sàng chống đối những gì sinh lợi cho cộng sản, kể cả vấn đề bang giao, viện trợ cho thế giới cộng sản. Nhờ đó vào cuối thập niên 1980, Cộng Sản Nga Sô và Đông Âu sụp đổ. Từ sau đệ nhị thế chiến, khối Cộng sản Nga sô Đông Âu và Trung hoa vẫn mua ngũ cốc của Hoa Kỳ vì nền kinh tế của Nga Sô và Trung hoa trì trệ không đủ thực phẩm bán cho quần chúng. Hoa Kỳ thường dùng kinh tế làm đòn bẩy để thăng tiến nhân quyền đối các quốc gia cộng sản hoặc chuyên chế, như Tu Chính Án Jackson–Vanik mà chúng ta thường nhắc đến trong thập niên 1975–85 để tranh đấu cho vấn đề di dân, đoàn tụ gia đình, phóng thích tù nhân chính trị từ các nước CS Đông Âu hay Á Châu, VN đến Hoa Kỳ. (19 US. Code S.2432 Freedom of emigration in East–West trade).

Những người cực hữu cũng rất quan tâm về sự suy đồi của nền luân lý và giá trị cổ truyền. Họ rất trung thành với giá trị luân lý của đảng Cộng Hoà. Họ thường chống đối những chương trình, kể hoạch mà họ nghĩ là do cộng sản quốc tế hỗ trợ, các tệ đoan như tham những, hối lộ trong công quyền, trong nền tư pháp của Hoa Kỳ và các cơ quan cảnh sát. Họ chủ trương chính quyền có nhiệm vụ giáo huấn quần chúng để tránh sự lợi dụng của cộng sản và các phần tử phá hoại. Đặc biệt những người cực hữu hỗ trợ chế độ tự do kinh doanh và tư bản chủ nghĩa và chống đối chế độ xã hội chủ nghĩa do nhóm cực tả chủ trương.

Đặc nét của chính quyền dân chủ là tự do kinh doanh và tự do cạnh tranh. Tâm lý kinh tế chính trị này thể hiện rõ rệt nhất trong các cuộc bầu cử. Cử tri sẽ luận xét về chủ trương và đường lối của ứng cử viên về phương diện kinh tế nhiều hơn về các phương diện khác. Sự kiện này cũng hiển hiện ngay trong các nước cộng sản, vì tình trạng kinh tế suy sụp, quần chúng nghi ngờ khả năng quản trị của giới lãnh đạo, hô hào đòi tự do kinh doanh, tự do dân chủ. Vì thế, bây giờ các nước Đông Âu kể cả Nga Sô không còn noi gương xã hội chủ nghĩa, mà ngược lại các nước này noi gương các nước tư bản để phát triển kinh tế, nâng cao mức sống của quần chúng. Marx, Lenin, Stalin không còn là thần tượng mà là tội đồ của các dân tộc Đông Âu. Do đó chúng ta có thể nói, bất cứ hình thức chính quyền nào mang lại cho quần chúng hạnh phúc, no cơm ấm áo với các quyền tự do căn bản theo Thiên luật đều được dân chúng hỗ trợ. Tự do dân chủ là môi trường thuận lợi nhất cho vấn đề phát triển về mọi phương diện nhân sinh.

5. Sứ mệnh bảo vệ chính nghĩa tự do, dân chủ, nhân quyền

Hoa Kỳ là một quốc gia mẫu mực thực thi chế độ bảo vệ tự do dân chủ, nhờ đó trở thành quốc gia hùng mạnh nhất thế giới. Cơ quan FBI quản lý an ninh quốc nội kiểm soát chặt chẽ mọi hành vi phá rối trị an của CS Quốc tế. CIA quản lý an ninh quốc tế hoạt động rất hữu hiệu khiến cho Cộng Sản Quốc Tế, dù đã chiếm gần một nửa thế giới, từ sau thế chiến thứ hai, nhưng vẫn thất bại trong mưu toan khuynh đảo thành trì của Thế Giới Tự Do cho đến khi khối CS Nga và Đông Âu sụp đổ vào cuối thập niên 1980.

Trong suốt 100 năm sau ngày ban hành bản Tuyên Ngôn Cộng sản Quốc Tế (1848–1948), phong trào CSQT đã bành trướng qua các liên minh (Communist Comintern): Phong trào Đệ nhất (1864–1876), Đệ nhị (1889–1918), Đệ tam (1919–1943) và Đệ tứ Quốc Tế (1938–1953) nhằm lật đổ chính quyền tư bản, lấy giải thoát giai cấp vô sản làm cứu cánh và kỳ vọng đạo binh vô sản thế giới kết hợp để tiêu diệt tư bản vì lịch sử thế giới là lịch sử của giai cấp đấu tranh, biểu tượng là cuộc cách mạng vô sản tháng 10/1917 lật đổ triều đại Nga Hoàng Tsar Nicholas II… Tại Trung hoa, Mao Trạch Đông đã thôn tính Trung hoa lục địa năm 1949 và Tưởng Giới Thạch phải di tản chiến thuật ra đảo Đài Loan.

Trước sự bành trướng nhanh chóng của chủ nghĩa CS quốc tế, Hoa Kỳ đã gia tăng guồng máy an ninh quốc nội và tình báo quốc ngoại, ban hành và tu chính nhiều đạo luật ngăn ngừa phá rối trị an. Từ năm 1798, Hoa Kỳ đã ban hành luật Alien and Sedition Act ngăn ngừa và trừng trị cuồng ngôn nhằm làm mất uy tín chính quyền địa phương và trung ương… Năm 1917, Hoa Kỳ ban hành luật Espionage Act, đồng thời với cuộc cách mạng vô sản tại Nga sô.

Năm 1901, Tổng thống William McKingley bị các phần tử chủ trương vô chính phủ ám sát. Vị Tổng Thống thứ 25 của Hoa Kỳ, đã để lại các nhận xét bất hủ: “In the time of darkest defeat, victory may be nearest… That’s all a man can hope for during his lifetime – to set an example – and when he is dead – to be an inspiration for history”.

Tiểu bang New York ban hành luật ngăn ngừa tội phạm ám sát vì lý do chính trị và âm mưu lật đổ chính phủ… Năm 1919 Schenck, đảng viên CS, đã bị kết án chiếu luật Espionage Act 1917 vì sách động thanh niên phản đối chiến tranh và cản trở vấn đề tuyển mộ binh sĩ. Năm 1919 tại Ohio, Debs, một thủ lãnh CS, đã đọc diễn văn trước 1,200 khán giả nhằm sách động chống chiến tranh, xúi dục thanh niên bất tuân lệnh nhập ngũ, đã bị kết án trên 10 năm. Năm 1927 tại California, Whitney, đảng viên CS, bị kết án vi phạm luật Criminal Syndicalism Act, tổ chức phá hoại, dùng bạo lực làm phương tiện lật đổ chính quyền hợp pháp…. Năm 1951, chiếu luật Smith Act, 11 lãnh tụ CS đã bị kết án vì chủ trương bạo hành, lật đổ chính phủ…

Tại nhiều tiểu bang Hoa Kỳ, Quốc hội đã ban hành luật trừng trị các hành động phá rối trị an, lật đổ chính phủ. Các luật lệ cấp Liên bang cũng như cấp Tiểu bang hiện nay vẫn còn có hiệu lực áp dụng đối với các hành vi phá rối trị an, lợi dụng tự do ngôn luận tuyên truyền xuyên tạc, sách động quần chúng tạo nguy cơ cho nền an ninh quốc nội.

Chúng tôi xin đơn cử một thí dụ về luật tiểu bang đối với chủ nghĩa cộng sản, nhân viết về vụ William Joiner Center thuộc Trường Đại Học Massachusetts tại Boston, tiểu bang Massachusetts, thuê hai cán bộ CSVN tham gia vào công tác viết về lịch sử người Việt tỵ nạn hải ngoại. Trong suốt hai năm từ tháng 1/2000 đến tháng 3/2002, Cộng đồng người Việt hải ngoại đã nỗ lực tranh luận với Đại học Mass tại Boston hầu điều chỉnh hành động vi phạm luật lệ của Đại học Mass.

Luật của tiểu bang Massachusetts, định nghĩa các tổ chức khuynh đảo là những tổ chức có mục đích chung nhằm lật đổ chính quyền hợp pháp bằng phương pháp bạo động hay các phương thức bất hợp pháp khác. Đảng cộng sản là đảng có mục đích khuynh đảo, do đó đảng cộng sản là đảng không được luật Massachusetts công nhận. Tổng trưởng Tư pháp có nhiệm vụ điều tra và truy tố các tổ chức khuynh đảo. Đảng viên các tổ chức khuynh đảo thường bị truy tố về tội hình sự, không được ứng cử vào các chức vụ công cử, không được bổ nhiệm vào các chức vụ tại các cơ quan công quyền, không được tuyển dụng vào các cơ sở giáo dục công lập và tư thục, và bị cấm hành nghề trong một số ngành dịch vụ, không được nhập tịch, v.v.

Luật Massachusetts, Chương 264,

Điều 16 ấn định: “… Subversive organizations… mean any form of association… whether incorporated or otherwise for the common purpose of advocating, advising, counseling or inciting the overthrow by force or violence or by any unlawful means, of the government of the Commonwealth or of the United States.”

Điều 16 A: “The Communist Party is hereby declared to be a subversive organization.”

Điều 17: “A subversive organization is hereby declared to be unlawful.”

Điều 18: “The attorney general shall bring an action… against any organization which has reasonable cause to believe is a subversive organization.”

Điều 19: “Any person who becomes or remains a member of any organization knowing to be a subversive organization shall be punished by imprisonment in the state prison for not more than three years….”

Điều 20: “No person who has been convicted of a violation of the provisions… of section nineteen… shall be eligible to… employment… in any public or private institution… The attorney shall have jurisdiction in equity to restrain and enjoin any such person from performing such duties.”

Mặc dù hiện nay Hoa Kỳ giao thương với các nước cộng sản vì lý do kinh tế, thương mại, an ninh toàn cầu; vì lý do nhân đạo để nâng cao sinh hoạt của các lĩnh vực nhân sinh, và để bảo vệ nền văn minh nhân bản dựa trên các quyền thiên nhiên (natural rights civilization) hay nhân quyền do Tạo hóa ban cho nhân loại mà không ai được quyền xâm phạm. Tuy vậy các chính quyền độc tài vẫn đối nghịch với thế giới tự do, chứ không có nghĩa bang giao tức là xóa bỏ lằn ranh Quốc, Cộng.

Quan niệm về các quyền bất khả xâm phạm do Tạo hóa ban cho nhân loại là quan niệm phát xuất từ dân gian. Hầu hết nhân loại hướng về đấng Tạo Hoá. Từ ngàn xưa các bộ tộc, quốc gia đều quan niệm tộc trưởng các bộ lạc hay vua chúa các quốc gia là Thiên Tử, trung gian giữa Trời và loài người, thừa mệnh Trời trị vì thiên hạ. Quan niệm này bàng bạc trong lịch sử và văn hóa nhân loại từ cổ đến thế kỷ 20. Tại Á Châu, Tần Thủy Hoàng lên ngôi năm 13 tuổi, đến năm 22 tuổi mới được thực thụ tấn phong vào chức vụ Hoàng Đế năm 238 trước Công nguyên. Các vua qua các triều đại tại Trung Hoa đều được tấn phong theo quan niệm Vua là Thiên Tử, thay mệnh Trời trị vì thiên hạ cho đến đời vua cuối cùng của Triều đại Mãn Thanh vào đầu thế kỷ thứ 20.

Bên phương trời Tây, các Đức Giáo Hoàng La Mã, đại diện cho Thần quyền, là Giáo hội Công Giáo, thường tấn phong các vị Hoàng Đế như Giáo Hoàng Lê–ô thứ III năm 800 sau Công nguyên đã tấn phong Hoàng Đế Charlemagne. “Thần quyền và thế quyền như linh hồn và thể xác không thể tách rời nhau.”

Khổng giáo quan niệm “Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh”. “Dân là nước, vua là thuyền. Nước có thể lật đổ thuyền”. Nhưng Khổng học cũng quan niệm “Trung thành bất sự nhị quân”. CS Tàu đã lợi dụng chủ trương “Trung Thành” này để khuyến dụ dân chúng trung thành với Đảng CS. Ngày nay Trung Cộng lập các Viện Khổng Tử tại một số quốc gia trên thế giới để bành trướng văn hoá Tàu. Nhưng tiếc thay, các Viện Khổng Tử cũng là cơ quan tình báo. Sự lạm dụng này đã khiến cho một số cơ quan truyền bá văn hoá của Trung Cộng bị các quốc gia đóng cửa.

Chủ nghĩa CS vô thần không công nhận các quyền bất khả xâm phạm và nổi tiếng trên thế giới là chủ nghĩa vi phạm nhân quyền. Vì CS vô thần, không tin con người có đời sau, nên không có tín ngưỡng. CS chủ trương con người là sinh vật kinh tế, không có linh hồn, nên cũng sống theo bản năng như các cầm thú khác. Ngược lại, các quốc gia tự do quan niệm mọi người sinh ra được hưởng quyền bình đẳng và những quyền thiên nhiên (natural rights) bất khả xâm phạm được Tạo hóa ban cho nhân loại.

Một trong những đặc điểm của Văn Minh Tây Phương là chủ trương quảng bá và trọng nhân quyền, tôn trọng nhân phẩm, nhân vị của con người. Mọi người được bình đẳng, được tạo dựng theo hình ảnh của Tạo hoá. Con người có:

(1) trí tuệ (intellect) để thu nhận kiến thức, tinh luyện suy luận và phát triển sáng tạo;

(2) lý trí (reason) để suy xét, phân biệt phải trái, thiện ác;

(3) ý chí (will) để quyết tâm thực hiện điều mình mong ước hay lý tưởng của mình và

(4) tự do (freedom) để hành động theo lương tri.

Do đó, con người “Nhân linh ư vạn vật” cao trọng hơn các loài thọ sinh khác.

Trong bản Tuyên Ngôn Độc Lập, ngày 2 tháng 9 năm 1945 tại Ba Đình, Hà Nội, ông HCM cũng lập lại những câu văn trong Bản Tuyên Ngôn Độc Lập của Hoa Kỳ năm 1776, mở đầu với câu:

“Hỡi đồng bào cả nước. Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”.

Lời bất hủ ấy ở trong bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ. Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do. Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791 cũng nói: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi. Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được.”

CSVN muốn dụ hoặc đồng bào và đánh lừa dư luận thế giới tự do, vì nếu chúng ta xét qua thực chất hoạt động của đảng CSVN từ năm 1945 đến nay, chúng ta thấy rõ CSVN chỉ hứa suông mà không bao giờ có thành ý thực hiện những điều hứa hẹn. Lời hứa không mất tiền mua. Edmund Burke rất hữu lý khi nhận xét về những hứa hẹn hão huyền của các chính quyền độc tài: “Hypocrisy can afford to be magnificent in its promises; for never intending to go beyond promises, it cost nothing”.

Về phương diện tri thức, nghiên cứu về quyền thiên nhiên do Tạo Hoá ban cho nhân loại thuộc phạm trù Thần học (Theology). Các ý niệm về nhân phẩm, nhân quyền, các quyền bất khả xâm phạm được hiểu qua đức tin (Faith seeking understanding: If you do not believe, you will not understand) hơn là qua suy lý. CS Vô Thần không tin vào đấng Tạo Hóa tạo ra vũ trụ và nhân loại, nên chưa trưởng thành để am hiểu các ý niệm về quyền tự do Tạo Hoá ban cho nhân loại. Những quyền này Tạo Hoá ban cho mọi người, nhưng Tạo Hóa cũng ban cho con người tự do để chọn sự lành, lánh sự dữ hay ngược lại.

Ngoài ra, vì trí tuệ con người có khả năng hữu hạn nên ngoài cuộc sống trần tục, có những điều mà giác quan chúng ta không thu nhận được nên chúng ta cần phải có lòng tin tưởng để được Thiên khải. Cố Tổng Thống Hoa Kỳ Calvin Coolidge đã nhận định: Chỉ khi nào con người có tín ngưỡng mới mong được trưởng thành. “It is only when men begin to worship that they begin to grow” – “Có cầu mới được, có xin mới cho, có gõ mới mở”.

Quan niệm về quyền bất khả xâm phạm thiên nhiên do Tạo hóa ban cho nhân loại đã và đang ảnh hưởng đến tâm lý chính trị, tư duy và hành động, của nhân dân hữu thần trên thế giới và các triết thuyết chính trị của các quốc gia dân chủ Tây phương. Bảo vệ Tự do, dân chủ, nhân quyền là căn bản, là nền móng, là những hạt giống cưu mang mầm mống của các cuộc cách mạng tại Mỹ (1776), tại Pháp (1789) trong thế kỷ thứ 18 và ý niệm giải phóng nô lệ phát xuất từ Anh Quốc năm 1833 và sau đó được khai triển tại Mỹ gây nên cuộc nội chiến 1861–1865 trong thế kỷ thứ 19.

Tư tưởng lên khuôn cho hành động. Vấn đề thực thi sứ mệnh bảo vệ quyền tự do thiên nhiên (Natural Rights Liberty) do Tạo Hóa ban cho nhân loại đã và đang là nguyên động lực điều hướng chính sách đối nội, đối ngoại của Hoa Kỳ.

Đối nội, một trong những nguyên nhân chính của cuộc nội chiến tại Hoa Kỳ (1861–1865) là để bảo vệ nhân quyền, giải phóng chế độ nô lệ, vì chế độ nô lệ không phù hợp với Thiên lý, phản bội lý tưởng tự do. “Thuận Thiên giả tồn, nghịch Thiên giả vong”. Hoa Kỳ đã trả một giá rất đắt, đã hy sinh 618,000 nhân mạng trong cuộc nội chiến Nam–Bắc phân tranh và cả sinh mạng của vị Tổng Thống Cộng hoà khả kính Abraham Lincoln, người quyết tâm giải phóng chế độ nô lệ để cải tiến xã hội.

Đối ngoại, Hoa kỳ đã tham chiến chống Đức Quốc Xã và Phát-xít Nhật trong đệ nhị thế chiến (1939–1945) tại hai mặt trận Âu, Á. Hoa Kỳ đã hy sinh hơn 500,000 quân sĩ. Giả sử Hoa Kỳ không tham chiến thì Âu Châu, Phi Châu đã bị Đức Quốc Xã xâm lăng. Á Châu và ngay cả Úc Châu cũng bị Phát-xít Nhật chiếm đóng thì vận mệnh của các dân tộc liên hệ tang thương như thế nào!

Nếu không có Hoa kỳ đánh bại Nhật Bản thì Trung hoa chẳng những đã hy sinh 14 triệu người mà còn phải hy sinh nhiều sinh mạng hơn nữa và nhất là Âu Châu, Á Châu, Phi Châu, cả Úc Châu cũng không biết bao giờ mới thoát khỏi ách độc tài đảng trị của Đức và Nhật. Trong cuộc chiến chống sự bành trướng của CS Quốc Tế tại Việt Nam, Hoa Kỳ cũng hy sinh 58,000 nhân mạng trong số đó có 7 vị tướng lãnh.

Tất cả hy sinh mà Hoa Kỳ gánh chịu, không phải để xâm lăng, chiếm đất, giành dân, mà đã thể hiện ý chí bất khuất trong chủ trương “bảo vệ chính nghĩa tự do” cho nhân loại chống kẻ xâm lăng. Đúng với triết lý nhân sinh của một quốc gia quyết tâm ra tay nghĩa hiệp:

“Nếu người tốt không ra tay nghĩa hiệp thì kẻ gian tà chiến thắng –Evil triumphs if good men do nothing.” (Edmund Burke) Và người hành động dưới ngọn cờ chính nghĩa chứ không phải xâm lăng qua chiêu bài giải phóng để áp đặt chế độ độc tài đảng trị, xoá bỏ biên giới quốc gia mà tổ tiên đã hy sinh xương máu gầy dựng qua hàng ngàn năm lịch sử từ Ải Nam Quan đến Mũi Cà Mau.

Hơn 125,000 quân nhân anh dũng, binh sĩ và tướng lãnh Hoa Kỳ, đã “sống gởi nạc, thác gởi xương” tại các nghĩa trang Âu, Á, nơi mà họ đã hy sinh để giành lại chủ quyền cho các quốc gia lâm chiến như Anh, Pháp, Phi và các nước khác tại Âu châu, Á châu… Hàng năm, đến ngày kỷ niệm Đệ Nhị Thế Chiến, dân chúng các quốc gia này đã đem vòng hoa ra tảo mộ, tri ân các chiến sĩ Hoa kỳ đã hy sinh mạng sống để giải phóng dân tộc họ. Đó là bằng chứng hy sinh vì Chính nghĩa, vì lý tưởng tự do mà thế giới CS không bao giờ có.

Ngoài vấn đề hy sinh nhân mạng, nhân dân Hoa Kỳ, sau thế chiến đã viện trợ hằng ngàn triệu Mỹ Kim để tái thiết Âu Châu và Nhật Bản. Hoa kỳ đã lột xác Nhật Bản từ chế độ quân trị, kiêu binh lạc hậu sang chế độ tự do dân chủ, bằng cách cung cấp thực phẩm, kỹ thuật, nhân tài vật lực để tái thiết quốc gia Nhật về mọi khía cạnh nhân sinh văn hoá, giáo dục, kinh tế, xã hội, chính trị. Nhờ thế, Nhật Bản đã trỗi dậy nhanh chóng sau cơn binh biến và ngày nay đã trở thành một quốc gia hùng mạnh ngang hàng với các nước tiên tiến Tây phương. Nhật Bản tuy bại trận, nhưng luôn biết ơn Hoa Kỳ, đã từng vinh danh Tướng MacArthur vào danh sách phong thần, một trong 12 ân nhân của dân tộc Nhật.

Tại Việt Nam, năm 1975. Cộng Sản Bắc Việt đã vi phạm Hoà Ước Ba Lê và xâm lăng miền Nam Việt Nam nên Hoa Kỳ không viện trợ tái thiết. Cộng sản Bắc Việt, quá lạc hậu và dã man, đã trả thù Miền Nam bằng cách bắt giam hằng triệu dân, quân, cán, chính Miền Nam. Hàng chục ngàn người đã chết trong ngục tù CS vì bị tra tấn, đói khát và bệnh tật do chế độ lao tù bất nhân của chế độ CS. Hơn nửa triệu người đã chết thảm trên biển cả hay vùi thây bên góc rừng, xó núi, trên đường vượt thoát tìm tự do. Cuộc chiến do CS Miền Bắc phát động đã gây nên cuộc chiến tương tàn làm cho 5 triệu người Việt vô tội bị vong mạng.

6. Tâm lý cử tri

Ngoài các chủ trương thượng dẫn thể hiện qua tâm lý quần chúng, ảnh hưởng trầm trọng đến kết quả các cuộc tranh cử cấp tiểu bang và liên bang, thái độ chính trị của cử tri còn thể hiện hai loại khuynh hướng về chính trị và kinh tế:

(1) Khuynh hướng thứ nhất là bầu cho người tại vị (incumbency–oriented) và chọn ứng cử viên theo chính sách quốc gia (policy–oriented),

(2) Khuynh hướng thứ hai là chọn ứng cử viên theo kinh nghiệm kinh tế cá nhân của cử tri (personal experiences) và lượng định tình trạng kinh tế quốc gia (national assessment).

Cử tri thường dồn phiếu cho ứng cử viên đương nhiệm hoặc ứng cử viên cùng đảng với vị tiền nhiệm, nếu tình trạng kinh tế khả quan. Năm 1981, cử tri Hoa Kỳ đã bầu Tổng thống Reagan (1981–1988) và sau đó bầu cho Tổng thống Bush (1989–1993) thể hiện nền kinh tế khả quan dưới thời Cộng Hoà so với nền kinh tế suy sụp lạm phát phi mã dưới thời Carter (1976–1980) nên TT Carter đã thất cử khi ra tranh cử nhiệm kỳ hai.

Trong nền kinh tế Hoa Kỳ, nên lưu ý đến hai vấn đề quan trọng: thất nghiệp (unemployment) và lạm phát hay sinh hoạt đắt đỏ (inflation). Hai hiện tượng kinh tế này có tính cách nghịch vị: Thất nghiệp tăng thì lạm phát giảm. Thời Tổng thống Carter (1977–1981) lạm phát quá cao, (mortgage interest rate để mua nhà từ 12–18%). Cử tri chú trọng vào chính sách hơn là đảng phái hoặc cá nhân khiến cho Carter thất cử. Cử tri không bầu cho Carter đương nhiệm mà bầu cho Reagan. Từ năm 1981 đến 1993, đảng Dân Chủ không thể giành lại ngôi vị Tổng thống vì đảng Cộng Hoà có nhiều bí quyết chế ngự được nạn lạm phát và giảm tỷ số thất nghiệp. Thường nạn thất nghiệp dưới thời Cộng Hoà cao hơn dưới thời Dân Chủ, do đó những người sợ nạn thất nghiệp, hay lo lắng về tình trạng kinh tế cá nhân thường dồn phiếu cho ứng cử viên đảng Dân Chủ. Hai vấn đề này đều thuộc về kinh tế đại tượng (macro econ.). Đảng nào quân bình được cán cân thất nghiệp và lạm phát sẽ có nhiều cơ hội gặt hái được kết quả tốt đẹp trong các cuộc bầu cử. Sau cuộc bầu năm 2016, TT Trump đắc cử, nền kinh tế khởi sắc, nạn thất nghiệp giảm, kinh tế phồn thịnh.

Kinh nghiệm của cử tri về kinh tế cá nhân (personal experiences) và tình trạng kinh tế quốc gia (national assessment) cũng đóng một vai trò quan trọng trong sự hình thành quyết định của cử tri. Nếu tình trạng gia đình khả quan, cử tri sẽ tiếp tục bầu cho Tổng thống, Thống đốc đương nhiệm hoặc cùng đảng. Sự kiện này có thể suy luận từ tình trạng kinh tế và kết quả các cuộc bầu cử cấp tiểu bang và liên bang. Chính cá nhân cử tri mới hiểu rõ tình trạng hạnh phúc hay đau khổ của mình vì sự thăng trầm của nền kinh tế, đúng như nhận xét của kinh tế gia Adam Smith: “Every man feels his own pleasures and his own pains more sensibly than those of other people.”

Lại nữa trong bất cứ nhiệm kỳ nào của Dân Chủ hay Cộng Hoà đều có người thất nghiệp. Những người thất nghiệp có thể có hai thái độ: bầu cho tổng thống đương nhiệm nếu nhận thấy tình trạng quốc gia khả quan và không cần luận về tình trạng thất nghiệp cá nhân. Cũng có thể họ bầu cho ứng cử viên mới để mong tình trạng cá nhân hầu có thể thay đổi. Vấn đề này thuộc tâm lý cá nhân nghĩ đến quốc gia dân tộc hay đặt nặng quyền lợi cá nhân, do đó cùng một hoàn cảnh có thể hai người có hai thái độ khác nhau.

Trong cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ (2001–2008), đa số dân chúng Mỹ nghĩ rằng tình trạng kinh tế khả quan, đời sống gia đình thoải mái nên bầu cho ứng cử viên Cộng Hoà George Bush về cả hai phương diện kinh nghiệm kinh tế cá nhân và tình trạng kinh tế quốc gia. “When the nation’s economy is doing well, the voters would tend to vote for the incumbents, while those who believed it had been worsened would tend to vote for the challengers.”

Nhưng sau cuộc chiến kéo dài ở Trung Đông nhằm tiêu diệt khủng bố đã đánh vào thành trì tư bản của thế giới từ năm 2001. Tình trạng kinh tế gặp khó khăn nên dân chúng muốn có sự thay đổi. Ông Obama, nhờ chủ trương “Change” đã được bầu làm Tổng Thống được 2 nhiệm kỳ (2008–2016).

Tuy nhiên, khi gần hết hai nhiệm kỳ của Obama, xem ra dân chúng không thấy được sự thay đổi như Đảng Dân Chủ đã hứa hẹn. Ngân sách quốc gia thâm hụt đến 18 trillion hay 18,000 tỷ ($18,000,000,000,000). Tình hình an ninh quốc nội lại bị khủng bố đe dọa, thất bại về chính sách đối nội và đối ngoại.

Năm 2008, khi TNS Obama nhậm chức Tổng Thống, đảng Dân Chủ chiếm đa số cả Thượng viện lẫn Hạ Viện Hoa Kỳ. Sau 4 năm trị vì, dân chúng bất mãn, đảng Dân chủ mất một số lớn ghế Thống Đốc và mất luôn quyền kiểm soát Thượng viện và Hạ viện Hoa Kỳ và lưỡng viện quốc hội tại nhiều tiểu bang.

Dự định phân phối người lớn và trẻ em vượt biên bất hợp pháp từ Nam Mỹ, hoặc di dân từ Trung Đông đến các tiểu bang, không nghĩ đến lý do an ninh và gánh nặng an sinh xã hội. Sự kiện này đã gây phẫn nộ trong quần chúng và hơn 30 vị Thống Đốc đã phản đối TT Obama về vấn đề di dân và nhiều vấn đề nhiêu khê khác.

Sở dĩ cuộc vận động tranh cử Tổng Thống Hoa Kỳ nhiệm kỳ 2016–2020 đã có nhiều ứng cử viên đảng Cộng Hòa ra tranh cử vì các đảng viên Cộng Hoà thấy đây là cơ hội tốt để thắng cử. Trong lúc đó đảng Dân Chủ chỉ có 4 ứng cử viên, nhiều người không tham gia tranh cử vì thấy cơ hội thắng cử của đảng Dân chủ không cao. Thêm vào đó, chính trị Hoa Kỳ thường thay đổi đảng cầm quyền quốc gia cứ 8 năm một lần.

Tuy nhiên kết quả thăm dò dư luận thường thay đổi có khi tùy theo một số biến cố không thấy trước được như nạn khủng bố ở Pháp, hay ở San Bernardino, CA năm 2015, đã nâng cao điểm tín nhiệm cho một số ứng cử viên quan tâm đến chủ trương mạnh mẽ về vấn đề chống khủng bố, chống di dân mà các chính khách nhà nghề thường giữ thái độ dè dặt sợ bị phản ứng không dám lên tiếng. Nói khác đi một con bướm bay ở Âu châu có thể tạo nên làn gió mạnh ở Mỹ châu hoặc ngược lại. “Butterfly effect: This effect grants the power to cause a hurricane in China to a butterfly flapping its wings in New Mexico. It may take a very long time, but the connection is real. If the butterfly had not flapped its wings at just the right point in space/time, the hurricane would not have happened. “

Trong các xã hội độc tài đảng trị chỉ có một khuynh hướng chính trị độc tôn. Trong các quốc gia tự do dân chủ, công dân được hưởng quyền tự do thiêng liêng do Thượng Đế (natural law) ban cho mà không ai có quyền xâm phạm.

Bản Tuyên Ngôn Độc Lập của Hoa Kỳ năm 1776 đã ghi rõ: “All men are created equal, that they are endowed by their Creator with certain unalienable Rights that among these are Life, Liberty and the pursuit of Happiness”. Mọi người sinh ra đều được bình đẳng, thụ hưởng những quyền bất khả xâm phạm do Thượng Đế ban cho, như quyền được sinh sống, quyền tự do và quyền tìm kiếm hạnh phúc…

Nền chính trị tại Hoa kỳ rất phức tạp, luôn luôn có những làn sóng ngầm xung đột giữa các quan niệm khác nhau, về vấn đề chọn ưu tiên trong khi thực hiện quốc sách.

(1) Ý niệm phổ quát cổ truyền được công chúng nhắc đến là ý nguyện của các bậc khai quốc công thần đã thể hiện qua Bản Tuyên Ngôn Độc Lập năm 1776 và Hiến Pháp năm 1787 chủ trương giành ưu tiên để bảo vệ quyền tự do thiên nhiên của con người do Thượng Đế ban cho “Natural Rights liberty”. Từ khuynh hướng căn bản này, một số ý niệm khác được khai triển.

(2) Ý niệm thứ hai là dành ưu tiên đề bảo quản quyền tự trị địa phương hay tiểu bang “Classical Communitarian Liberty”. Ý niệm này bênh vực quyền quản trị địa phương, tăng quyền tiểu bang và hạn chế quyền liên bang. Các tiểu bang đều có hai Thượng Nghị Sĩ và cứ khoảng trên dưới 500,000 dân được bầu một dân biểu trong Quốc hội Liên bang. Mỗi tiểu bang có quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.

(3) Khuynh hướng thứ ba là ưu tiên để bảo vệ tự trị kinh tế cá nhân “Economic Autonomy Liberty”.

(4) Khuynh hướng thứ tư là dành ưu tiên bảo vệ công bằng xã hội “Social Justice Liberty” và

(5) Thứ năm là dành ưu tiên bảo vệ quyền tự do cá nhân “Personal Autonomy Liberty”, trong đó có vấn đề phá thai mà cuộc tranh luận khéo daì cho đến ngày nay. Nhân kỷ niệm 48 năm án lệ Roe v. Wade (1973-2021). Chúng ta thử xem qua lập trường đôi bên:

“The Biden Administration made the announcement in a press statement put out by the White House. “The Biden-Harris Administration is committed to codifying Roe v. Wade and appointing judges that respect foundational precedents like Roe,” reads the statement. “In the past four years, reproductive health, including the right to choose, has been under relentless and extreme attack,” it continues. “We are deeply committed to making sure everyone has access to care—including reproductive health care—regardless of income, race, zip code, health insurance status, or immigration status.” Roe v. Wade was the 1973 Supreme Court 7-2 decision ruling that the Constitution of the United States protects a pregnant woman’s liberty to choose to have an abortion without excessive government restriction. It struck down many U.S. federal and state abortion laws.

Meanwhile, Sen. Rand Paul (R-Ky.) said, “Today marks the grim 48th anniversary of Roe v. Wade. Since this ruling in 1973 over 62 million innocent lives have been lost due to abortion. Every single life matter including the unborn. We must protect the sanctity of life & prevent taxpayer dollars from funding abortions.”

Rep. Debbie Lesko (R-Ariz.) echoed Paul’s criticism. “Today is the tragic anniversary of Roe v. Wade,” Lesko wrote. “I am proud to be a pro-life woman in Congress and fight for the right to life for every unborn baby. Every life is a gift from God, and I will continue to defend the sanctity of life at every stage.”

Những người làm chính trị có thể, không ít thì nhiều, am hiểu tâm lý chính trị. Nhưng không hẳn người hiểu tâm lý chính trị lại làm chính trị. Trường hợp này, nghiên cứu để hiểu biết chính trị hơn là áp dụng kiến thức vào sinh hoạt chính trị một cách tích cực qua chính đảng. Hoặc nói cách khác đi không có “khiếu” hoặc không thích làm chính trị.

Làm chính trị cần sự dấn thân, can đảm, bền chí, nhẫn nhục… có khi hy sinh cả cuộc đời, không vì tư lợi mà vì quốc gia dân tộc. Tuy vậy, số người hy sinh vì quốc gia dân tộc thường ít, và khi hành động cần người hợp tác. Người hợp tác có thể vì danh lợi, thừa gió bẻ măng, tạo nên nạn bè phái, oán cừu, làm cho người có tâm huyết thân bại danh liệt.

Người có tâm huyết làm chính trị chỉ vì muốn thực hiện một sứ mệnh cao cả, không nề gian khổ, nếm mật nằm gai, noi gương Việt Vương Câu Tiễn, quyết chí xây dựng quốc gia dân tộc, như lời thơ diễn tả của Đằng Phương:

“Họ là những anh hùng không tên tuổi,
Sống âm thầm trong bóng tối mênh mông,
Không bao giờ được hưởng ánh quang vinh,
Nhưng can đảm và tận tình giúp nước.”

Chung quy, con người thường hành động theo tư tưởng của mình. Tư tưởng thu nhận từ xã hội, học đường, bạn bè… kết tinh thành trạng thái tâm lý, gọi chung là tâm lý quần chúng.

Muốn thu phục nhân tâm, trước hết phải am hiểu tâm lý quần chúng. Muốn am hiểu quần chúng phải có tâm hồn khoáng đạt, cởi mở để có thể tiếp nhận ý kiến từ nhiều quan điểm thuận cũng như nghịch, để rồi tinh luyện, biến hoá, tương kế tựu kế, hầu thực hiện sứ mệnh cao cả của mình.

Dầu sinh hoạt chính trị dưới hình thức nào đi nữa thì bốn lập trường nêu trên từ cách mạng tả phái đến phản cách mạng hữu phái, vẫn là đặc tính chung của phạm trù tâm lý chính trị.

Trong bất cứ xã hội nào, thường một thiểu số chấp nhận một thái độ, một lập trường và dùng lập trường đó như kim chỉ nam hướng dẫn hành động. Từ đó một thiểu số tranh đấu cho lý tưởng của họ, nếu thắng thế, họ sẽ trở thành cấp lãnh đạo. Lãnh đạo vì dân vì nước là phước của quốc gia. Lãnh đạo vì xôi thịt là quốc nạn.

Thế thì không nên hờ hững với chính trị. Một mặt sinh hoạt chính trị “nhằm sửa trị sự việc cho chính trực”. Mặt khác nếu mình không tỏ rõ lập trường, tà đạo lên nắm quyền thì chính mình sẽ là nạn nhân của thời cuộc. “Evil triumphs when good men do nothing” (Edmund Burke). Nhận xét này là kim chỉ nam hướng dẫn hành động của đống bào quốc nội yêu chuộng tự do và quý vi đồng hương hải ngoại trong công tác kiện toàn cơ cấu tổ chức các đoàn thể ái hữu, tôn giáo, cộng đồng địa phương, tiểu bang, liên bang, quốc tế để xây dựng đời sống mới hầu hỗ trợ cho đại nghiệp cứu quốc chóng được viên thành.

Nhờ tự do tư tưởng mà các nước dân chủ đã tiến xa trên bước đường xây dựng quốc gia dân tộc, ý thức chính trị của quần chúng cao. “Ý dân là ý trời- vox populi vox dei”, không phải thể hiện bằng cách mạng, bằng đảo chánh, gây chiến tranh, cướp chính quyền mà bằng phương thức ôn hoà, nhân bản qua phương thức văn minh: Bầu cử tự do, thực thi quyền dân tộc tự quyết.

Bầu Cử Tự Do thật sự hiện hữu mỗi khi cơ quan tổ chức bấu cử, cử tri, ứng cử viên dựa trên động cơ đạo đức cao thượng” Một lòng vì dân, vì nước” qua quá trình (1) nghiên cứu, kiện toàn, tìm hiểu tường tận kỹ thuật, luât lệ tổ chức, điều kiện cử tri, ứng cử viên, chiếu theo nhu cầu của môi trường dân sinh, phát triển xã hội (cách vật trí tri); (2) tham gia bầu cử với tư cách cử tri, ứng viên hay nhân viên phòng phiều với tấm chân tình nhằm mục đích phung sự xã hội, “thương vì đức, hạ vì dân” (thành tâm); (3) Khi sự thành tâm đã an định thì không dùng phương pháp lương lẹo, gian trá, thay trắng đổi đen, (chánh ý); (4) Người được vinh danh là người có phẫm hạnh, là người luôn xét mình, tự sửa sai để hoàn thiện trong lời nói và việc làm (tu thân); (5) chọn người đại diện một cách công minh, chính trực thể hiện sự liêm chính, là hành vi nêu gương tốt cho con, cháu, trong công tác giáo dục, xây nền tảng gia đình (tề gia) (6) các cuộc bấu cử tự do được điều hành một cách chính trực gia tăng giá trị của tập thể, lòng tín nhiệm của đồng bào, sự thoã mãn của ứng cử viên, trong công tác xây dựng nhân quần xã hội (trị quốc); một khi mọi người, mọi nhà, mọi quốc gia tuân giữ đaọ đức truyền thống thì công đồng quốc tế đươc thái bình thịnh trị, (bình thiên hạ).

Nếu vai trò của các đoàn thể, cộng đồng, chính đảng, chính phủ là để hoằng dương chủ trương, đường lối chính trị để mời gọi sự hợp tác của quần chúng trong công cuộc xây dựng tự do, dân chủ và thịnh vượng cho quốc gia, dân tộc, thì công dân phải sáng suốt tự chọn lấy lập trường cho chính mình vậy.

Trần Xuân Thời

Về sự khác biệt của 2 cuộc chiến tranh Việt Nam và Afghanistan (A Phú Hãn)

Cao Tuấn

Đoạn kết của chiến tranh A Phú Hãn tháng 8/ 2021 giống như đoạn kết của chiến tranh Việt Nam tháng 4/ 1975. Người Mỹ tháo chạy trong hỗn loạn, không xứng đáng là đệ nhất siêu cường. Cùng lúc, chính quyền Kabul giống như  chính quyền VNCH, được Mỹ ủng hộ trên dưới 20 năm, sụp đổ tan hoang.

Tuy nhiên nhìn kỹ hơn thì cuộc chiến tranh Việt Nam và chiến tranh A Phú Hãn khác nhau về nhiều mặt.

Một: 

Chiến tranh Việt Nam là sự đụng độ giữa Mỹ và cả khối Cộng Sản, lúc đầu chính yếu là Cộng Sản Tầu, Cộng Sản Việt nhưng sau gồm cả Liên Xô, Bắc Hàn, Cu Ba, các nước Cộng Sản Đông Âu. Mỹ kéo được một số đồng minh Á Châu tham chiến như Úc, Tân Tây Lan, Đại Hàn, Thái Lan, Phi Luật Tân nhưng các đồng minh mạnh nhất của Mỹ ở trong Nato lại chọn đứng ngoài. Dù sao, chiến tranh Việt Nam cũng là cuộc xung đột dữ dội nhất, nóng nhất , dai dẳng nhất của thời kỳ chiến tranh lạnh giữa 2 phe Cộng Sản và Tư Bản, một thứ thế chiến thu gọn trên chiến trường Đông Dương.

Mỹ ở thế “thắng rất khó” mà “thua thì hiểu được” vì khối Cộng Sản lúc đó rất mạnh và dốc toàn lực dù bề ngoài là chỉ có Cộng Sản Việt Nam đánh nhau với Mỹ. Nhờ sự chống lưng vô giới hạn của Trung Cộng, Bắc Việt không cần chia quân lo phòng thủ vì biết trước Mỹ, sau kinh nghiệm xương máu trong chiến tranh Triều Tiên, không muốn hoặc không dám đụng độ trực tiếp với một biển quân Tầu thêm lần nữa, nên chắc chắn sẽ không vượt sông Bến Hải  tiến binh ra Bắc. Trong khi đó thì Bắc Việt cứ tự do hàng hàng lớp lớp theo hệ thống đường mòn Hồ Chí Minh đổ quân vào Nam.

Bắc Việt cũng  không cần làm kinh tế sản xuất vì lương thực, súng đạn đã được đàn anh cung cấp đủ. Không còn là một quốc gia bình thường, phe Cộng Sản đã biến Bắc Việt thành một trại lính – chỉ ăn, ngủ, huấn luyện ngắn ngủi rồi lên đường “chống Mỹ, cứu nước”, “sinh Bắc, tử Nam” nghĩa là đánh cho tới chết, đánh đến người Việt Nam cuối cùng. (Ngay cả người Việt chết hết, Mỹ vẫn còn đối phó với một tỉ người Tầu thù nghịch…)

Chiến tranh A Phú Hãn ngược lại. Tương quan lực lượng hoàn toàn chênh lệch. Lợi cho Mỹ và bất lợi cho Taliban. Trước sau chỉ đơn độc Taliban đối đầu với Mỹ và các lực lượng đồng minh của Mỹ gồm cả quân đội của chính quyền Kabul do Mỹ dựng lên cộng với quân đội trong khối NATO như của Anh, Pháp, Đức, Ý, Ba Lan, Spain, Portugal, Norway, Canada …Thế mà cuộc chiến 20 năm kết thúc với Taliban toàn thắng mặc dù sự giúp đỡ từ bên ngoài mà Taliban nhận được rất không đáng kể. Đó là một điều rất đáng ngạc nhiên: Tại sao người khổng lồ và “bè đảng” lại thua một chú bé con một cách thảm thương như vậy!? Không những Mỹ là cọp giấy- như Mao Trạch Đông từng nói – mà cả NATO cũng là cọp giấy luôn, ít nhất trong trường hợp này.

Hai: 

Mỹ tốn phí khoảng 1,000  đến 2,000 tỉ đô la cho chiến tranh A Phú Hãn, tuỳ theo cách tính. Có thể là ngang bằng hoặc thậm chí cao hơn chi phí của Mỹ trong chiến tranh Việt Nam tính theo thời giá hiện hành. Mặt khác, cường độ và qui mô của chiến tranh A Phú Hãn lại chỉ bằng 1/10 hay 1/20 chiến tranh Việt Nam.

Trong chiến tranh Việt Nam ước lượng Mỹ chết 58 ngàn, phe Quốc Gia VN chết trận 250 ngàn, phe Cộng Sản VN chết 1 triệu. Số bị thương gấp mấy lần số chết. Thường dân chết vì bom đạn cũng thêm cả triệu. Trong chiến tranh A Phu Hãn, Mỹ chết khoảng tổng cộng 6 ngàn (cả quân sự, dân sự); quân đội và cảnh sát của chính quyền Kabul chết khoảng 70 ngàn; Taliban chết 60 ngàn; thường dân chết vì bom đạn cũng khoảng 70 ngàn. Tại cao điểm của chiến tranh Việt Nam, quân Mỹ hiện diện là hơn nửa triệu so với 100 ngàn tại cao điểm chiến tranh A Phú Hãn. Toàn bộ chiến tranh Việt Nam lấy đi ít nhất 3 triệu sinh mạng so với hơn 200 ngàn chết trong toàn bộ chiến tranh A Phú Hãn.

Chiến tranh A Phú Hãn căn bản là đánh du kích và phản du kích không có những trận đại chiến “long trời, lở đất” cấp sư đoàn như ở Việt Nam. Các  trận đánh Tết Mậu Thân, Lam Sơn 719, Bình Long, Kontum, Quảng Trị, Ban Mê Thuật, Long Khánh…đều đáng ghi vào quân sử thế giới.

Có thắng, có bại nhưng thực tế đã chứng tỏ quân đội của phe quốc gia Việt Nam thiện chiến và rất anh dũng dù sự lãnh đạo chính trị ở tầm mức quốc gia thì kém cỏi. Con số tử sĩ 250 ngàn cũng chứng tỏ chính đạo quân 1 triệu người này – trải qua hàng ngàn trận chiến lớn, nhỏ – mới là chủ lực ngày đêm bảo vệ cái thực thể Việt Nam Cộng Hoà suốt 20 năm chứ không phải quân viễn chinh của nước Mỹ, trông cậy quá nhiều vào hoả lực áp đảo và thường “vồ hụt” địch quân.

Đạo quân người Việt này đã bị “bức tử” một cách vội vã, hết sức thiếu công bằng trong năm cuối cùng của cuộc chiến. Giữa lúc đối phương mang toàn lực tấn công, viện trợ không được gia tăng mà còn bị cắt tàn nhẫn – đột ngột và toàn diện – cho nên không sụp đổ mới là chuyện lạ.

Nếu Liên Xô, Trung Cộng cũng cúp lương thực, cúp xăng dầu, cúp đạn, cúp pháo, cúp tăng…đối với Bắc Việt y chang như Mỹ đã làm đối với đồng minh Nam Việt thì chắc chắn không bao giờ có biến cố lịch sử tháng 4/1975!

Chiến tranh Việt Nam cũng làm đảo điên nước Mỹ trong nhiều năm. Phong trào chống chiến tranh lan tràn khắp nước Mỹ và khắp thế giới. Hội thảo, biểu tình liên tục. Trốn lính, bắt lính. Vừa đánh, vừa đàm. Leo thang, xuống thang. Nước Mỹ mất ăn, mất ngủ vì số thương vong quá cao được công bố mỗi ngày. Ngược lại, chẳng mấy ai lưu tâm đến chiến tranh A Phú Hãn, ngoại trừ   biến cố trùm khủng bố Bin Laden bị giết hoặc khi các chính trị gia Mỹ nêu vấn đề “rút hay không rút” vào lúc tranh cử.

Nói một cách khác, chiến tranh Việt Nam “sôi nổi, lôi cuốn” bao nhiêu thì chiến tranh A Phú Hãn lại “bình thường, tẻ nhạt” bấy nhiêu – tất nhiên là đối với công luận quốc tế, công luận Mỹ chứ không phải đối với hàng chục triệu dân A Phú Hãn phải hứng chịu tai hoạ chiến tranh mỗi ngày, không phải đối với mấy triệu người A Phú  Hãn sống vất vưởng ở các trại tị nạn ở các vùng biên giới.

Ba:

Sau khi Pháp thua trận Điện Biên Phủ 1954, nếu Mỹ phủi tay, quay lưng luôn thì Miền Nam Việt Nam chắc chắn sẽ mất vào tay Cộng sản rất sớm, cùng lúc với Lào và Cao Miên. Kế tiếp là các nước Đông Nam Á, nghèo nàn, bất ổn và đã nhen nhúm hoạt động cộng sản “Mao Ít” như Singapore, Mã Lai, Thái Lan, Indonesia, Phi Luật Tân… cũng sẽ lần lượt rơi rụng đúng như các quân cờ Domino.

Mỹ can thiệp vào chuyện Việt Nam và lập Liên Minh Phòng Thủ Đông Nam Á (SEATO) để ngăn chặn phong trào cộng sản quốc tế đang bành trướng mạnh, vì thế, là chuyện phải làm, là chuyện chẳng đặng đừng. Hành động ngăn chặn, “be bờ” của Mỹ tại Việt Nam (1954-1975 ) có tích cách phòng thủ chứ không phải có mục đích tấn công, không khác gì Mỹ đã hành động tại Tây Âu và thiết lập NATO sau khi các nước Đông Âu lần lượt bị cộng sản hoá trong tay của Stalin. Mỹ không xâm lăng Việt Nam như Cộng Sản vu cáo. Nỗ lực của Mỹ là giữ cho miền Nam Việt Nam và Đông Nam Á không bị cộng sản tràn ngập.

Cuối cùng, khác với trường hợp Nam Hàn, Việt Nam Cộng Hoà đã bị hy sinh nhưng phần lớn các nước Đông Nam Á khác đã được cứu rỗi. “Chiến tranh Việt Nam của nước Mỹ” đã trực tiếp và gián tiếp giúp Thái Lan, Mã Lai, Singapore, Indonesia, Phi Luật Tân có đủ thì giờ củng cố, phát triển tương đối vững mạnh để thoát khỏi mối nguy “bị cộng sản hoá cách này hay cách khác”. Đông Nam Á có ngày nay là nhờ chiến tranh Việt Nam, nhờ sự hiện diện của Mỹ ở Việt Nam trong 20 năm ấy. Đó chính là nhận xét của thủ tướng Singapore Lý Quang Diệu.

Chiến tranh Việt Nam cũng mang đến một kết quả khá lạ lùng: Mỹ “xuống nước” bắt tay với Trung Cộng để cùng chống Liên Xô và Liên Xô đã sụp đổ chỉ 15 năm sau khi được coi là thắng Mỹ trong cuộc chiến Việt Nam. Sáng kiến của Kissinger/ Nixon có thể là thảm hoạ cho nước Mỹ tính về lâu dài nhưng ít nhất, Mỹ cũng được coi là bá chủ thế giới hay “siêu cường duy nhất” trong 2 thập niên kế tiếp cho đến khi nước Tầu Cộng Sản của Tập Cận Bình ra mặt thách thức Mỹ.

Trong khi chiến tranh Việt Nam đối với nước Mỹ, như vậy, là sự cần thiết. Cuộc chiến 20 năm tại A Phú Hãn, đối với nước Mỹ, trái lại, là một sự phí phạm vô ích, một sự sai lầm gần như hoàn toàn.

Ngoài trừ việc săn đuổi và giết Bin Laden, hành động của Mỹ ở A Phú Hãn, về mọi phương diện, khó có thể biện minh.

Mỹ có quyền trừng phạt Taliban đã giúp đỡ và dung dưỡng Bin Laden và Al Qaeda tấn công nước Mỹ trong vụ 9/11 giết gần 3 ngàn người nhưng chiếm đóng A Phú Hãn và  ngang dọc tự tung, tự tác là một sự xâm lăng. Dù nhân danh sứ mệnh “giải phóng” hay “khai hoá” xã hội A Phú Hãn. Dù có giúp thiết lập một chính quyền thân Mỹ và “tự do, dân chủ” theo kiểu Tây Phương. Dù có giúp cải thiện đời sống vật chất và cả tinh thần của một thiểu số khá lớn người bản xứ sống trong các thành phố. Dù có cổ võ chuyện giải phóng phụ nữ và nam nữ bình quyền…

“Khai hoá” trong trường hợp này là một sự “áp đặt văn hoá” bằng võ lực vừa có tính cách tự tôn, ngạo mạn vừa làm dấy lên sự ngờ vực “khai hoá” chỉ là chiêu bài không khác chiêu bài của nước Anh khi mang hạm đội đến “khai hoá” Ấn Độ, của Hoà Lan “khai hoá” Indonesia, của Pháp khai hoá “Việt Nam”, của Tây Ban Nha “khai hoá” Phi Luật Tân trong các thế kỷ trước.

Chính Pakistan đã chứa chấp Bin Laden, tại sao Mỹ không đánh, chiếm Pakistan và lập chính quyền “tự do, dân chủ” thân Tây Phương? Còn bao nhiêu nước Hồi Giáo khắc nghiệt, vi phạm nhân quyền liên tục như Iran, Saudi Arabia… tại sao Mỹ và Nato làm ngơ? Hàng chục nước Phi Châu độc tài, áp bức, lạc hậu, nghèo đói…tại sao Mỹ và Nato không mang binh lực đến giải phóng, khai hoá? Tại sao lại chọn A Phú Hãn?

Người ta có quyền suy luận Mỹ dám mang lực lượng đến lật đổ chính quyền Taliban năm 2001 và dựng lên một nước A Phú Hãn mới vì lúc ấy chính quyền của tổng thống Bush (con) tự tin nước Mỹ là siêu cường duy nhất trên thế giới, muốn làm gì thì làm, không ai có thể ngăn cản. Chẳng hạn, nước Nga vẫn chưa đứng vững trên đống tro tàn của đế quốc Liên Xô. Nước Tầu với qui mô kinh tế  GDP nhỏ bằng 1/4 hay 1/5 của Mỹ còn đang rất nhũn nhặn với Mỹ theo lời căn dặn “dấu mình, chờ thời” của Đặng Tiểu Bình. Các nước Nato thì sẵn lòng sắp hàng theo gậy chỉ huy của Mỹ. Hơn thế nữa, chính quyền Taliban đơn độc không có đồng minh. Nước A Phú Hãn, nghèo nàn, lạc hậu “dường như” là một mục tiêu dễ dàng…

Người ta cũng có quyền suy luận Bin Laden, Al Qaeda, Taliban chỉ là cái cớ, tiềm năng quặng mỏ phong phú và nhất là vị trí chiến lược của A Phú Hãn ở Trung Á án ngữ con đường nối Âu, Á và Trung Đông, lại nằm sát Nga, Tầu, Ấn Độ, Iran, Pakistan mới là lý do thực sự Mỹ đến A Phu Hãn và muốn ở lại đây. “Lý tưởng” là một nước A Phú Hãn “tân tiến” khác hẳn các nước Hồi Giáo khác – thân Mỹ, có hiệp ước an ninh với Mỹ, chấp nhận sự hiện diện quân sự thường trực của Mỹ, cho Mỹ bố trí hoả tiễn mang đầu đạn hạt nhân trên những vùng cao nguyên chót vót có khả năng khống chế toàn vùng… Mỹ sẽ giữ được ngôi vị bá chủ lâu dài trên toàn thế giới…

Tuy nhiên, tất cả đã là “lâu đài xây trên cát”.

Nhân danh việc tìm công lý cho gần 3 ngàn người chết oan trong vụ khủng bố 9/11 nước Mỹ đã ném mình vào một cuộc chiến tranh sai lầm và không cần thiết khiến có thêm hơn 200 ngàn người nữa chết oan, chưa kể  2000 tỉ đô la ném xuống sông, xuống biển trong khi số tiền khổng lồ này đáng lẽ có thể dùng để tăng cường nước Mỹ về mọi mặt, chuẩn bị cho cuộc thư hùng không tránh được với nước Tầu cộng sản.

“America first” cũng được đi, nhưng đến bao giờ thì các chính trị gia và cả các chiến lược gia của nước Mỹ mới hết chủ quan, mới hết “ngây thơ vô… số tội”?!

Cao Tuấn

(24/ 8/2021)

“Thác Là Thể Phách, Còn Là Tinh Anh”

Bài tưởng niệm nhân vật lịch sử Nguyễn Ngọc Huy 31 năm sau ngày mất (28/07/1990)

Cao Tuấn

Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy (1924 – 1990)

Cuối cùng ai cũng phải chết. Đối với đại đa số người ta, ngoài phạm vi gia đình riêng, chết là hết. Nhân vật lịch sử thì khác. Chết mà vẫn còn. Ảnh hưởng của họ sau khi chết có thể quan trọng hơn cả ngay khi còn sống. Ông Nguyễn Ngọc Huy là một người như vậy hay là một trường hợp như vậy.

Nói như thế có quá đáng không?

Câu trả lời phải tìm trong cuộc đời tranh đấu phi thường của ông Nguyễn Ngọc Huy trong một giai đoạn lịch sử rất phức tạp, khó khăn. Và phải nghĩ cả đến tương lai của nước Việt Nam – sẽ Độc Lập, Dân Chủ, Tự Do, Hoà Bình, Hạnh Phúc hay vẫn tiếp tục chìm đắm, suy đồi trong độc tài, đảng trị để rồi tan biến không dấu vết vào nước Tầu Cộng Sản?

Làm chính trị đúng đắn cũng là làm cách mạng

Trong bài thơ “Anh Hùng Đất Việt” ông Nguyễn Ngọc Huy sáng tác ngày 27/07/1948 – vào khoảng 3 năm sau khi gia nhập Đại Việt Quốc Dân Đảng ở tuổi 21 – được in trong tập thơ Hồn Việt, dưới bút hiệu Đằng Phương có đoạn như sau:

Đây những người sinh nhằm thời quốc biến

Trong gian truân, cố chuyển lại cơ trời

Giữa đêm sâu, mưa máu rộn tơi bời

Vẫn thẳng tiến, không rời đường cách mạng

Ông Nguyễn Ngọc Huy lúc còn trẻ phải rất cảm hứng với “đường cách mạng” mới có thể viết được lời thơ rất truyền cảm vừa bầy tỏ sự khâm phục vừa bao hàm cả quyết tâm của chính mình muốn noi theo những tấm gương của những người hy sinh cho nước.

Điều khá lạ lùng là về sau này, ít nhất từ khi ông từ Pháp trở về nước năm 1964, lúc 40 tuổi, để tích cực hoạt động chính trị công khai như lập đảng Tân Đại Việt, Phong Trào Quốc Gia Cấp Tiến (hay Liên Minh Dân Chủ Việt Nam ở hải ngoại sau biến cố 1975), ông không còn hay nhắc tới “đường cách mạng”.

Từ đó, ông thường  nói “làm chính trị” mà không nói “làm cách mạng”. Lý tưởng và quyết tâm rõ ràng không suy suyển nhưng ngôn ngữ có sự thay đổi. Vậy, giải thích làm sao?

Thời Đệ Nhị Cộng Hoà Việt Nam ông Nguyễn Ngọc Huy là một trong 4 vị giáo sư nổi tiếng uyên bác nhất của trường Quốc Gia Hành Chánh, trường Luật, các trường đại học và cao đẳng khác trên toàn quốc về bộ môn chính trị học. (Ba vị kia là các ông Nguyễn Văn Bông, Vương Văn Bắc, Nguyễn Mạnh Hùng). Mà đối với chính trị học hay khoa học chính trị thì cách mạng (revolution) là một chủ trương chính trị hướng đến sự thay đổi xã hội một cách toàn diện thành ra làm cách mạng cũng là làm chính trị rồi.   Cố ý tách rời cách mạng khỏi chính trị, mang tính cách chủ quan, thiên về mục đích tuyên truyền, đặc biệt khi có người nhấn mạnh mình làm cách mạng, không làm chính trị.

Thời Pháp thuộc, vì điều kiện hoàn cảnh, các đảng phái cộng sản hay không cộng sản thường là các đảng kín, kỷ luật sắt, hoạt động bí mật, chủ trương tranh đấu lật đổ chế độ đương hữu, lập chế độ mới nên thường tự xem là làm cách mạng. Riêng người cộng sản lúc nào cũng tự nhận họ làm Cách Mạng (viết hoa), mà cuộc cách mạng cộng sản đồng nghĩa với cực đoan, bạo động trong khi từ ngữ cách mạng chỉ hàm ý một sự thay đổi sâu rộng không nhất thiết phải có bạo động, chém giết tàn bạo.

Một lý do khác: ông Nguyễn Ngọc Huy nhìn thấy những sai lầm căn bản của các cuộc  cách mạng cộng sản và người cộng sản đã lạm dụng danh từ quá đáng  nên để tránh những nhập nhằng hay ngộ nhận ông đã cố ý không nói nhiều đến việc “làm cách mạng”. Nhất là sau khi đã đóng góp ý kiến thiết thực tạo lập bản Hiến Pháp Đệ Nhị Cộng Hoà Việt Nam năm 1967 – đặt khá nhiều hy vọng nó  sẽ là nền tảng cho chế độ Dân Chủ Pháp Trị. Ông chủ trương làm chính trị công khai, đúng đắn trong khuôn khổ luật pháp như là một giải pháp cứu đất nước khỏi hiểm hoạ cộng sản và xây dựng một quốc gia dân chủ tự do, trường tồn, hạnh phúc.

Trước hết, theo ông, người hoạt động chính trị phải hiểu thế nào là chính trị và ảnh hưởng của chính trị đối với con người rồi mới thấy rõ công việc của mình làm.

Dạy về khoa học chính trị (political science), ông Nguyễn Ngọc Huy biết từ ngữ chính trị đã được hiểu theo nhiều ý nghĩa khác nhau nhưng qua những phát biểu và cung cách hành xử trong cả cuộc đời tranh đấu thì có thể thấy ông đã chọn và đã sống  một quan điểm về chính trị và về “làm chính trị” ngay từ đầu một cách rất tự nhiên và thành thật với chính mình, không phải đóng tuồng, đóng kịch chi cả. Sự chọn lựa này hoàn toàn phù hợp với cá tính và hoài bão của chính ông.

Chính trị là làm cho xã hội ngay thẳng, lành mạnh. Chính trị là khoa học hay nghệ thuật về việc điều khiển quốc gia. Người làm chính trị có thể phải khôn ngoan, uyển chuyển nhưng không được lừa lọc, dối trá. Người làm chính trị tất nhiên phải nghĩ tới việc nắm quyền lực nhưng quyền lực là phương tiện không phải là mục đích. Chính trị bao trùm mọi khía cạnh của đời sống con người. Nó tốt thì người được sung sướng, nó xấu thì người phải chịu đau khổ. Các chế độ độc tài, dành độc quyền làm chính trị, đều khuyến khích, cổ võ chủ trương phi chính trị trong giới người không thuộc phe cánh, ngoài tầm kiểm soát của họ. Phi chính trị, thực tế, là một thái độ chính trị. Là chấp nhận cái chính trị của nhà cầm quyền đương hữu, làm theo ý muốn của họ hay ít nhất không chống lại họ…

Tư tưởng của ông Nguyễn Ngọc Huy là một hệ thống hoàn chỉnh. Do sở học và do tự suy nghĩ. Là nhà khoa học chính trị đồng thời là một chính trị gia/ chính khách/ nhà cách mạng, hầu như ông luôn luôn có câu trả lời đầy đủ cho bất cứ một câu hỏi quan trọng nào liên quan đến các vấn đề cứu quốc và kiến quốc. Hoạt động của ông phản ảnh trung thực tư tưởng của ông. Nói và làm hoàn toàn tương hợp. Không bao giờ nói một đằng, làm một nẻo.

Chẳng hạn là người theo đạo Phật, thấm nhuần Phật pháp nhưng khi làm chính trị – sáng lập và điều khiển đảng Tân Đại Việt, Phong Trào Quốc Gia Cấp Tiến hay Liên Minh Dân Chủ Việt Nam ông luôn giữ một khoảng cách hợp lý, vừa phải với giáo hội Phật Giáo nói riêng và các tổ chức tôn giáo nói chung cho dù ông biết rất rõ đảng chính trị dựa vào tôn giáo dễ thu hút, dễ tuyển mộ, dễ huy động quần chúng, đặc biệt trong trường hợp xã hội Việt Nam.

Không giống với một số chính trị gia khác, ông phân biệt rõ ràng đạo và đời, thần quyền và thế quyền. Trong cả lý thuyết và thực tế. Tôn giáo và chính trị là 2 lãnh vực khác nhau. Lịch sử cho thấy 2 thứ trộn lẫn vào nhau có những hậu quả tai hại, hoặc rắc rối không hay. Như trường hợp ông Ngô Đình Diệm và cuộc khủng hoảng với Phật giáo năm 1963. Như suýt có chiến tranh tôn giáo năm 1965, 1966 ở Sài Gòn, ở Huế. Như xẩy ra trên khắp thế giới qua các thời đại cổ, kim.

Ông Nguyễn Ngọc Huy luôn luôn từ chối đi đường tắt nếu nó trái với nguyên tắc, trái với điều ông tin tưởng.

Có khá nhiều minh chứng khác nữa.

Người cộng sản như các ông Hồ Chí Minh, Lê Duẩn, Trường Chinh, Tố Hữu, Nguyễn Văn Linh… yêu Đảng (viết hoa) của họ hơn hết. Lịch sử cho thấy họ chấp nhận “thà mất nước còn hơn mất Đảng” .

Ông Nguyễn Ngọc Huy hoàn toàn khác.

Ông cũng thấy trong cuộc tranh đấu vì đất nước cần thiết phải xây dựng được ít nhất một đoàn thể, một đảng chính trị thích ứng – tập hợp được một số đông người, tổ chức chặt chẽ để duy trì được lâu dài, huy động được dễ dàng, hoạt động một cách thống nhất, làm việc một cách hữu hiệu. Muốn thế cần huấn luyện đoàn viên hay đảng viên tin tưởng nơi sự đứng đắn của lập trường mình, có tinh thần xung phong tranh đấu cho lý tưởng, có khả năng thực hiện các công tác được giao phó… Nhưng đảng hay đoàn thể đối với ông chỉ là phương tiện để phục vụ quốc gia, không phải là cứu cánh. Đảng quan trọng, cần thiết nhưng đảng không có đời sống riêng. Không có nước thì không có đảng. Đối với ông, “thà mất nước còn hơn mất đảng” chắc chắn là chuyện phi lý.

Từ lúc ông viết bài thơ “Nén Hương Lòng” khi mới chân vào đời hoạt động:

Hỡi những ai kia đã luỵ mình

Đã vì non nước chịu hy sinh

Đã vì chủng tộc khai đường sống

Đây nén hương lòng kẻ hậu sinh

cho đến bài viết cuối cùng, hơn 40 năm sau, vài ngày trước khi mất, với nét chữ yếu ớt, nguệch ngoạc vì hơi đã tàn, lực đã kiệt:

không một lúc nào, trong 40 năm ấy, ông không bận rộn, không làm hay  không nghĩ đến việc phải làm, cần làm để cứu dân tộc, cứu đất nước. Ông muốn sống thêm vài năm mặc dù cơ thể đau đớn vì bệnh ung thư ngày đêm hành hạ chẳng phải vì còn tha thiết với cuộc đời riêng mà chỉ muốn hoàn tất cái trách nhiệm mà ông đã tự trói buộc  mình, đã tự nguyện đảm đương.

Một người yêu dân tộc, thương giống nòi  đến nỗi sao nhãng cả đời sống gia đình, quên cả bản thân, không vụ lợi, không màng danh – “thân còn chẳng kể, kể chi danh!” – không thể là người có tinh thần tư đảng, không thể là người làm chính trị đảng phái chỉ để làm chính trị đảng phái, tranh đoạt quyền lực chỉ để tranh đoạt quyền lực.

Là đảng viên đảng Đại Việt, trong tập thơ Hồn Việt in năm 1950, ông từng làm thơ khóc các liệt sĩ Việt Nam Quốc Dân Đảng tuẫn tiết trên đoạn đầu đài trong “Ngày Tang Yên Bái” hay tưởng tượng lời khẳng khái của Nguyễn Thái Học nói với Đoàn Kiểm Điểm trong bài “Lòng Người Đảng Trưởng”.

Ông tách khỏi Đại Việt Quốc Dân Đảng để sáng lập Tân Đại Việt vì nhìn thấy nhu cầu phải tranh đấu theo phương cách mới. Ông sáng lập Phong Trào Quốc Gia Cấp Tiến vì muốn tiến tới một tập hợp chính trị đoàn kết rộng rãi để có sức mạnh trên toàn quốc . Ông sáng lập Liên Minh Dân Chủ Việt Nam để tiếp tục cuộc tranh đấu trong môi trường và điều kiện khác hẳn từ hải ngoại…

Ông vẫn duy trì Tân Đại Việt làm căn bản hay nòng cốt nhưng không bao giờ có dấu hiệu ông xem Phong Trào Quốc Gia Cấp Tiến hay Liên Minh Dân Chủ Việt Nam chỉ là các tổ chức “ngoại vi” như có người nghĩ như vậy. Nhất là từ ngữ hay khái niệm “ngoại vi” làm người ta liên tưởng đến các tổ chức bung xung của đảng cộng sản chỉ lập ra để tuyên truyền hay che mắt thế gian. Như Liên Minh Các Lực Lượng Dân Tộc Dân Chủ Và Hoà Bình Việt Nam (Trịnh Đình Thảo, Lâm Văn Tết), Mặt Trận Tổ Quốc (Nguyễn Hữu Thọ, Phạm Thế Duyệt), đảng Dân Chủ Việt Nam ( Dương Đức Hiền, Nghiêm Xuân Yêm), đảng Xã Hội Việt Nam (Nguyễn Xiển, Hoàng Minh Giám), etc… đều là  các tổ chức “ngoại vi” hữu danh, vô thực của Đảng Cộng Sản, được hay bị đảng Cộng Sản giật dây từ đầu chí cuối.

Ông Nguyễn Ngọc Huy không làm chính trị thủ đoạn “lá mặt, lá trái” như vậy. Phong Trào Quốc Gia Cấp Tiến, Liên Minh Dân Chủ Việt Nam từng là các đoàn thể chính trị có thực chất và phẩm chất do ông gây dựng. Bằng sự tận tuỵ, tận tâm, tận lực. Đó là những tác phẩm tim óc của ông chẳng khác tác phẩm Tân Đại Việt. Đó là những nỗ lực chiến lược đặt căn bản trên sự thành tín giữa những người chung lý tưởng vào các khúc quanh lịch sử của dân tộc.

Như giữa ông và người bạn tâm giao là ông Nguyễn Văn Bông. Ông Bông, kém ông Huy 5 tuổi, không phải đảng viên Tân Đại Việt, cũng không thuộc đảng phái nào nhưng là người trí thức dấn thân, tài đức xuất sắc. Ông cùng ông Huy lập Phong Trào Quốc Gia Cấp Tiến năm 1969. Dậy về chính trị học với bằng cấp cao nhất nước là tiến sĩ rồi thạc sĩ công pháp (Paris), lần đầu tiên trong cuộc đời, ông Nguyễn Văn Bông bước chân vào chính trường “gió tanh mưa máu” theo đúng nghĩa. Ông Bông làm chủ tịch Phong Trào Quốc Gia Cấp Tiến, ông Huy làm Tổng Thư Ký. Phong Trào phát triển nhanh chóng và được sự gia nhập của nhiều cá nhân và tổ chức để sớm trở thành            một đoàn thể chính trị có thực lực và quy củ nhất trong Đệ Nhị Cộng Hoà Việt Nam. Phong Trào giữ thế đối lập với chính quyền nhưng đối lập xây dựng và ôn hoà. Chuyện đáng chống thì chống. Chuyện đáng ủng hộ thì ủng hộ.  Cặp đôi giáo sư Nguyễn Văn Bông, Nguyễn Ngọc Huy ngày ấy danh tiếng như cồn. Ông Bông bị đặc công cộng sản ám sát bằng mìn, thân thể tan nát và cháy đen, khi chuẩn bị ra làm Thủ Tướng cuối năm 1971 theo lời mời bất đắc dĩ của ông tổng thống Nguyễn Văn Thiệu…

Không thể nói Phong Trào QGCT là ngoại vi của Tân Đại Việt và ông Huy đã “giật dây” ông Bông dù có thể chính ông Huy đã “tuyển mộ” ông Bông bằng tình bằng hữu chân thành ngay từ ngày cùng đèn sách đại học và cùng làm bồi bàn ở Paris . Cũng không thể nói Tân Đại Việt “điều khiển” luôn Việt Nam Quốc Dân Đảng (hệ phái Nguyễn Tường Tam) chỉ vì đoàn thể này cũng là một thành viên của Phong Trào Quốc Gia Cấp Tiến…Đoàn kết, liên minh, tập hợp chặt chẽ, rộng rãi để cùng tranh đấu hữu hiệu cho đất nước – một bắt buộc cần thiết, hợp lý và chính đáng – không thể là một chiến thuật giai đoạn nhất thời hay một nước sơn bề ngoài.

Ông Nguyễn Ngọc Huy sống ở nước Mỹ 15 năm (1975-1990) nhưng ông không vào quốc tịch Mỹ. Ông giải thích rất nhẹ nhàng “người khác làm thế thì được nhưng tôi thì không”. Tưởng như là lời lẽ của người kiêu ngạo mà không phải. Chính là lời lẽ của người âm thầm tự nhận lấy cái gánh nặng lãnh đạo cuộc tranh đấu cứu vớt đất nước. Ông đã nguyện hy sinh hết cuộc đời, ông có kinh nghiệm, ông có kiến thức, ông đã suy nghĩ về con đường phải đi, ông có viễn kiến… Nếu ông không làm thì ai làm?! Nếu ông vào quốc tịch Mỹ, thề trung thành với nước Mỹ, trở thành công dân nước Mỹ thì còn nhân danh cái gì để lãnh đạo cuộc tranh đấu cho nước  Việt Nam?! Chắc ông phải nghĩ đến ông tướng De Gaulle lúc lưu vong ở nước Anh trong thế chiến thứ hai…

Có thực học, thực tài, thực tâm nên ở ông không bao giờ có sự phù phiếm hay cầu kỳ. Mọi sự đều như ăn khớp với nhau một cách giản dị, hợp lý và mang thực chất. Người ta có thể gọi giáo sư Nguyễn Ngọc Huy, tiến sĩ Nguyễn Ngọc Huy nhưng ông không tự xưng giáo sư hay tiến sĩ bao giờ. Ông không cường điệu, không tự quan trọng hoá mà cũng không cố ra vẻ khiêm tốn. Nguyễn Ngọc Huy là Nguyễn Ngọc Huy. Lúc nào cũng vậy. Có lần ông cười vui: “con gái tôi biểu: Ba nói tiếng Pháp như người Anh và Ba nói tiếng Anh như người Pháp” (Con gái của ông, tiến sĩ luật khoa Nguyễn Ngọc Thuý Tần, trưởng thành trong cả hai nền giáo dục Pháp và Mỹ).      Ông  còn cho biết làm phụ khảo ở đại học Harvard cho ông cơ hội nghiên cứu Luật Nhà Lê, vừa có lương để sống, vừa có bảo hiểm sức khoẻ, vừa tương đối tự do nên có thể đi đây đi đó để phát triển đoàn thể, tiếp xúc với chính giới các nước vận động thành lập Uỷ Ban Quốc Tế Yểm Trợ Việt Nam Tự Do. Công việc nghiên cứu trong môi trường đại học thích hợp và thuận tiện với hoàn cảnh của ông. Ông nói tự nhiên và thành thật.

Với ông “văn là người”, “người là văn”. Cùng lúc vừa bác học, vừa bình dân.        Vấn đề phức tạp, cao xa, khó khăn đến mấy, qua ông, cũng trở nên đơn giản, gần gũi, dễ hiểu. Khả năng hiếm có ấy tất nhiên là do thông minh bẩm sinh, quá trình tôi luyện nhưng cũng do tấm lòng đôn hậu, thành thực lúc nào cũng nghĩ đến quốc gia dân tộc. Ông Lý Đông A chẳng nói “nuôi tâm thì làm thiên tài, nuôi trí thì làm nhân tài, nuôi thân thì làm nô tài” đấy sao? Nếu không phải là thiên tài thì ông đã không phải là người duy nhất tìm ra tất cả “các ẩn số chính trị trong tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung” một cách có hệ thống, đâu ra đấy, hợp tình, hợp lý không bác bỏ được – Xin nhắc lại: người duy nhất trong mấy trăm triệu người Trung Hoa và người Việt Nam đã đọc và nghiền ngẫm các tác phẩm của nhà đại văn hào này! Một khả năng phân tích và tổng hợp đã phát huy đến một độ cao hiếm có!

Thành công hay thất bại?

Như đã nói đối tượng của chính trị là quyền lực, ông Nguyễn Ngọc Huy cả đời làm chính trị, làm từ A tới Z – học hỏi, suy nghĩ, viết lý thuyết, viết chính sách, viết tài liệu huấn luyện , viết sách, viết báo, tìm người cộng tác, tổ chức và phát triển đoàn thể, đối nội, đối ngoại…chưa kể phải soạn bài, chấm bài, đến lớp dậy học làm công việc chuyên môn của một giáo sư đại học để sống như mọi người. Một đời bận rộn, gian nan không kể xiết vậy mà chức vị to nhất, cao nhất chỉ là một lần làm Đổng Lý Văn Phòng của Phó Thủ Tướng đặc trách Bình Định & Phát Triển trong vài tháng của năm 1964. Ông Nguyễn Tôn Hoàn làm phó thủ tướng lúc bấy giờ.

Rồi để giúp xây dựng một hệ thống lý luận đối phó với phe cộng sản trong cuộc hoà đàm Paris nổi tiếng thế giới – vừa đánh vừa đàm – ông đã chấp nhận làm nhân viên trong phái đoàn Việt Nam Cộng Hoà cùng vài người khác như ông Trần Thanh Hiệp, ông Vương Văn Bắc, bà Nguyễn Thị Vui… trong những năm 1968-1970. Lãnh đạo phái đoàn lúc đầu là phó tổng thống Nguyễn Cao Kỳ, nổi tiếng về khá nhiều mặt kể cả mặt hay nói “bốc đồng” và “ruột để ngoài da”. Riêng ông Huy, từ Đổng Lý Văn Phòng đến làm Nhân Viên phái đoàn thương thuyết, về chức tước, thì đúng là “phú quý giật lùi”. Đã thế còn bị nói xấu là “đối lập lom khom” của chính quyền Nguyễn Văn Thiệu!

Hiển nhiên, về phương diện chức vụ và quyền hành ông Nguyễn Ngọc Huy không thể so sánh được với các nhân vật lịch sử của đệ nhất và đệ nhị Cộng Hoà Việt Nam – cho dù sự nghiệp hay thành tích của họ luôn là đối tượng tranh cãi – như các ông Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu, Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ, Trần Thiện Khiêm, Dương Văn Minh, Nguyễn Khánh, Nguyễn Bá Cẩn… Ông Nguyễn Ngọc Huy cũng không so sánh được với các ông  Quốc Trưởng, Tổng Thống, Phó Tổng Thống, Thủ Tướng, Phó Thủ Tướng, Chủ Tịch Thượng Hội Đồng Quốc Gia, Tổng Trưởng, Bộ Trưởng, Thượng Nghị Sĩ : Phan Khắc Sửu, Trần Văn Hương, Phan Huy Quát, Nguyễn Xuân Chữ, Phan Quang Đán, Trần Văn Tuyên, Nguyễn Văn Huyền, Vũ Văn Mẫu, Nguyễn Tôn Hoàn, Hà Thúc Ký, Nguyễn Lưu Viên, Dương Kích Nhưỡng, Nguyễn Bích Huệ, Nguyễn Tiến Hưng, Nghiêm Xuân Hồng, Vũ Quốc Thúc, Phạm Nam Sách, Nguyễn Văn Chức, Thái Lăng Nghiêm…là các chính trị gia, chính khách đứng đắn, có tiếng tăm tốt …cùng với ít nhiều huyền thoại.

Một số nhân vật, đúng ra, chỉ là những nhân sĩ độc lập, chuyên gia không hoạt động chính trị hay cách mạng bao giờ vậy mà đầu hôm sớm mai trở thành bộ trưởng, tổng trưởng một cách dễ dàng chẳng hạn như  các vị giáo sư Vương Văn Bắc, Trần Văn Kiện, Nguyễn Duy Xuân, Nguyễn Văn Tương…của trường Quốc Gia Hành Chánh. Tuy nhiên một sự thực không ai phủ nhận là các vị này đã dành cho người bạn đồng nghiệp đi dậy học bằng xe đạp hay xe Honda “ôm” một sự quý mến và kính trọng đặc biệt. Không phải vì người bạn là bạn đồng chí hướng của ông viện trưởng trường QGHC Nguyễn Văn Bông mà vì họ đã nhìn thấy hình ảnh của một nhà lãnh đạo quốc gia rất xứng đáng trong tương lai, dù có danh hiệu, chức tước hay không. Cũng vì thế mà không ai cảm thấy cần thiết phải ái ngại cho tình cảnh “phú quý giật lùi” hay “đường công danh” quá chậm chạp, vất vả của ông Nguyễn Ngọc Huy.

Cũng không phải chỉ các giáo sư và sinh viên trường QGHC mới thấy ông thầy giáo Huy “không giống ai”. Nhiều người đã nhìn thấy điều này. Những người để ý tới thời cuộc. Chính giới. Báo chí. Trí thức. Sinh viên các trường đại học. Người dân thường…

Và dĩ nhiên luôn cả tình báo cộng sản, tình báo Mỹ và cả ông tổng thống đương quyền Nguyễn Văn Thiệu. Mỗi nơi này đều có những tính toán riêng với trường hợp ông Nguyễn Ngọc Huy.

Dù là tính đến hại hay tính đến lợi cho chính họ, mỗi bên đều biết rằng ông Huy là một người làm chính trị vì lý tưởng, có tư tưởng phong phú, chặt chẽ, kiên định, làm việc có nguyên tắc, có sách lược, có chiến lược, có tổ chức. Họ đã nhìn thấy một nhân vật chính trị với bề ngoài giản dị bình thường nhưng bề trong là một bản lĩnh xuất sắc nhất hay xuất sắc vào bậc nhất của thời đại. Họ đã nhìn thấy một con người rất thận trọng nhưng một khi quyền lực vào tay, sẽ có đủ khả năng xoay chuyển bàn cờ chính trị Việt Nam theo một hướng khác hẳn.

Những bí mật lịch sử được bạch hoá gần đây cho thấy từ năm 1968, người Mỹ đã ý thức rằng sách lược chiến tranh “tốc chiến, tốc thắng” của họ không có kết quả nếu không nói họ đã bị sa lầy không rút chân ra được. Sách lược của Mỹ đã bị vô hiệu hoá bởi sách lược “chiến tranh nhân dân” đánh tiêu hao, đánh lâu dài của Mao Trạch Đông. Hoả lực và kỹ thuật Mỹ không cản được quân cộng sản xâm nhập qua đường biên giới Việt-Miên-Lào quá dài, quanh co cả ngàn cây số, không cản được Đảng cộng Tầu  tích cực yểm trợ và thúc đẩy đảng cộng sản Việt “đánh đến người Việt Nam cuối cùng” và sẵn sàng đánh thêm 20 năm hay 50 năm, không cản được lãnh đạo chóp bu ở Hà Nội tiến hành cuộc chiến ở miền Nam VN bằng tuyên truyền, khủng bố, vừa đánh vừa đàm nhằm gây rối loạn ngay trong nước Mỹ…

Giết ông Diệm, ông Nhu là một sai lầm. Đổ bộ hơn nửa triệu quân mà không dám Bắc Tiến vì  sợ tái diễn một cuộc chiến Triều Tiên thứ 2 với một biển quân Tầu trên đất Việt là một sai lầm khác. Người Mỹ không còn kiêu ngạo nữa: vấn đề Việt Nam phải do người Việt Nam giải quyết. Chỉ có một chính quyền miền Nam Việt Nam thật hữu hiệu, thật lương hảo, đích thực của dân, do dân, vì dân và được dân ủng hộ tích cực mới có thể đánh bại mưu đồ và nỗ lực nhuộm đỏ toàn cõi Việt Nam của phe cộng sản. Và giúp cho người Mỹ rút quân trong danh dự.

Người Mỹ đi tìm kiếm một liên hệ tốt với nhóm của ông Bông-ông Huy vì lý do này. Nhân chứng và tác nhân khả tín là ông Stephen B. Young của toà đại sứ Mỹ lúc bấy giờ và ông đại sứ đương nhiệm Ellsworth Bunker. Người Mỹ vận động hay làm áp lực với ông tổng thống Nguyễn Văn Thiệu mời ông Bông làm thủ tướng thay ông Trần Thiện Khiêm để bắt đầu tiến hành cải cách theo chương trình và kế sách của Phong Trào Quốc Gia Cấp Tiến mà kiến trúc sư chính là ông Nguyễn Ngọc Huy: lập nội các đoàn kết quốc gia, làm dân chủ pháp trị đúng nghĩa, dân sự hoá và trong sạch hoá chính quyền ở mọi cấp, thực hiện công bằng xã hội, phát triển kinh tế, cải tiến đời sống nông dân bằng các chính sách ruộng đất thích hợp, đoàn ngũ hoá nhân dân để cô lập cộng sản…

Ông Thiệu chống cộng, điều này ai cũng biết. Có lẽ ông cũng yêu nước – một cách có mức độ như đa số mọi người – nhưng ông không yêu nước bằng yêu quyền lợi của ông, bằng yêu cái chức Tổng Thống và quyền lực đi kèm với nó. Ông Bông làm Thủ Tướng có thể có hại mà có thể cũng có lợi cho ông trong đoản kỳ và trong trường kỳ. Ông chấp nhận ông Bông vì có thể ông tự tin rằng, ảo tưởng hay không, ông có thể “đối phó” được với  “ông Bông thủ tướng” một khi ông vẫn là tổng thống và có quân đội trong tay. Và “đối phó” với ông Bông thì dễ hơn “đối phó” với ông Huy. Có thể ông tính toán: ông Bông ít tuổi hơn ông Huy; ông Bông, một nhà khoa bảng lỗi lạc mới bước vào chính trường  không lâu – tương đối ít kinh nghiệm hoạt động chính trị so với ông Huy là người đã xông pha mấy chục năm, từ một đảng viên thường trở thành lãnh tụ, lý thuyết gia, chiến lược gia, nhà tổ chức. Có thể ông Thiệu lo ngại sẽ bị “ông Huy thủ tướng” làm cho lu mờ, mất dần quyền lực đồng thời ông cũng không an tâm lắm với những người thân tín chung quanh ông Huy nhất là nhóm sĩ quan trong quân đội thuộc thành phần trung cấp và cao cấp khá đông đảo có “gốc” Đại Việt hay Tân Đại Việt mà có người đã từng tham gia các cuộc binh biến trong những năm trước. Chẳng hạn như các ông đại tá “không bao giờ được cho lên tướng” Huỳnh Văn Tồn, Nhan Minh Trang, Dương Hiếu Nghĩa …từng chỉ huy sư đoàn hay các đơn vị lớn…Có thể ông lo ngại ảnh hưởng của ông Huy, đã đáng kể với lớp người xuất thân từ trường Quốc Gia Hành Chánh đang điều khiển nền hành chánh ở khắp các tỉnh quận trên toàn quốc, sẽ còn lan toả nhanh chóng sang cả tập thể quân đội vốn là căn bản phát xuất sự nghiệp chính trị của ông.

Diễn biến lịch sử cho thấy: Ông Thiệu đã mời ông Bông làm thủ tướng. Tin bị tiết lộ. Câu hỏi “ai tiết lộ?” chưa được trả lời. Phía cộng sản quyết định ám sát ông Bông ngay tức khắc trước khi sự bảo vệ được chặt chẽ nâng cao dành cho người giữ chức thủ tướng chính thức. Về phía cộng sản, vụ  mưu sát có tầm quan trọng chiến lược được chuẩn bị từ cấp cao nhất, cẩn thận, tỉ mỉ và đã thành công. Đối với họ,  Nguyễn Văn Bông phải chết trước khi quá trễ cũng như các lãnh tụ xuất sắc nhất, tài đức nhất của phe quốc gia phải chết trước khi quá trễ: Lý Đông A, Trương Tử Anh, Huỳnh Phú Sổ…

Giết các đại kình địch như thế – thể hiện một thứ chính trị bá đạo, độc hiểm và đê  hèn nên đảng cộng sản đã giữ im lặng rất lâu chung quanh những vụ mưu sát này. Họ không thể rêu rao: “phản động đã đền tội” như thường lệ vì sẽ ngắc ngứ trước công luận: “phản động” chỗ nào? “Tội” gì mà phải “đền”?

Họ giết vì họ sợ. Họ giết ông Bông để chặn đường ông Huy. Chặn một thế lực chính trị đầy triển vọng của người quốc gia Việt Nam. Để phá tan một đường lối mới, dập tắt một hy vọng của chính quyền Mỹ. Quả thật, chính quyền Mỹ, người Mỹ lại tính sai và thất bại nữa vì đã không bảo vệ được người mà họ đặt cái hy vọng ấy.

Mặt khác, không ai biết rõ cảm giác thực của ông Thiệu khi nghe tin ông Bông bị ám sát. Ông có hối tiếc đã không ra lệnh bảo vệ an ninh đầy đủ cho vị thủ tướng tương lai của ông không hay ông chỉ cảm thấy nhẹ người?

Và những câu hỏi khác nữa, chẳng hạn:

Ông Bông không còn, tại sao ông Thiệu không mời ông Huy thành lập chính phủ thay thế mà chỉ nghĩ đến việc duy trì ông Trần Thiện Khiêm đến giờ chót hoặc thay ông Khiêm bằng ông Nguyễn Bá Cẩn khi tình thế đã suy đồi đến mức không thể cứu vãn? Tình thế biến chuyển quá nhanh, “đồng minh tháo chạy quá sớm” hay ông cố tình trì hoãn việc hợp tác thành thực với ông Nguyễn Ngọc Huy để cứu Miền Nam VN chỉ vì tính toán quyền lợi riêng quá kỹ? Ông cũng “ngán” ông Nguyễn Ngọc Huy như người cộng sản “ngán” ông Nguyễn Ngọc Huy chăng? Ông có muốn bào chữa rằng ông không mời ông Huy làm thủ tướng chỉ vì ông lo lắng ông Huy sẽ bị cộng sản giết như họ đã giết ông Nguyễn Văn Bông? Ông có muốn kể công đã mời ông Huy tham gia phái đoàn hoà đàm Paris nổi tiếng thế giới năm 1968-1970 đối diện với truyền thông quốc tế, đối diện cả với Henry Kissinger, Lê Đức Thọ đã khiến Cộng Sản không dám giết “sứ giả” Nguyễn Ngọc Huy khi 4 bên đang thương thuyết để…vãn hồi hoà bình?

Các nghi vấn đều có thể nêu ra, mọi sự giải thích chỉ là suy đoán. Những câu trả lời chính xác nhất vẫn thuộc về ông Nguyễn Văn Thiệu nếu ông Thiệu thành thật với chính mình. Đáng tiếc, ông Thiệu đã trở thành người thiên cổ!

Ông Nguyễn Ngọc Huy không cứu được Miền Nam Việt Nam rơi vào tay cộng sản năm 1975. Ngày ông qua đời 28/07/1990 cả nước Việt Nam vẫn dưới ách độc tài đảng trị cộng sản. 31 năm sau, 2021, chưa thay đổi, vẫn còn độc tài đảng trị cộng sản trên toàn cõi. Tương lai đất nước bấp bênh, đen tối trước một nước Tầu cộng sản hùng mạnh và hung hãn. Ông Nguyễn Ngọc Huy đã không cứu được, chưa cứu được nước Việt Nam, dân tộc Việt Nam như lòng ông mong muốn.

Người ta thường nói thành công cần 3 yếu tố, thiếu một cũng không xong: tài năng, cố gắng và may mắn. Ông Huy thực là người có tài. Ông đã cố gắng, chính xác nghĩa đen không phải nói văn chương, cho đến hơi thở cuối cùng. Ông cầu nguyện xin được sống thêm vài năm có lẽ cùng tấm lòng với Gia Cát Lượng khi làm lễ dâng sao trên Ngũ Trượng Nguyên hơn ngàn năm trước:

Lúc hết hơi mới biết đến mạng Trời

Và nhắm mắt mới đành thôi hoạt động

(Đằng Phương)

Ông Nguyễn Ngọc Huy quả thực đã không may mắn.

Đành phải nói là vận nước.

NẾU tháng 11/1971 đặc công cộng sản không giết được ông Nguyễn Văn Bông…NẾU ông Nguyễn Văn Thiệu không quá tham quyền cố vị… NẾU ông Nguyễn Ngọc Huy không bị ung thư kéo dài và chết ở tuổi 66, sớm ít nhất là 10 năm so với  tuổi thọ của người trung bình… NẾU “quần chúng đối với thiên tài KHÔNG PHẢI là cái đồng hồ đi trễ”…NẾU có nhiều người yêu nước tuyệt đối như ông Nguyễn Ngọc Huy v…v…THÌ mọi sự có thể khác, rất khác. Chẳng hạn như Việt Nam có thể đã là một con rồng châu Á thay vì là con rắn, con trăn như trong chế độ chính trị tệ hại hiện hành.

So sánh người làm chính trị – cá nhân với cá nhân  – Nguyễn Ngọc Huy của Việt Nam có kém gì Tưởng Kinh Quốc của Đài Loan, Phác Chính Hi của Đại Hàn hay Lý Quang Diệu của Singapore – về cả ý chí, lý tưởng, kiến thức, tài năng, đức độ, lòng yêu nước? Vậy có nên đem thành bại mà luận anh hùng?

Còn là tinh anh

Sự thất bại của ông Nguyễn Ngọc Huy là hoàn toàn và có tính cách chung cuộc nếu tất cả người Việt Nam đã cam tâm vĩnh viễn làm “cái đồng hồ đi trễ” – coi cái chế độ độc tài cộng sản tàn nhẫn, thối nát và cả triển vọng mất giống nòi là một thứ định mệnh vì “cái số của nước mình nó thế!” thì không còn gì để nói, để bàn.

Trong trường hợp ngược lại, chết chưa phải hết, “thác là thể phách còn là tinh anh”. Ông Nguyễn Ngọc Huy đã trở thành người của lịch sử, người của chung dân tộc Việt Nam, không còn giới hạn là người của gia đình hay của đảng – Đại Việt, Tân Đại Việt, Phong Trào Quốc Gia Cấp Tiến hay Liên Minh Dân Chủ Việt Nam? Cuộc đời của ông là một đại tác phẩm. Các tác phẩm khác của ông, về văn hoá, luật pháp, chính trị cũng là những đại tác phẩm. Ông không giữ bản quyền. Không ai giữ bản quyền. Tất cả là một di sản hoàn toàn lành mạnh, vô cùng phong phú, hết sức hữu ích mà ông Nguyễn Ngọc Huy để lại cho lịch sử, cho dân tộc, cho thế hệ trẻ thanh niên trong và ngoài nước nhất là cho những ai còn trăn trở về tương lai của tổ quốc thân yêu. Ông Nguyễn Ngọc Huy đã ra đi nhưng để lại một con đường sáng. Rất sáng. Ông Nguyễn Ngọc Huy đã chết nhưng sẽ sống mãi trong lòng người Việt Nam.

Cao Tuấn 

(Tháng 7/2021)

Liên Bang Chế Hoa Kỳ (American/US Federalism)

Lê Văn Bỉnh

                                     Người ta không thể luôn luôn ở tâm trạng chống đối quê hương mình. Phải có điều gì đó vui với chi phí mà nó đài thọ.

A man cannot always be in a battle mood about his country. There is some fun  to be had at her expense.(Franks Moore Colby.  The Colby Essays, Vol. 2)

          Tôn giáo và  chủ nghĩa quốc gia đồng hành tay nắm tay trong lịch sử Tây Phương ….Hoa Kỳ … gần đứng đầu trong cả hai lãnh vực này.

   Religious and nationalism have gone hand in hand in the history of the West…  America ranks… close to the top of both dimensions. (Samuel P. Huntington. Who Are We?)

Trong những năm gần đây, đặc biệt kể từ khi Tổng Thống Donald Trump bước vào Tòa Bạch Ốc, người Việt chúng ta, tại Hoa Kỳ cũng như ở nhiều nước khác, tỏ ra rất chú trọng đến sinh hoạt chính trị nước này.  Trên các phương tiện truyền thông cũng như qua những trao đổi thư tín, người ta không ngừng bày tỏ ý kiến cá nhân về đường lối chính sách của Hoa Kỳ đối với các nước đồng minh, hay đối thủ về nhiều mặt chính trị, kinh tế, tài chánh, ngoại giao quân sự, tài chánh vv.  Về phương diện quốc nội Hoa Kỳ, những chính sách lớn ban hành trước đây do Hành Pháp lãnh đạo bởi đảng Dân Chủ, như y tế, thuế khóa, nhập cư, hôn nhân giữa những người đồng tính, công bằng xã hội vv. cũng được đem ra mổ xẻ để so sánh.  Đây là một biểu hiện tích cực, cho thấy chúng ta, sau khi đã tương đối “an cư lạc nghiệp”, nay có khuynh hướng tham gia vào “dòng chính” chính trị, không còn xem mình là người “tạm dung, ăn nhờ ở đậu” nữa.  Người theo, kẻ chống đưa ra những lập luận –dựa theo truyền thông, hay những hiểu biết và suy nghĩ riêng tư của mình– nghe đều có lý.

***

Bài viết này –của một người vừa tìm hiểu vừa viết — nhằm mục đích khiêm tốn là cung cấp thêm một góc nhìn để chúng ta có những hiểu biết cơ bản về Liên Bang Chế Hoa Kỳ (US/American Federalism).  Sự hiểu biết thêm về thể chế chính trị này có thể giúp chúng ta thấy rõ hơn mối liên hệ –gắn bó lẫn xung đột– giữa chính quyền liên bang (federal/national government), với các tiểu bang, cũng như giữa hai cấp chính quyền này đối với các chính quyền địa phương* (xin xem thêm Ghi Chú phiá dưới bài).  Ngay từ đầu, có thể nói rằng liên bang chế Hoa Kỳ đã, đang và sẽ định hình quá khứ, hiện tại và tương lai của quốc gia này; và  sự phân chia quyền lực giữa chính quyền liên bang và các tiểu bang ảnh hưởng đến sự thịnh vượng, an ninh và sinh hoạt thường nhật của mỗi người dân Mỹ.  Nhiều chính sách đối ngoại của chính quyền liên bang, trong quá trình hình thành cũng như khi thực hiện, đã không thể nào bỏ qua các mối liên hệ này. Thậm chí có người còn lý luận rằng hầu hết các vấn đề lớn của nước Mỹ, kể cả đối ngoại, đều có thể giải quyết êm đẹp nếu các xung đột giữa liên bang và tiểu bang và địa phương được giải quyết thỏa đáng – nghĩa là “đầu xuôi, đuôi lọt.” Nói cách khác, người ta khó có thể gọi là hiểu biết rõ về các chính sách của Hoa Kỳ khi chưa biết vai trò của liên bang chế nước này.

Một Chút Lịch Sử

Chính quyền của đa số các quốc gia trên thế giới (chẳng hạn Anh, Pháp, Nhật, Việt Nam Cộng Hòa trước 1975) theo đơn nhất chế (unitary system), nghĩa là quyền lực quốc gia được tập trung vào bộ phận chính trị cao nhất.  Đó là chính quyền trung ương; từ đó quyền lực được phân tản hoặc ít hoặc nhiều đến các địa phương mà khi thấy cần, chính quyền trung ương có thể tập trung trở lại, thậm chí  quyết định thay cho chính quyền các địa phương.   Hoa Kỳ thì lại theo liên bang chế, nghĩa là quyền lực không tập trung vào một bộ phận duy nhất, tức cấp quốc gia (thường được gọi là cấp liên bang hay trung ương), gồm Tổng Thống, và Lưỡng Viện Quốc Hội, mà còn nằm trong tay các tiểu bang mà Hiến Pháp năm 1879 đã ghi khá rõ.  Dưới đây là một chút lịch sử về sự hình thành của Liên Bang Chế Hoa Kỳ.

Như chúng ta nhớ lại, trong thời gian chiến tranh với Anh quốc để giành độc lập (1775 – 1783), 13 thuộc địa miền Đông Hoa Kỳ ngày nay (4 thuộc Miền Bắc là NH, MA, RI và CT; 5 Miền Trung là NY, PA, NJ, DE, MD; và 4 thuộc Miền Nam là VA, NC, SC và GA) đã cùng nhau soạn thảo bản “Tuyên Ngôn Độc Lập” (năm 1776).  Một năm sau lại cùng tụ tập lại soạn dự thảo bản Hiếp Pháp đầu tiên của Hiệp Chúng Quốc Hoa Kỳ, tên gọi  là The Articles of Confederation. Bản dự thảo này lần lượt được các thuộc địa phê duyệt, và có hiệu lực từ năm 1781.  Theo Hiến Pháp 1781 này, Hiệp Chúng Quốc Hoa Kỳ là một “liên minh thân hữu” (league of friendship).  Đó là một thứ liên minh lỏng lẻo:  các tiểu bang giữ lại hầu hết chủ quyền (sovereignty) của mình, lớn nhỏ đều bình đẳng và độc lập với nhau.  Chính quyền “trung ương”, tuy có quyền hạn về hòa bình (nhờ đó mới ký hòa ước với Anh năm 1783, và có “tổng thống” John Hancock được bầu năm 1785), nhưng không được quyền thu thuế và điều hành thương mại giữa các tiểu bang.  Chính quyền trung ương này tỏ ra không hữu hiệu và đáp ứng kịp thời khi tình thế đòi hỏi, vì các quyết định quan trọng cần phải được 9 trên 13 các tiểu bang lớn nhỏ đồng thuận.

Vì những lý do đó mà các tiểu bang thấy Hiến Pháp 1781 cần phải có những sửa đổi.  Mùa Xuân năm 1787, 12 tiểu bang đã gửi 55 đại biểu đến họp tại Philadelphia (Pennsylvania) để bàn nhau tu chính Hiến Pháp The Articles of ConfederationTiểu bang Rhode Island không gửi đại biểu vì lo sợ nếu “một chính quyền quốc gia” (a national government, tức theo đơn chế) có thể hình thành như lời đồn đoán, thì sẽ không lợi cho tiểu bang nhỏ bé và ít dân của mình (chỉ 35 ngàn dân, so với 500 ngàn của Virginia, và 200-300 ngàn của nhiều tiểu bang còn lại) .  Các đại biểu họp phiên đầu tiên ngày 25/5/1787.  Sau đó, thay vì tìm cách tu chính bản Hiến Pháp cũ, các đại biểu lại bàn tán tranh luận sôi nổi về sự hình thành lưỡng viện quốc hội liên bang, và về vai trò của các tiểu bang.  Có hai khuynh hướng khác nhau rõ rệt.  Một nhóm đại biểu xem cần phải có chính quyền trung ương mạnh; cho rằng các tiểu bang sẽ là trở ngại nếu cứ muốn duy trì chủ quyền của mình. Khuynh hướng kia cho rằng các tiểu bang nhỏ lo sợ sẽ bị nuốt chững nếu khuynh hướng trước thắng thế.  Vì vậy các đại biểu nghĩ ra một giải pháp dung hòa hai khuynh hướng, nhằm quân bình quyền lực trung ương và quyền lực các tiểu bang.  Cuối cùng một bản dự thảo Hiến Pháp mới được hình thành vào ngày 6/8/1787.  Trong thời gian hơn một tháng sau đó (7/8/1787 – 10/9/1787), các đại biểu còn ở  lại vẫn tiếp tục bàn về nội dung của bản dự thảo này.

Trong khi thảo luận, cũng như khi bản Hiến Pháp thành văn, thì chữ federalism không hề xuất hiện, chỉ được nói đến sau này khi các tiểu bang đem ra phê chuẩn.  Theo Drake & Nelson (1999), federal do tiếng Latin foedus có nghĩa là một hợp đồng giữa đôi bên bình đẳng.  Theo dự thảo Hiến Pháp mới, các quyền của trung ương và địa phương đều được liệt kê ra.  Vì vậy, các chế độ liên bang trên thế giới khó có thể hoàn toàn giống nhau, vì tùy theo hoàn cảnh lịch sử của mỗi nước, mà mối quan hệ đôi bên có thể định hình khác nhau.

Để thuyết phục các tiểu bang, đăc biệt  New York, bấy giờ thương mại trở nên phồn thịnh nhờ Hiến Pháp cũ,  đồng ý phê duyệt dự thảo bản Hiến Pháp mới, hai đại biểu tài ba và tích cực nhất trong việc soạn thảo, Alexander Hamilton, đại biểu 30 tuổi của New York và James Madison, đại biểu 35 tuổi của Virgina, đã cùng John Jay, một chuyên viên ngoại giao kinh nghiệm đang làm việc tại New York, dùng chung bút danh Publius viết ra 85 bài báo, khởi đầu bằng “To the People of the state of New York,” để giải thích các vấn đề mới mẻ trong bản dự thảo Hiến Pháp . Bài báo đầu tiên xuất hiện ngày 27/10/1787.  Về sau, những bài báo đó được tập hợp lại, hiệu đính và xuất bản thành sách với tựa đề là The Federalist Papers, rất hữu ích cho việc tìm hiểu Hiến Pháp Hoa Kỳ –giá trị tương tự những biên bản thảo luận tại Quốc Hội được ghi lại trong  Công Báo Việt Nam Cộng Hòa của chúng ta –Trong bài báo số 45, Madison viết: “Các quyền hành ủy thác cho chính phủ liên bang theo dự thảo Hiến Pháp thì hiếm hoi và giới hạn. Còn quyền hành dành lại cho chính quyền tiểu bang thì nhiều và vô hạn…. Những quyền dành cho tiểu bang sẽ nới rộng tới mọi thứ đời thường liên quan đến cuộc sống, tự do, tài sản nhân dân, và trật tự, cải tiến và thịnh vượng của tiểu bang.”

Theo điều cuối cùng của bản dự thảo, thì chỉ cần 9 tiểu bang thông qua là đủ túc số. NH là tiểu bang thứ 9, thông qua ngày 21/6/1788; không lâu sau đó là VA, NY, NC.  Rhode Island là tiểu bang sau cùng, mãi đến 29/5/1790 mới chịu phê duyệt.  Bản Hiến Pháp mới với cái tên The Constitution of the United States đã có hiệu lực từ ngày thứ Tư 3/4/1789, tức là ngày họp đầu tiên của Quốc Hội mới theo Hiến Pháp này.  Bản Hiến Pháp 1789, cùng với 27 tu chính án lần lượt ra đời sau đó,  là cơ sở pháp lý cao nhất chi phối mọi sinh hoạt chính trị và đời sống của mọi công dân Hoa Kỳ.

Liên Bang Chế Qua Hiến Pháp

Người Mỹ, do sinh ra hay do nhập tịch, là công dân (citizen) của cả liên bang và tiểu bang mình đang ở, có quyền lợi và nghĩa vụ đối với cả 2 thực thể này.  Có vài tác giả còn gọi họ là công dân của các địa phương nữa, nghĩa là dưới cấp tiểu bang.  Theo nhận xét của người viết, Hiến Pháp 1789 chỉ gọi họ là “công dân của liên bang (Điều I, Khoản 2) và “công dân của tiểu bang (Điều IV, Khoản 2) mà thôi.  Như chúng ta biết, dưới chính thể cộng hoà, công dân bầu ra các chính quyền.   Trong quốc gia theo đơn nhất chế (unitary system), công dân bầu ra chính quyền trung ương, và chính quyền trung ương này san xẻ, phân tán quyền hành đến các cấp chính quyền địa phương – được bổ nhiệm hay có thể  được bầu ra.  Trong các quốc gia theo liên hiệp chế (confederation), công dân bầu ra các chính quyền tiểu bang (state governments); các tiểu bang này giữ lại hầu hết chủ quyền của mình, chỉ uỷ nhiệm cho “chính quyền trung ương” một số quyền nào đó mà thôi (thường là quốc phòng, ngoại giao vv.) Còn trong các quốc gia theo liên bang chế (federalism), công dân bầu ra chính quyền liên bang và chính quyền tiểu bang mình đang cư trú để 2 chính quyền này cùng thực thi các quyền hạn được ghi trong Hiến Pháp.  Theo Gordon Grodzins , người ta không nên so sánh  chính quyền Hoa Kỳ như một chiếc bánh nhiều tầng (a layer cake) với những tầng có chất liệu và màu sắc phân biệt rõ ràng, mà nên so sánh nó   như “chiếc bánh cẩm thạch” (a marble cake) với những tầng màu sắc quện nhau như  trong những viên bi  mà chúng ta hay chơi khi còn bé.  Ông viết:

Như những màu sắc pha trộn nhau của “chiếc bánh cẩm thạch”, những nhiệm vụ trong chế độ liên bang Hoa Kỳ cũng pha trộn nhau …. Chế độ liên bang Hoa Kỳ chưa bao giờ là những hoạt động chính quyền riêng biệt.  Không có lúc nào có thể ghi lên nhãn hiệu gọn gàng cụ thể  nhiệm vụ  “liên bang”, “tiểu bang” và “địa phương” cả [Xin xem  Chú Thích]  Trước khi được tổ chức đầy đủ, quốc gia này đã thiết lập ra nguyên tắc đầu tiên của liên bang chế Hoa Kỳ: Đó là chính quyền quốc gia sẽ dùng tài nguyên siêu việt của mình để khởi tạo và yểm trợ các chương trình quốc gia, chủ yếu được quản lý bởi các tiểu bang và địa phương. (Elaza, Carroll, Levine & Angelo, p. viii)

Những quyền của liên bang (được hiểu chủ yếu là Quốc Hội Liên Bang) được liệt kê trong các Điều Khoản của Hiến Pháp 1789.  Dưới đây là một số quyền của LB:

  • Điều I

Khoản 8  về điều hành thương mại (commerce clause) với nước ngoài và giữa các tiểu bang với nhau; ra những luật cần thiết và thích hợp (necessary and proper clause) để thực thi các trách nhiệm của chính quyền liên bang do Hiến Pháp qui định; vay mượn; in tiền; bưu điện (nhân số trên 900 ngàn so với 2,6 triệu nhân số LB); quảng bá tiến bộ khoa học và nghệ thuật; tổ chức tòa án LB dưới Tối Cao Pháp Viện LB; tổ chức quốc phòng; thu thuế vv.

Khoản 9 về di trú, nhập cư; quan thuế; tàu bè, bến cảng

  • Điều IV

Khoản 3 về việc thu nhận các tiểu bang mới vào Liên Bang

Khoản 4 về việc bảo đảm dân chủ cho các tiểu bang, cũng như bảo vệ chống xâm lăng và nội loạn

  • Điều VI, về sự tối thượng của Hiến Pháp, các luật Liên Bang và các hiệp ước quốc tế, nghĩa là có giá trị pháp lý cao hơn luật lệ của các tiểu bang.
  • Tu Chính Án XIII (phê chuẩn ngày 6/12/1865) hủy bỏ chế độ nô lệ trên toàn quốc
  • Tu Chính Án XIV (phê chuẩn ngày 9/7/1868) qui định bầu cử các giới chức chính quyền LB
  • Tu Chính Án XVI (phê chuẩn ngày 3/2/1913) cho phép chính quyền LB thu thuế lợi tức
  • Tu Chính Án XVII (phê chuẩn ngày 8/4/1913) cho phép công dân trực tiếp bầu 2 thượng nghị sĩ thay vì do quốc hội các tiểu bang chọn lựa như trước đó.
  • Tu Chính Án XXVII đặt điều kiện về sự thay đổi lương bỗng cho các Dân Biểu và Thượng Nghị Sĩ. Dự thảo Tu Chính Án này dự trù sẽ được phê duyệt ngày 25/9/1789 chung với 10 Tu Chính Án đầu tiên (gọi chung là Bill of Rights), nhưng nó lại bị quên đi!  Mãi trên 200 năm sau, nó mới được phát hiện, rồi trở thành Tu Chính Án sau cùng của HP 1789, sau khi tiểu bang Michigan bỏ phiếu thông qua vào ngày 15/12/1992.

Những quyền hành các tiểu bang được Hiến Pháp qui định qua:

  • Điều I, Khoản 10: Cấm không được gia nhập ký kết với nước ngoài, phát hành tiền tệ; nếu không được QHLB cho phép thì không được quyền ban hành thuế xuất nhập cảng; không được quyền có quân đội, tàu chiến trong thời bình, không được quyền gây chiến với tiểu bang khác hay ngoại quốc.
  • Tu Chính Án X (cùng với 9 Tu Chính Án I – IX, gọi chung The Bill of Rights, được phê chuẩn ngày 15/12/1791) được xem là vô cùng quan trọng trong việc xác lập quyền hạn của các tiểu bang. Tu Chính Án này viết như sau: Những quyền hành không được Hiến Pháp ủy thác cho Liên Bang, hay bị cấm đoán đối với các tiểu bang, thì sẽ được duy trì cho các tiểu bang, hay cho nhân dân (The powers not delegated to the United States by the Constitution, nor prohibited by it to the States, are reserved to the States respectively, or to the people).  Có thể khẳng định rằng Tu Chính Án này ra đời nhằm bảo đảm những quyền hạn rộng rãi, tuy không được nêu rõ ra, dành cho các tiểu bang và toàn dân, được xem như là bộ phận đối kháng với chính quyền liên bang.
  • Tu Chính Án XIV (được phê chuẩn ngày 9/7/1868, tức sau Nội Chiến 1861- 1865) Khoản 4 cho phép tiểu bang (và liên bang) không phải chịu trách nhiệm về nợ nần đối với các vụ nổi dậy chống Hoa Kỳ; cũng như những đòi hỏi về mất mát hay giải phóng người nô lệ; những nợ nần liên hệ bị xem là bất hợp pháp.

 Hai Tu Chính Án X và XIV nói trên được Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ (US Supreme Court) sử dụng triệt để giải thích về những vấn đề được xem như là “xám” trong Hiến Pháp nhằm giải quyết các vụ kiện giữa Liên Bang và Tiểu Bang, cũng như trong các vụ án về kỳ thị chủng tộc.

Vai trò của các tiểu bang quan trọng đến nỗi danh từ “tiểu bang” được nêu ra minh thị hay trực tiếp hàm ý đến 50 lần trong 42 khoản riêng biệt của Hiến Pháp 1789. Tuy nhiên nếu Tu Chính Án X nói trên cũng không cấm nỗi các thẩm phán các tòa liên bang thường  viện dẫn câu cuối cùng của Khoản 8 Điều I cho phép Quốc Hội “Làm mọi thứ luật cần thiết và thích hợp để hành xử các quyền đã nêu, hay những quyền mà Hiến Pháp này cho phép chính quyền Hoa Kỳ hay bất kỳ Bộ hay Viên Chức của chính quyền này” (“To make all Laws which shall be necessary and proper for carrying into Execution the foregoing Powers, and all other Powers vested by this Constitution in the Government of the United States, or in any Department or Officer thereof.” )

Chúng ta cũng không quên rằng các tiểu bang đều có Hiến Pháp riêng.  Tuy nhiên điều quan trọng về  song hành chủ quyền này không phải các “công dân” Mỹ ai ai cũng  biết.  Trong một cuộc thăm dò toàn quốc năm 1988, chỉ có 44% số người trả lời cho rằng tiểu bang mình đang ở cũng có Hiến Pháp! Thật ra ngay trong thời gian lập quốc (1776 – 1788), 13 tiểu bang đầu tiên cũng đã được Quốc Hội Liên Bang khuyên nên soạn những bản Hiến Pháp riêng cho tiểu bang mình (Những bản HP nguyên thủy này ngày nay cũng được đánh giá là rất dân chủ). HP các tiểu bang đều tam quyền phân lập.  Hành Pháp đứng đầu bởi Thống Đốc, ai cũng biết. Lập Pháp thì tên gọi khá khác nhau: đa số TB gọi đó là Legislature, một số lại gọi là General Assembly, thậm chí Massachusetts gọi General Court –dễ đưa đến hiểu lầm.  Tất cả các TB đều gọi Viện Trên (Upper House) là Senate, nhưng lại gọi Viện Dưới (Lower House) với các tên khác nhau: đa số gọi House of Representatives, vài TB gọi là House of Delegates, hay đơn giản chỉ là Assembly. Riêng Nebreska sau năm 1934 chỉ còn độc viện  –Senate, vì viện dưới bị xem là quá tốn kém.  Tổ chức Tư Pháp cũng phức tạp không kém. Có TB thì hệ thống tòa án có 4 cấp; có TB chỉ có 3 cấp, với các tên gọi khác nhau. Vai trò của tòa án tiểu bang đối với liên bang cũng có sự thay đổi. Vào đầu thập niên 1970, vấn đề liên bang chế thuộc lãnh vực tư pháp (judicial federalism)  đặt ra sau khi Warren Burger được bổ nhiệm làm Chánh Thẩm Phán.  Như chúng ta biết, khi xét xử, Tòa Án Tiểu Bang dựa theo Hiến Pháp tiểu bang cùng luật lệ tiểu bang và địa phương.  Do hoàn cảnh dân số, kinh tế  vv. thay đổi, Hiến Pháp các tiểu bang thỉnh thoảng cũng được tu chính để đáp ứng.

Qua các textbooks về chính quyền Hoa Kỳ (US Government), hay chính quyền tiểu bang và địa phương (State and Local Government), cũng như qua các sinh hoạt hằng ngày, chúng thấy các tiểu bang có ít nhất những quyền hạn cụ thể sau đây:

  • Tổ chức các cuộc bầu cử bầu các giới chức liên bang như Tổng Thống, Thượng Nghị Sĩ LB, Dân Biểu LB, và phê chuẩn các tu chính án cho Hiến Pháp Hoa Kỳ
  • Điều hành thương mại trong tiểu bang
  • Thu các loại thuế (trừ thuế xuất nhập cảng với nước ngoài), vay mượn nợ để đài thọ các công chi
  • Thanh tra kiểm soát hoạt động các hoạt động ngân hàng, công ty
  • Điều hành các định chế dân chủ cho tiểu bang như Thống Đốc, Quốc Hội, chính quyền địa phương
  • Làm luật và thi hành luật và điều hành tư pháp
  • Cung cấp, bảo vệ cư dân trong tiểu bang qua các dịch vụ y tế công cộng, giáo dục, cảnh sát, cùng các hoạt động văn hóa và tinh thần

Chống Tập Trung Quyền Hành

Như chúng ta đã biết, khi đồng ý ngồi lại để cùng soạn bản Tuyên Ngôn Độc Lập 1776, rồi kế tiếp bản Hiến Pháp 1781, các cựu thuộc địa muốn đoàn kết để đủ sức mạnh chống lại vương quốc Anh, nhưng đồng thời không muốn có một nhà nước giống vương quốc Anh, tức quá tập trung quyền bính vào một người, cũng không muốn tập quyền vào tay một nhóm nào.  Hiến Pháp 1781 thành công trong việc duy trì chủ quyền cho các thuộc địa này, tức không quá tập trung quyền lực, nhưng không thành công ở chỗ không hình thành được một chính quyền mạnh đủ khi cần thiết.

Hiến Pháp Hoa Kỳ- Trang 1            Nguồn: National Archives

Mục đích chủ yếu của cuộc họp mặt của các đại biểu tại Philadelphia là để tu chính bản Hiến Pháp 1781. Sau khi làm việc trong thời gian tương đối ngắn –chỉ 2 tháng rưỡi (từ 25/5/1787 đến 6/8/1787– bản dự thảo Hiến Pháp mới đã hoàn thành, nội dung khác rất nhiều với bản Hiến Pháp cũ.  Có hai khác biệt nổi bật.  Thứ nhất, Hiến Pháp mới hàm ý (tức không minh thị) nguyên tắc tam quyền phân lập theo chiều ngang, tức là Hành Pháp, Lập Pháp và Tư Pháp, mà đối với Tư Pháp, theo sử liệu, các đại biểu đã không mất nhiều thì giờ để tranh cãi;  lại còn không “dân chủ” bằng hai bộ phận kia, vì không  do dân bầu!  Thứ hai, có sự phân quyền theo chiều dọc giữa liên bang và các tiểu bang.  Nếu vấn đề đơn nhất chế trở thành nghị trình chính của hội nghị, thì đại biểu của nhiều tiểu bang, trong đó có ít nhất 3 tiểu bang dân số dưới 100 ngàn người sẽ ra về; và chắc chắn sẽ không có một Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ như ngày nay!

Một số đại biểu có địa vị quan trọng ở tiểu bang còn sợ rằng nếu quyền hành quá tập trung vào trung ương, thì mình có thể bị biến hay lu mờ đi, và dọa  sẽ bỏ họp nếu vấn đề tập trung quyền lực tiếp tục bàn.  Ngoài ra, khi bàn về quyền của các tiểu bang, có một vấn đề lớn khác không được đề cập tới. Đó là vấn đề nô lệ, vốn đã bắt đầu nhen nhúm những xung đột, Liên Bang hay tiểu bang, ai là người có trách nhiệm giải quyết sớm?  Các đại biểu đều lặng thinh. Nếu nó được đưa ra, thì chắc chắn sẽ có tranh cãi dữ dội, và 4 tiểu bang miền Nam, trong đó có Virginia đông dân nhất có thể sẽ rút lui khỏi hội nghị. Tuy đã dung hòa, nhưng các đại biểu cũng nghĩ rằng chủ trương dung hoà này cũng không dễ thuyết phục được các tiểu bang.  Vì thế các bài báo của “Publius” mới ra đời, như đã nói trên. Khi Hiến Pháp bắt đầu áp dụng, thì những tranh tụng kiện cáo thuộc lãnh vực liên bang chế đã xảy ra, và vẫn còn tiếp tục dai dẳng đến ngày nay và trong tương lai nữa. Do đó, có thể khẳng định rằng muốn tìm hiểu thêm về sự vận hành hay tiên đoán về định chế phức tạp này, người ta không thể không đề cập đến vai trò của hệ thống Tòa Án Liên Bang.

Một Chút Về Tòa Án Liên Bang

Theo Hiến Pháp 1789, Hoa Kỳ chỉ có 2 cấp chính quyền: Liên Bang (Quốc Gia) và Tiểu Bang.  Các xung đột giữa Liên Bang (Lập Pháp lẫn Hành Pháp) và các Tiểu Bang sẽ được giải quyết qua hệ thống Toà Án Liên Bang,  cấp thấp nhất là Tòa Quận Hạt (US District Court).  Thông thường, mỗi tiểu bang có ít nhất một tòa; các tiểu bang lớn như Califonia, Texas, New York, mỗi nơi có đến 4.  Toàn quốc tổng cộng 94 (kể cả 1 cho thủ đô Wahsington, DC).  Tòa Quận Hạt quan trọng vì đây là tòa xét xử (trial court), nghĩa là qua đầy đủ thủ tục:  mở hồ sơ, nghe nguyên cáo, bị cáo và luật sư; nghe bồi thẩm đoàn.  Các vụ tranh chấp liên quan đến Hiến Pháp hay tranh chấp quyền hành giữa Liên bang và Tiểu bang thường được xét qua các phiên tòa gồm 3 thẩm phán (three-judge district court) –thay vì 1 trong các vụ thông thường– và nếu khiếu kiện thì lên thẳng Tối Cao Pháp Viện, không qua Tòa Phúc Thẩm.

Cấp cao hơn:  Tòa Phúc Thẩm (US Circuit Court, hay US Court of Appeals), được tổ chức theo vùng (region hay circuit),  gọi tên theo thứ tự.  Thí dụ Tòa Phúc Thẩm Thứ Chín (the Ninth Court of Appeals) phụ trách các tiểu bang WA, OR, CA, AZ, NV, ID, MT, AK, HI và đảo Guam; Tòa Phúc Thẩm Thứ Mười phụ trách WY, UT, CO, NM, KS và OK).  Có tất cả 13 trong đó 11 cho các tiểu bang và vùng lãnh thổ Puerto Rico và Virgin Islands, 1 ở thủ đô và 1 gọi là Federal Circuit Court dành cho các trường hợp đặc biệt.  Tòa Phúc Thẩm không phải là tòa xét xử như Tòa Quận Hạt, mà là tòa “xem lại” (review) hình thức đúng sai của các vụ đưa lên từ các tòa quận hạt, hay đôi khi từ các cơ quan hành chánh;  có thể nghe luật sư của đôi bên trình bày ngắn gọn (thường chỉ 10 phút); tranh luận miệng (oral argument). Vì Tối Cao Pháp Viện chỉ nhận “xem lại” rất ít vụ, cho nên có thể xem Tòa Phúc Thẩm là nơi giải quyết cuối cùng (last resort).  Tòa này không tìm kiếm bằng chứng thực tế mới (new factual evidence), mà chỉ đi tìm các sơ hở trong hồ sơ chuyển lên.  Tòa này cũng giải quyết các tranh chấp và cho thi hành án.  Nó cũng tìm ra và đưa phương thức giải quyết cho các vụ mà Tối Cao Pháp Viện có thể nhận để xem xét.

Cấp cao nhất là Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ (US Supreme Court).  Với 9 vị thẩm phán, trong đó Chánh Thẩm Phán (Chief Justice), tất cả đều do Tổng Thống đề nghị và phải thông qua Thượng Viện (giống như các vị quan tòa ở 2 cấp trên).  Vị Chánh Thẩm Phán này cũng chỉ được bỏ một phiếu như đồng viện, nhưng đôi khi lại là lá phiếu quyết định (5/4). Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ cũng là nơi nhận những vụ do các tòa án cao cấp nhất của tiểu bang (đôi khi cũng mang tên tối cao pháp viện) đưa lên.   TCPV Hoa Kỳ có quyền chọn lựa và chỉ nhận rất ít các vụ được đưa lên (trên dưới 1%).  Một cách tổng quát,  tất cả các quyết định của TCPV Hoa Kỳ, cũng như một số lớn của Toà Phúc Phẩm và một số nhỏ của Tòa Quận Hạt là những quyết định có tính cách chính sách (policymaking decisions). TCPV Hoa Kỳ cũng thụ lý các vụ chuyển từ TCPV Tiểu Bang lên.

Trụ Sở Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ tại Washington D.C.

Vì vậy có thể nói một cách không thái quá rằng, các quyết định nói trên về môi trường, hôn nhân đồng tính, nhập cư di trú, sử dụng cần sa ma túy, vv. của 3 cấp tòa án liên bang này có tác dụng định hình các đường lối chính sách liên hệ của các cấp chính quyền trong quản hạt (jurisdiction) của mình.    Tuy nhiên, các quyết định này cũng có thể không giống nhau cho những trường hợp tương tự xảy ra sau này. Lý do biện giải có thể là vì tiến bộ kỹ thuật, hoàn cảnh vật chất hay nhân sinh quan thay đổi!   Tất cả các vị quan tòa liên bang (judges dùng chỉ thẩm phán 2 cấp dưới và justices chỉ 9 vị ở Tối Cao) đều phải do Tổng Thống đề cử và Thượng Nghị Viện biểu quyết. Vì vai trò của họ quan trọng (họ còn xử các vụ vi phạm luật pháp liên bang, ngoại giao đoàn, các tiểu bang với nhau, cũng như giữa các công dân các tiểu bang trong một số trường hợp vv.) và thời gian tại nhiệm lại không hạn định (chỉ chấm dứt khi bị bãi chức vì lý do đạo đức –rất hiếm hoi– hay từ chức, từ trần), cho nên sự bổ nhiệm họ thường mang nhiều màu sắc chính trị đảng phái và không ít kịch tính.

 Ngoài tính cách thực dụng nói trên của cách giải thích, người Mỹ còn tin tưởng khá nhiều vào “khả  năng” và  “lý lịch” của các vị quan tòa.  Nước Mỹ có khá nhiều người học luật (trung bình có 1 luật sư trên 240 dân), Hơn một nửa số thẩm phán Tòa Quận Hạt tốt nghiệp đại học từ các trường uy tín (Ivy League Schools) và sau đó theo đuổi ngành luật tại những trường nổi danh.  Các thẩm phán Tòa Phúc Thẩm còn đáng tin cậy hơn về quá trình học vấn và kinh nghiệm trong nghề. Ngoài ra, khi được bổ nhiệm, họ cũng khá giả về tài chánh. Một nghiên cứu cho thấy rằng trong mấy thập niên gần đây, 90% thẩm phán Tòa Sơ Thẩm tuy được Tổng Thống cùng một đảng bổ nhiệm, nhưng những phán quyết của họ không đi theo lằn ranh đảng phái như trước  năm 1992 (Carp, Sitdham & Manning, 2014, pp 25-47).  Đây là một nhận xét được đưa ra từ nhiều năm trước.

Liên Bang Chế Hoa Kỳ Qua Các Giai Đoạn Lịch Sử

Qua hơn 200 năm nay, sự cân bằng quyền lực giữa liên bang và các tiểu bang không mấy khi được hòa thuận.  Lý do chính yếu là do nhu cầu càng ngày càng thay đổi  trên trường quốc tế cũng như  quốc nội, mà  liên bang càng muốn tăng quyền hành của mình về cường lực cũng như về các lãnh vực, trong khi các tiểu bang –đã tăng từ 13 lúc lập quốc lên 50–  cũng muốn kéo lại chủ quyền đã “mất” vào tay liên bang. Mặt khác, tiểu bang lại phải đối phó với các vấn đề địa phương của mình, do sự tạo lập các đơn vị hành chánh mới, những vấn đề mới về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội vv.  Tìm hiểu nước Mỹ mà quên yếu tố thứ hai này sẽ là một thiếu sót quan trọng. Nói một cách đại cương, Tổng Thống, Lưỡng Viện Quốc Hội và Tối Cao Pháp Viện, và cả các tiểu bang đều có phần đóng góp vào sự mất cân bằng quyền lực này.  Nhưng công bằng mà nói, một khi Tổng Thống hay Quốc Hội muốn thay đổi, Tối Cao Pháp Viện thường khó ngăn cản.  Để dễ có những nhận xét tổng quát, các nhà nghiên cứu, trong đó có Smith & Greenblatt (2018) khảo sát sự biến chuyển liên bang chế Hoa Kỳ qua những thời kỳ sau đây:

  • Thời Kỳ Liên Bang Chế Lưỡng Tính — Dual Federalism  (1789 – 1933)

 Do quyền hành đã được phân định rõ trong Hiến Pháp còn chưa ráo mực, hai bên –Liên Bang và các Tiểu Bang– phần ai nấy làm, hơn là hợp tác với nhau.  Các tiểu bang cùng các địa phương củng cố việc nội bộ.  Thậm chí, có tiểu bang còn nghĩ tới việc rút ra, vì nghĩ vào được thì rút được. Đã vậy, Chánh Thẩm Phán Roger B. Taney của TCPV (một  định chế lúc ấy đang chia rẽ trầm trọng)  trong vụ Dred Scott v. Sandford (1857, Scott là một nô lệ, sau khi chủ cũ chết, đã đến sinh sống  nhiều năm ngoài tiểu bang cũ, nơi  không công nhận nô lệ, nay bị kiện đòi mang về)  lại tuyên bố rằng những nô lệ không là, không được nhập xếp vào  ‘những công dân’ ghi trong hiến pháp, và do đó không có quyền và đặc ân kiện tụng dành cho công dân trước các tòa án liên bang.  Các ý kiến của Taney được các luật gia về sau này xem là tệ hại nhất trong lịch sử TCPV Hoa Kỳ, và là một trong những lý do dẫn tới Nội Chiến. Năm 1860, các tiểu bang miền Nam rút khỏi Hợp Chủng (Union, tiếng dùng để chỉ  tổ chức mới gồm 13 cựu thuộc địa thành lập theo HP 1789), và lập ra “the Confederation States of America”, và Jefferson David được bầu lên làm Tổng Thống  ngày 18/2/1861.  Không bao lâu sau, Abraham Lincoln được bầu làm Tổng Thống của “the United States of America” (trong cả 2 HP 1781 và HP 1789, tên nước đều là như thế). Trong bài diễn văn nhậm chức đầu tiên ngày 8/3/1861, Lincoln tuyên bố ông không có quyền hành pháp định để can thiệp vào định chế nô lệ đang hiện hữu tại các tiểu bang.  Nhưng ông khẳng định Hợp Chủng là vĩnh viễn; không thể muốn rút ra thì rút … không thể tách rời.  Nội Chiến chính thức khởi đầu, chỉ hơn một tháng sau đó, ngày 12/4/ 1861, và kéo dài đến năm 1865 mới chấm dứt với sự đầu hàng của Tướng Lee, Chỉ Huy Trưởng của Confederation Miền Nam.  Giữa lúc chiến tranh, năm 1865, Abraham Lincoln tuyên bố chấm dứt chế độ nô lệ.

 Sau Nội Chiến, 4 Tu Chính Án  quan trọng ra đời như đã được đề cập ở trên.  Trong thời kỳ này, chính quyền liên bang xây dựng hệ thống đường sắt (bắt đầu  năm 1887) nối liền các tiểu bang với nhau, tạo thuận lợi cho sự giao thông và chuyên chở hàng hóa.  Đây là một phương tiện vô cùng quan trọng đưa đến sự hội nhập lớn lao của nước Mỹ,  không những về phát triển kinh tế, mà còn về văn hóa, xã hội  nữa khi mà phương tiện truyền thông chưa mở mang. Cũng nhờ Tu Chính Án XVI (phê chuẩn ngày 3/2/1870) cho phép thu thuế lợi tức (income tax) mà Liên Bang mới có dư tiền mặt để giúp đỡ các tiểu bang qua các chương trình cho không qua trợ giúp (grants-in-aid), tổng cộng có tới 15 chương trình. Thời kỳ này chấm dứt khi xảy ra cuộc Đại Khủng Hoảng Kinh Tế bắt đầu năm 1930. Đáng lưu ý là  sau khi Hiến Pháp được thi hành , những phán quyết của Tối Cao Pháp Viện do Chánh Thẩm Phán John Marshall đứng đầu (1801-1835) đã giúp chính quyền Liên Bang có những quyền lực cơ bản, và đồng thời cũng tạo thế đứng cho các cấp Tòa Án Liên Bang, dù các quan tòa  không do dân trực tiếp bầu lên như chúng ta đã biết.

  • Thời Kỳ Liên Bang Chế Hợp Tác – Cooperative Federalism (1933 -1964)

 Vừa khi bước vào Tòa Bạch Ốc, trong 100 ngày đầu trăng mật, Tổng Thống Franklin D. Roosevelt đã lần lượt gửi sang Quốc Hôi nhiều dự thảo luật để đối phó với tình trạng kinh tế toàn quốc quá tệ hại với 25% lực lượng lao động không có công việc làm, mà thủa đó trong hầu hết  gia đình chỉ có người chồng làm việc. Tất cả đều được Quốc Hội thông qua, nhưng một số lớn lại bị Tối Cao Pháp Viện bác đi, với tỷ lệ 5/9.  Quá tức giận, Tổng Thống Roosevelt bí mật soạn kế hoạch để có thể lần lượt bổ thêm những thẩm phán mới của mình vào TCPV: hễ có một vị tại chức tới tuổi 70 và đã phục vụ 10 năm nhưng không chịu về hưu, thì  ông sẽ bổ nhiệm một vị của mình, tổng cộng TCPV sẽ có thể lên đến 15!  Để cứu định chế có thể có quá nhiều thẩm phán này, TCPV đã nghĩ lại và quyết định thuận lợi cho Hành Pháp!  Nhờ vậy mà nhiều cơ quan mới được thành lập (thí dụ TVA, phát triển canh nông vùng thung lũng Vanderbuilt), biện pháp kinh tế xã hội mới được thực hiện, trong đó có chương trình an sinh xã hội (social security), mà nay vẫn còn hiệu lực, giúp cho người già có tiền hưu sau ít nhất 40 quý (10 năm)  làm việc.  Thế Chiến II lại càng khiến cho Liên Bang và Tiểu Bang hợp tác chặt chẽ hơn.  Roosevelt làm Tổng Thống đến bốn nhiệm kỳ (1933- 1944, mất vào đầu nhiệm kỳ thứ tư), do đó mà nhiều biện pháp cải tổ cũng như các cơ quan mới kinh tế  xã hội  đã được đưa ra.  Sau chiến tranh, kinh tế Hoa Kỳ phục hồi và phát triển nhanh, tạo ra nhiều công ăn việc làm (cho cả phụ nữ vốn đã đi làm trong thời kỳ chiến tranh để thay thế nam giới nhập ngũ), thuế thu được nhiều hơn, nên chính quyền liên bang có thêm phương tiện mở rộng các chương trình hợp tác với các tiểu bang qua các chương trình cho không thông qua trợ giúp, như đề cập ở trên.   Đến cuối 1960, Liên Bang thực hiện tới 132 chương trình cho không thông qua trợ giúp, tức đã bắt đầu ảnh hưởng khá nhiều đến sinh hoạt và “thẩm quyền” của các tiểu bang.

  • Thời Kỳ Liên Bang Chế Tập Trung –Centralized Federalism (1964 – 1980)

Bắt đầu với Tổng Thống Lyndon Johnson. Song song với cuộc chiến Việt Nam, ông còn có  tham vọng mở thêm cuộc chiến nhân quyền và chống nghèo đói trong quốc nội qua chương trình Xã Hội Vĩ Đại (Great Society), chủ trương chính quyền liên bang phải lãnh đạo các chính sách dân sinh của quốc gia,  còn các chính quyền tiểu bang và địa phương sẽ giúp thực hiện các chính sách này. Johnson chủ trương sự giúp tặng phải kèm theo những điều kiện ràng buộc rõ ràng, chẳng hạn phải có sự đóng góp tài chánh tối thiểu, sự đóng góp nhân sự do tiểu bang đài tho.  Trong 4 năm tại chức, chính quyền Johnson đã tung ra trên 200 chương trình loại này, trong đó có Chương Trình Medicare nay vẫn còn hiệu lực.  Thêm vào đó còn có những chương trình hợp tác với các điều kiện “kỳ lạ” từ liên bang, thí dụ như qua các chương trình gọi là “cấm chéo” (crossover sanctions), thì muốn được nhận ngân quỹ trợ giúp xây đựng đường sá, tiểu bang phải ra luật cấm dưới 21 tuổi không được uống rượu.  Đi xa hơn, còn có một số chương trình hợp tác bắt buộc (mandated) mà không đem lại tiền bạc (unfunded) đã tạo bực bội cho tiểu bang và địa phương, chẳng hạn như chương trình về các tiêu chuẩn nước sạch, lương tối thiểu.  Quốc Hội Liên Bang càng ngày càng lấn lướt, ra những đạo luật buộc các tiểu bang và địa phương phải thi hành, tạo tốn kém cho họ –131 tỷ đô la trong 4 năm 2004-2008, theo một ước tính.

 Trong thời gian này, Tối Cao Pháp Viện đã đưa ra nhiều phán quyết có hiệu lực làm giảm bớt sự kỳ thị chủng tộc. Trong lãnh vực Tư Pháp, vấn đề liên bang chế cũng được đặt ra (judicial federalism).  Như chúng ta rõ, khi xét xử, các tòa án tiểu bang dựa vào Hiến Pháp và luật tiểu bang, cũng như luật lệ địa phương; chỉ khi thấy thiếu căn bản để giải quyết thì mới tham khảo Hiến Pháp và luật liên bang.  Với sự bổ nhiệm Chánh Phẩm Phán mới Warren Burger (bảo thủ, do Tổng Thống Nixon, 1969), phe cấp tiến lo ngại chủ trương công bằng xã hội (social equality), cùng với các phong trào khác như khan hiếm năng lượng, khí hậu toàn cầu thay đổi vv.  có thể sẽ bị cản trở.  Nhưng lo ngại này thiếu căn cứ, vì đó là những lãnh vực mà  Quốc Hội Liên Bang phải có tiếng nói trước (Simon & Steel & Lovrich, 2011).

  • Thời Kỳ Tân Liên Bang Chế –New Federalism (1980 – 2002)

 Thật ra thời kỳ này phải nói là bắt đầu trước đó.  Thật vậy, ngay sau khi Nixon vào Tòa Bạch Ốc, tại đây đã tổ chức những cuộc tranh luận nội bộ giữa 2 nhóm giới chức cao cấp về “tập quyền” và “tản quyền”.  Tân Liên Bang Chế được hình dung như “chủ nghĩa địa phương mang tính quốc gia (national localism), hay một hệ thống tản quyền hành chánh nhìn nhận thực tế tập quyền trong khi về hình thức thì nói là trả quyền hành và các quyết định quản trị về cho các tiểu bang và dân địa phương.  Tổng Thống Nixon tuyên bố: “Tinh túy của Tân Liên Bang Chế là đạt được sự kiểm soát vận mạng quốc gia bằng cách trả sự kiểm soát lại cho các tiểu bang và địa phương; [nghĩa là] quyền hành, ngân khoản, và quyền lực (power, funds, and authority) sẽ được tăng cường chuyển đến cho những chính quyền gần nhất với dân.”  Nixon còn nhấn mạnh là các tiểu bang sẽ có thêm quyền nhận sự giúp đỡ tài chánh của liên bang, và quan trọng hơn nữa, “các quyền của các tiểu bang nay được miêu tả chính xác hơn là nhiệm vụ của các tiểu bang” (Banks, 2018, p. 4)

Nixon sử dụng đầu tiên thuật ngữ này khi ông muốn trao trả quyền hành về cho các tiểu bang và địa phương, mà không đưa ra những điều kiện trói buộc, và đồng thời để giảm các khoản tiền cho không  (tặng dữ) thông qua trợ giúp (grants-in-aid) từ liên bang mà ngân sách liên bang  bấy giờ đang túng thiếu.  Tuy nhiên Nixon không có những hành động cụ thể.  Chính Tổng Thống Reagan mới là người nâng chủ trương này thành ý thức hệ cùng với chính sách giải tỏa các rào cản khác (de-regulations) của ông.  Thật ra khi ông hùng hồn tuyên bố “Chính quyền không là giải pháp cho vấn đề của chúng ta; chính quyền mới là vấn đề” (Government is not the solution to our problem; government is the problem), thì người ta không nghĩ ông hoàn tin tưởng ở khả năng của các chính quyền tiểu bang và địa phương; trái lại ông chỉ muốn bớt gánh nặng cho trung ương mà thôi. Và điều này thì phù hợp với chủ nghĩa cá nhân mà ông cổ võ.  Khi được giao việc, các Chính quyền Tiểu Bang (CQTB) và Chính quyền Địa Phương (CQĐP) cũng được Chính quyền Liên Bang (CQLB) giúp những ngân khoản (block grants) để đài thọ chính sách phát triển của họ. Về lý thuyết, căn bản của khuynh hướng tân bảo thủ này dựa trên chủ trương rằng để đối phó với tình trạng kinh tế xã hội cả nước, thì chính quyền trung ương không hiệu quả và hiệu năng bằng 50 CQTB và hằng chục ngàn CQĐP, vì 2 loại chính quyền sau này gần gủi dân chúng hơn. Reagan đưa William Rehnquist, vị thẩm phán đứng hàng thứ năm về thời gian tại chức  lên chức vị Chánh Thẩm Phán; rồi sau đó người kế nhiệm của ông, George H. W. Bush, lại bổ thêm 2 vị nữa, tạo nên một Tối Cao Pháp Viện bảo thủ giúp chính quyền liên bang hạn chế bớt quyền lực mình, và đưa quyền hành về cho các tiểu bang. Trong thời kỳ này, có nhiều vụ xử mà Tối Cao Pháp Viện dành phần thắng cho tiểu bang.  Chẳng hạn, trong vụ United States v. Lopez, TCPV gạt bỏ một luật LB cấm mang vũ khí gần các trường công lập; đây là lần đầu tiên TCPV hạn chế quyền QH theo điều khoản về điều hành thương mại giữa các tiểu bang. Trong vụ Printz v. United States (1997), TCPV bác một điều luật mà LB buộc phải kiểm tra lý lịch trước khi mua súng.

 Nhân đây, xin trình bày với  chút chi tiết vụ Bush v Gore (2000) liên quan đến cuộc bầu cử,  nhằm minh họa ảnh hưởng qua lại giữa Liên Bang và Tiểu Bang. Như lịch sử ghi lại, qua kiểm phiếu phổ thông toàn quốc, Gore hơn Bush trên nửa triệu phiếu.  Tuy nhiên nếu ai thắng phiếu phổ thông ở Florida, thì sẽ chiếm trọn 25 số phiếu cử tri đoàn của tiểu bang này, và sẽ trở thành Tổng Thống. Do số phiếu phổ thông Gore thua Bush rất ít, nên các luật sư phía của Gore yêu cầu đếm lại. Như chúng ta đã biết, tổ chức bầu cử Tổng Thống tại Florida là do Florida đảm nhiệm theo sự phân quyền của Hiến Pháp 1789; và kiện tụng nếu có cũng phải do các Toà Án tiểu bang này thụ lý.  Khi vụ kiện được đưa lần đến Tối Cao Pháp Viện Florida tháng 12/2000,  thì cơ quan này ra phán quyết cho đếm lại bằng tay tất cả số phiếu bầu tại 4 quận trong 67 quận (counties)  của Florida.  Các luật sư phía Bush liền đưa vụ kiện này lên Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ.  Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ phán rằng việc đếm phiếu lại phải được xử lý công bằng với tất cả các phiếu bầu trong tiểu bang.  Với tỷ lệ 5-4, ngày 12/12/2000, Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ ra lệnh ngưng đếm tiếp, nhưng vẫn giữ kết quả cuả cuộc đếm số đang tiến hành tới lúc đó, mà Bush đang hơn 537.  Nghĩa là Bush thắng số phiếu phổ thông tại Florida, do đó chiếm trọn 25 số phiếu cử tri đoàn của Florida, nâng số phiếu cử tri đoàn toàn quốc lên 271, chỉ hơn Gore 1 phiếu và trở thành Tổng Thống thứ 43 của Hoa Kỳ.

  • Thời Kỳ Liên Bang Chế Vụ Việc –Ad Hoc Federalism (2002 – Nay)

 Trong thời kỳ này, những tiêu chuẩn có tính cách tổng quát kể trên không còn được sử dụng nữa. Thay thế vào đó là tùy vụ việc mà chọn lưạ, dựa trên quan hệ đảng phái, xem ai sẽ đóng vai trò chủ yếu –liên bang hay tiểu bang và địa phương. Trong thời kỳ này, Luật “No Child Left Behind” Act ban hành năm 2002 được chính quyền George W. Bush xem là rất quan trọng nhằm nâng cao và giảm cách biệt quá đáng đối với  trình độ học sinh trung tiểu học toàn quốc, một bước ngoặc trong lịch sử giáo dục Hoa Kỳ, mà trước đó hoàn toàn nằm trong tay các CQTB và CQĐP.  Theo Luật này, trợ cấp Liên Bang ít hay nhiều sẽ tùy thuộc thành quả đạt được (performance) của các trường công lập tiểu bang và địa phương.  Tiến trình như sau (1) CQLB đặt ra tiêu chuẩn cấp LB –> (2) CQ TB dựa vào đó đặt ra tiểu chuẩn cấp TB, ra bài thi để đo lường thành quả học sinh –> (3) Các trường địa phương thực hiện giảng dạy, thi cử hằng năm -> (4) Các trường phúc trình kết quả thi cử lên CQ TB -> (5) CQTB đúc kết trình lên CQ LB –> (6) CQ LB xem xét thành quả –> (7) CQLB  và CQTB  xét cấp ngân quỹ cho các trường tùy theo thành quả.  Một cách tổng quát, CQLB cấp ngân quỹ cho địa phương qua CQTB; nhưng cũng có trường hợp cấp trực tiếp cho điạ phương.  Dưới thời G.W. Bush, trong vụ tiểu bang Massachsetts cùng 12 tiểu bang khác kiện cơ quan môi sinh Environment Protection Agency EPA (viện lý do sự thay đổi khí hậu không hẳn là do nhà kính)  đã không chịu thi hành luật Clean Air Act ban hành từ năm 1999, Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ vào tháng 4 năm 2007, đã ra phán quyết với số phiếu 5/4  nghiêng về phía các tiểu bang, mặc dầu Chánh Thẩm Phán John Roberts đại diện cho phía thiểu số viết rằng EPA đã không đưa ra lời giải thích hợp lý để từ chối. Phán quyết TCPV 2007 này đưa đến những thay đổi về phương diện bảo vệ môi sinh trong nội bộ Hoa Kỳ, cũng như khi Hoa Kỳ (thời Obama) ký kết Hiệp Định Khí Hậu Paris, mà sau đó Tổng Thống Donald Trump tuyên bố rút khỏi.

Tổng Thống Barack Obama, giống như Tổng Thống Bill Clinton, cũng muốn sử dụng CQLB để thực hiện các chương trình dân sinh của mình.  Đạo luật Affordable Care Act, thường được gọi là Obama Care, được Quốc Hội thông qua lại bị kiện cáo tại Tối Cao Pháp Viện.  Chánh Thẩm Phán John Roberts, do George W. Bush bổ nhiệm, lại bỏ lá phiếu quyết định thuận, với lý luận rằng đó là ý của nhân dân (hàm ý Lưỡng Viện Quốc Hội và Tổng Thống đều thuộc đảng Dân Chủ, do dân bầu lên).  Tuy nhiên, sau đó 24 tiểu bang trên toàn quốc từ chối hợp tác với chính quyền Liên Bang, bằng cách không chịu đóng góp 31 tỷ đô la để dân chúng trong địa phận mình có thể hưởng một ngân khoản lớn 423, 6 tỷ dành cho chương trình Medicaid (2013 – 2022) sẽ đến từ Liên Bang.  Trường hợp tương tự cũng xảy ra khi các tiểu bang từ chối đóng góp thêm phần mình để kéo dài trợ cấp thất nghiệp trong tiểu bang, theo ý muốn của chính quyền Obama. Trong cả 2 trường hợp, lý do chủ yếu là vì lập trường chính trị hơn là do phải đóng phần mình.  Trong vụ Arizona v. United States (2012), TCPV phán rằng các tiểu bang không có quyền làm và thi hành luật về di trú; tuy nhiên lại cho phép các tiểu bang thực hiện các qui định đòi hỏi giấy tờ (“show me your papers” regulations) để chứng minh về tình trạng di trú.

Trong 2 thập niên vừa qua, trong thời đại phát triển toàn cầu hóa, nhiều CQTB và CQĐP lần lượt chấp nhận từ nước ngoài –đặc biệt Á Rập, Nga, Trung Cộng– các khoản đầu tư, cho thuê các thương cảng, mướn các nhà thầu xây dựng thiết lập hệ thống giao thông trong TB mình vv. khiến cho CQLB phải lo ngại.  Ngoài ra, việc các thành phố trong nước “kết nghĩa” với các thành phố ngoại quốc, việc giao lưu văn hoá và khoa học của các trường đại học Mỹ với các đối tác nước ngoài cũng được CQLB lưu ý.  Tuy chưa có kiện tụng giữa CQLB và các thực thể địa phương này, nhưng cũng có thể đây sẽ trở thành động cơ, nếu CQLB không thuyết phục được các địa pương về những nguy cơ có thể xảy đến.

Chính quyền dưới thời Tổng Thống Donald Trump trong 3 năm đầu tiên đã tận dụng quyền lực hành pháp nhằm hạn chế nhập cảnh, nhập cư;  không trợ cấp các thành phố chứa chấp di dân nhập lậu; không triển hạn DACA;  không tính di dân bất hợp pháp trong cuộc Kiểm Tra Dân Số Năm 2020; mở cửa các cơ sở thương mại và trường học, chủ trương gửi quân đội/vệ binh tới các địa phương mất trật tự do biểu tình;  vv. Tuy nhiên hầu hết các biện pháp này đều bị khước từ bởi các CQTB; hoặc bác bỏ bởi các tòa án liên bang (US District Courts, hay US Court of Appeals). Tranh chấp vẫn còn tiếp tục: mới vừa qua trong tháng 9/2020, Tòa Phúc Thẩm Thứ Mười Một đã xử không cho phe Dân Chủ Texas mở rộng nổ lực bỏ phiếu qua thư tín.  Chúng ta nên nhớ theo tinh thần Hiến Pháp 1789, thì quốc phòng, ngoại giao, tiền tệ được phân công cho Liên Bang; những công tác còn lại là do các tiểu bang, trong đó có y tế sức khỏe, an ninh trật tự, giáo dục, điều hành các cuộc bầu cử liên bang, vv. Đối với một số các công tác này, một số tiểu bang chọn lựa hợp tác với các tiểu bang khác hơn là với CQLB.

Nói tóm lại, nếu chỉ nhìn qua những nhiệm kỳ Tổng Tống, chúng ta có thể nói các Tổng Thống sau đây chủ trương chính quyền trung ương mạnh và gần gủi với nhân dân: John Quincy Adams, Abraham Lincoln, Theodore Roosevelt, Woodrow Wilson, Franklin D. Roosevelt, Harry Truman, Lyndon B. Johnson, Jimmy Carter, Bill Clinton, Barack Obama, và có lẽ cả Tổng Thống Donald Trump nữa! Và những Tổng Thống sau đây cổ vũ cho sự gần gũi giữa các tiểu bang và nhân dân: Thomas Jefferson, Andrew Jackson, William Howard Taft, Herbert Hoover, Richard Nixon, Ronald Reagan, George W. Bush. (Drake & Nelson, p. 224). Đa số ý kiến đối với Obama, W. Bush và Trump là ý kiến riêng của người viết bài này.

Về phương diện chi tiêu, trong vài thập niên vừa, Liên Bang đã giúp không dưới 25% chi phí của các CQTB và CQĐP, trong khi bản thân liên bang thì nợ nần chồng chất.  Thống kê cho thấy từ hơn 6 thập niên vừa qua, ngân sách liên bang chỉ bội thu trong tài khoá 1960 dưới thời Tổng Thống Dwight Eisenhower, và 4 tài khoá liên tiếp (1998, 1999, 2000 và 2000) dưới thời Tổng Thống Bill Clinton, nhờ kinh tế phát đạt. Còn lại đều là nợ nần. (Lê Văn Bỉnh, 2012).  Những khoản chi lớn lao của Liên Bang do ảnh hưởng của cơn đại dịch Covid-19 năm nay tạo  thêm những món nợ khổng lồ, có lẽ vài thập niên sắp tới CQLB cũng không trả nỗi, đừng nói gì tới các món nợ trước đó mà ngân sách liên bang hằng năm phi chi gần 10% để trả lãi và vốn đáo hạn.  Nay các tiểu bang và địa phương lại đòi (qua Hạ Viện) giúp đỡ thêm, thì thử hỏi tiền đâu mà có!  Nói chung, thì cả 3 cấp chính quyền đều gây nợ, nhưng rõ ràng CQLB là con nợ ký tên  trên giấy nợ!

Những Thuận Lợi Và Bất Thuận Lợi Của Liên Bang Chế

Đến nay Liên Bang Chế Hoa Kỳ đã tồn tại được 240 năm, một thời gian khá dài khi đề cập đến sự ổn định của một thể chế chính trị. Có lúc suông sẻ, có lúc gập ghềnh. Dưới đây là một số thuận lợi và bất thuận lợi, tổng hợp từ nhiều tài liệu, trong đó có Smith & Greenblatt (2018), Rozell & Wilcox (2019)

  • NHỮNG THUẬN LỢI

    Ngoài thuận lợi quan trọng ban đầu là chống tập trung quyền hành vào trung ương, liên bang chế (LBC) có thêm những thuận lợi dưới đây:

*Sự Hợp Tác – Qua sự phân tích các thời kỳ nói trên, chúng ta thấy LBC Hoa kỳ chưa bao giờ là một hệ thống những hoạt động chính quyền riêng lẻ.  Ngay từ đầu, nó là những quan hệ giữa liên bang và tiểu bang; nhưng về sau thì càng ngày càng nhiều tiểu bang hơn gia nhập, kéo theo các địa phương với những tổ chức khác nhau đến nỗi đến nay không có sách giáo khoa nào có thể đề cập đủ chi tiết về tên gọi, tổ chức và quyền hành các địa phương này. Theo thống kê năm 2017,  Hoa Kỳ có gần 90.000 chính quyền: 1 liên bang, 50 tiểu bang, còn lại là 2 loại chính quyền điạ phưong (Xin Xem Chú Thích).  Theo Morton Grodzins, “Không có lúc nào người ta có thể dán lên những cái nhãn hiệu gọn gàng về những chức năng cụ thể của “liên bang”, “tiểu bang” và “điạ phương”.  Quốc gia này, trước khi nó được tổ chức và ổn định hoàn tòan …. thì cái nguyên tắc đầu tiên của LBC là: chính quyền quốc gia sẽ sử dụng các nguồn lực siêu việt của mình để khởi xướng và yểm trợ các chương trình quốc gia, được chủ yếu quản lý bởi các tiểu bang và các địa phương  …” (Elazar 1969)

*Sự Linh Động & Bớt Mâu Thuẩn—Chính sách liên bang không có tính cách áp đặt, cùng một nội dung cho mọi tiểu bang và địa phương khác nhau (one-size-fits-all policies); mà trái lại các CQTB và CQĐP có thể chọn lựa cho thích hợp với hoàn cảnh địa lý, chính trị, pháp lý, kinh tế, văn hóa của mình miễn sao có lợi cho dân chúng. Nhờ linh động chọn lựa và thích nghi chính sách và dự án LB với hoàn cảnh mình như nói trên, CQTB và CQĐP tránh được những xung đột với CQLB và những CQTB + CQĐP lân cận.

*Thí Nghiệm Dân Chủ  & Tham Gia Dân Chủ — Thẩm Phán TCPV Hoa Kỳ Louis Brandels ví các tiểu bang Hoa Kỳ như những phòng thí nghiệm dân chủ: một chương trình, một dự án do LB đưa ra, hay tự một TB hay địa phương nào đó khởi xướng, sẽ không áp dụng  đồng loạt khắp nơi, mà là nếu áp dụng thành công ở một nơi, sẽ được nhân rộng cho nhiều nơi hay toàn quốc. Sự tản quyền đến CQTB và CQĐP tạo cơ hội gần gũi thuận tiện cho dân chúng tham gia vào các chương trình, dự án nhằm phát huy dân chủ, giúp công chúng ý thức thêm về công ích và quyền lợi chung của cộng đồng mình ở.  Và nhờ đó mà củng cố niềm tin và tạo sự đồng thuận của họ đối với các định chế chính trị.

*Cạnh Tranh & Mục Tiêu LB Có Thể Đạt Được Ở Một Số Nơi –Sau khi LB đề ra một chương trình, các TB hay các địa phương có thể không cần phải đợi LB vạch ra phương thức thực hiện chi tiết, mà tùy khả năng riêng của mình có thể làm trước LB và các nơi khác, để được chú ý cũng như được sự trợ giúp của Liên Bang .  Việc thực hiện mục tiêu có tính cách cạnh tranh này giúp cho các mục tiêu mà LB đề ra có thể sớm đạt được.

*Nhiều Chọn Lựa – Hoa Kỳ là một quốc gia rộng lớn mà đường lối chính sách kinh tế, thuế khóa, xã hội, giáo dục, y tế lại khác nhau từ tiểu bang này sang tiểu bang khác, cũng như từ địa phương này sang địa phương khác trong cùng tiểu bang.  Do đó người dân có thể chọn lựa nơi mà mình đến cư trú để có thể hưởng những dịch vụ công cộng đó.  Thí dụ chọn mua nhà ở tiểu bang mà thuế thấp, trong đó có thuế tài sản, hay không có thuế trường học; dọn nhà đến Maryland để con cái hưởng giáo dục tốt của các trường công lập; đến Virginia để hưởng nhiều dịch vụ xã hội  y tế dành cho người già và người khuyết tật.  Thậm chí có người nghĩ rằng sẽ dễ sống đạo hạnh hơn nếu di dời đến Utah, tiểu bang chỉ có 3 triệu cư dân mà 63% theo đạo Mormon, hầu như mọi nơi cấm bia rượu; tuy nhiên xin đừng lái xe sang Nevada, nơi cờ bạc  gái điếm đều hợp pháp!

*Linh Động Đối Với Các Tôn Giáo –  Hoa Kỳ là quốc gia có nhiều tôn giáo. Khởi thủy là những người theo đạo Tin Lành (Protestant, nay thường được gọi là Christian), kế đó là những người Thiên Chúa giáo/ Công giáo (Catholic), Do Thái giáo, Hồi giáo, Phật giáo vv.  Ngày nay chúng ta thấy nhan nhãn khắp nơi các nhà thờ Tin Lành (Baptist church), nhà thờ Thiên Chúa giáo (Catholic church), nhà thờ Do Thái giáo (synagogue), nhà thờ Hồi giáo (mosque), chùa Phật giáo (Buddist temple, pagoda), những nhà cầu nguyện khác.  Nói chung, tín đồ các tôn giáo này đi đến các nơi đây tuy không thường xuyên bằng ở các nước Á Rập, Ấn Độ hay Nigeria.  Ở những tiểu bang tập trung nhiều nhà thờ Công giáo như New York, New Jersey, Rhode Island, Connecticut, Massachusetts, không có án tử hình, hoặc nếu có, thì cũng ít mang ra thi hành.  Do đất đai rộng lớn, tín đồ có nhiều chọn lựa nơi để xây lên cơ sở tôn giáo của mình.  Quyết định của họ buộc phải theo luật lệ về qui định vùng ở địa phương (zoning code) của chính quyền địa phương trong đó ý kiến cư dân lân cận là yếu tố quyết định –nếu cư dân phản đối, họ sẽ tìm nơi khác, tránh được có những xung đột đáng tiếc có thể xảy ra sau này.

  • NHỮNG BẤT LỢI

    Tuy nhiên, LBC cũng có thể đem lại những bất lợi, như sau:

*Gây Phức Tạp và Bối  Rối— Vì mỗi TB, mỗi địa phương có luật lệ riêng, cho nên một công dân sẽ thấy bối rối không biết hành vi của mình có “hợp pháp” chăng.  Chẳng hạn, bạn có một cơ sở sản xuất rượu nho ở California, bạn sẽ mất thời giờ tìm xem là rượu nho có được phép gửi sang Virginia không, và thuế suất  bán (sales tax) là bao nhiêu; cũng câu hỏi đó đối với 48 TB, và ĐP khác! Về phía chính quyền, sự khác biệt về luật lệ có thể khiến cho sự phối hợp giữa các đơn vị chính quyền lân cận trở nên khó khăn trong một số công tác như về chửa lửa, cảnh sát, tội phạm vv.

*Tạo Thêm Xung Đột/Gây Bất Bình Đẳng –Liên Bang Chế giảm bớt mâu thuẩn xung đột như đã nói  phần lợi ích, nhưng cũng có thể tạo ra những mâu thuẩn xung đột khi mà thẩm quyền địa hạt không được ấn định rõ ràng, hay dễ lẫn lộn, tức là không có một luật lệ đồng nhất. Thí dụ bạn mang theo cần sa, hay súng đạn từ một tiểu bang cho phép sang biên giới một tiểu bang cấm đoán thì sẽ gặp phiền toái. Ngoài ra, vì luật lệ khác nhau, ngân sách khác nhau, thuế đóng khác nhau, mà người dân địa phương này có thể hưởng những dịch vụ hay được đối xử khác nhau và họ cảm thấy không công bằng.  Thí dụ trường công khu nhà giàu được xem là “tốt” hơn trường công khu nhà nghèo về cơ sở, phương tiện, phẩm chất giáo dục cũng như kỷ luật vv.

* Cạnh Tranh Có Thể Đưa Đến Thiệt Hại – Nói chung, Hoa Kỳ coi cạnh tranh là tốt.  Trong phạm trù liên bang chế, sự cạnh tranh giữa các tiểu bang để thực hiện các chương trình hay dự án do CQLB đưa ra, cũng được xem là lợi điểm đáng khuyến khích như trình bày trên.  Tuy nhiên có thể có vài trường hợp cạnh tranh có thể đưa đến thiệt hại. Thật vậy, tại mỗi tiểu bang hay những quận hạt hay thành phố lớn đều có một bộ phận phụ trách phát triển kinh tế (Department of Economic Development) mà mục đích chính là chiêu dụ những công ty lớn trong cũng như ngoài nước đến lập nhà máy, hãng xưởng ở địa phương mình, chủ yếu là tạo công ăn việc làm cho cư dân.  Để cạnh tranh với các địa phương khác, CQTB hay CQĐP có thể đưa ra những khuyến khích đầu tư  (incentives) hấp dẫn nhưng lại quá tốn kém, như giảm miễn thuế nhiều năm hay vĩnh viễn, xây dựng hạ tầng cơ sở theo yêu cầu của phía đầu tư.  Nếu không may, các dự án đầu tư này không thành công như dự toán, thì rõ ràng sự cạnh tranh tuy kéo được đối tượng về mình, nhưng lại là một thất bại về phúc lợi cho dân chúng trong nhiều năm sau.

* Không Dễ Qui Trách Nhiệm – Trong các quốc gia theo đơn nhất chế, khi xảy ra những biến cố trọng đại, thì công luận thường nhanh chóng –đôi khi không đúng– qui trách nhiệm cho chính quyền trung ương.  Hoa Kỳ  theo liên bang chế, ba cấp  chính quyền phân định không rõ ràng, nhưng công luận vẫn không khác.  Chẳng hạn, trong vụ đại dịch Covid-19 vẫn còn đang tiếp diễn, thì câu hỏi đầu tiên là chính quyền liên bang (nghĩa là cả Quốc Hội lẫn Tổng Thống)  và chính quyền các tiểu bang ai là phía chịu trách nhiệm trước tiên về sự phòng ngừa, phát hiện cũng như chuẩn bị y cụ, vv.   Theo hầu hết các phương tiện truyền thông và dân chúng,  thì Tổng Thống phải chịu trách nhiệm (có lẽ họ dựa theo Điều II, Khoản 3, theo đó ông đã không đề ra những các biện pháp mà ông cho là cần thiết và thích nghi (recommend … such Measures as he shall judge necessary and expedient).  Trong khi đó HP 1789 cũng đã dành nhiều quyền hành cho CQTB như đã đề cập ở trên, và trên thực tế trong mấy trăm năm naỵ CQTB và CQĐP đã đảm trách y tế công cộng trong địa phương mình.  Điều thú vị là khi Tổng Thống Trump tỏ ý muốn khôi phục kinh tế toàn quốc bằng cách yêu cầu các nhà máy, cơ xưởng mở cửa trở lại, thì nhiều Thống Đốc lại nhanh miệng tuyên bố đó là không thể được vì bịnh dịch còn đang hoành hành! Và quyền quyết định thuộc về CQTB.   Điều nghịch lý là trước đó, không vị nào xác nhận rằng “phòng chống bệnh” là quyền hay trách nhiệm của tiểu bang cả!   Rất tiếc đã không có những vụ kiện xảy ra để qui trách nhiệm về ai  — CQLB, CQTB hay CQĐP– để người dân có dịp nghe phán quyết của các quan tòa.

Liên Bang Chế Và Hành Chánh Công Quyền

Đến đây, qua những quan hệ suôn sẻ cũng như gập ghềnh giữa liên bang và tiểu bang, cũng như lợi và bất lợi của LBC, cùng với sự xét xử của hệ thống Tòa Án Liên Bang, chúng ta có thể nhìn được nước Mỹ gần hơn một chút. Những khái niệm mà chúng ta thường nghe như những lý tưởng cao siêu đã trở thành “cụ thể” hơn một chút.  Trong Hiến Pháp cũng như trong 27 Tu Chính Án, không có thuật ngữ “tam quyền phân lập” (separation of powers), như một nguyên tắc, một triết lý chính trị rõ ràng.  Ngay từ thành lập, “Tư Pháp” đã bị coi nhẹ hơn hai quyền kia qua thời lượng thảo luận cũng như những chi tiết ghi ra, đáng chú ý là các thẩm phán không buộc phải do dân bầu như Tổng Thống hay dân biểu và thượng nghị sĩ, mà lại tại vị trọn đời.  Qua thời gian, LBC được định hình và phát triển, nhờ phần lớn ở khả năng của các thẩm pháp liên bang các cấp.  Chúng ta cũng không thấy thuật ngữ “kiểm soát và quân bình” (check and balance). Họa chăng người ta chỉ thấy vài lần trong The Federalist Papers khi 2 tác giả Hamilton và Madison dùng đến chữ “check” để nói về mối quan hệ giữa Lưỡng Viện Quốc Hội mà thôi, khi thấy Hạ Viện được dành cho quá nhiều quyền ; chứ hai ông không viết là dùng chữ “check” để đề cập đến việc dùng quyền này để kiểm soát quyền kia.  Và khi đề cập đến liên bang chế thì đọc lại nhiều lần, chúng ta cũng chẳng thấy từ  “liên bang chế” (Federalism) mà chúng ta đề cập trên đây xuất hiện trong Hiến Pháp và các Tu Chính Án. Thông thường khi nghe nói đến tranh chấp giữa Liên Bang và Tiểu Bang, chúng ta nghĩ đó là tranh chấp “trên dưới” và  thường liên tưởng đến những quyết định hành chánh công quyền.  Mà thực ra đây là những tranh chấp của 2 phía đều có chủ quyền (sovereignty), lẫn quyền (rights) và thẩm quyền (authority) tuy 2 loại quyền sau này có thể bị tranh cãi. Như vậy đó là tranh chấp thuộc phạm trù chính trị. Thêm yếu tố đảng phái, chủng tộc nữa thì lại càng phức tạp.  Tuy nhiên, một nền hành chánh công quyền thích hợp, hữu hiệu cũng có thể giúp giảm bớt các phức tạp này.

Người Mỹ hình như chỉ xem LBC là công cụ để bảo vệ tự do, hơn là để thực thi công bằng xã hội, một đối tượng mà họ khá dè dặt khi đề cập tới, nhất là phía bảo thủ. Phía cấp tiến tuy muốn tập quyền để thực thi chính sách liên bang, trong đó có công bằng xã hội, nhưng cũng chỉ tới đó mà thôi, chứ không đẩy mạnh để hy vọng tạo nên một cơ chế bền vững.  Những người nghiên cứu hành chánh chắc không quên không khí chống chiến tranh Việt Nam, giấc mơ cải tạo xã hội Great Society, tinh thần hăng say của các học giả hành chánh trẻ đã cho chào đời học thuyết “Tân Hành Chánh Công Quyền” (New Public Administration) chủ trương hành chánh công quyền phải có nhiệm vụ cải tạo xã hội trong đó thực hiện công bằng xã hội phải là mục tiêu hàng đầu. Nhưng chủ trương này hình như lần lần đi vào quên lãng. Do Syracuse University (New York) khởi xướng, lần đầu tiên họ họp ở Minnobrook vào tháng 9/1968, đến nay chỉ có thêm 2 lần họp nữa mà thôi  –vào năm 1988 và 2008, nghĩa là 20 năm những “con ve sầu hành chánh” mới gặp nhau một lần!  Cuộc cải tổ hành chánh kéo dài 6 tháng do Phó Tổng Thống Al Gore chủ trì kết thúc với phúc trình “The Report of The National Performance Review” đệ trình Tổng Thống Bill Clinton ngày 7/9/1993 chủ yếu nhằm vào việc giản dị hóa thủ tục hành chánh và sự du nhập các nguyên tắc quản lý khu vực tư vào khu vực công để giảm bớt chi phí, chứ không đề cập gì đến liên bang chế, có lẽ vì nó thuộc phạm trù chính trị cũng như những phức tạp đã đề cập ở đoạn trên.

Toàn cầu hóa làm giàu thế giới, khiến cho sự cách biệt giàu nghèo giữa các nước giảm đi.  Nhưng trong nội bộ các quốc gia, trong đó có Hoa Kỳ, bất bình đẳng về lợi tức (BBĐLT, income inequality) tăng thêm.  Như trình bày, đảng Dân Chủ luôn luôn có chương trình kế hoạch giảm khoảng cách biệt này, nhưng điều nghịch lý là tại những tiểu bang mà Dân Chủ nắm quyền lập pháp, BBĐLT lại càng ngày càng tăng. Một nghiên cứu của kinh tế gia James Galbraith cho thấy 14 tiểu bang mà mức gia tăng về BBĐLT cao nhất đã bỏ phiếu cho ứng viên Tổng Thống Hillary Clinton trong cuộc bầu cử tháng 11/2016.  Trong khi đó 7 tiểu bang với mức gia tăng BBĐLT thấp đã dồn phiếu cho Donald Trump. Và ông kết luận rằng sự tương ứng giữa mức thay đổi BBĐLT và kết quả bầu cử thật là kỳ lạ (Kettl, 2020, p. 158)

Trong hành chánh công quyền, hình như người Mỹ cũng không quá coi trọng “kinh nghiệm”.  Họ quan niệm kỹ năng lãnh đạo, quản lý có thể chuyển đổi (transferable skills), nghĩa là lãnh đạo thành công một công ty thì sẽ thành công ở một cơ quan công quyền hay một địa phận hành chánh, do đó mà mỗi lần Tòa Bạch Ốc thay đổi chủ nhân là mỗi lần có những vị chỉ huy mới  (political appointees) cho nhiều cơ quan, ngay cả cơ quan rất chuyên môn mà người mới lại thiếu chuyên môn.  Họ có thể, mà cũng là không thể, thành công. Quá khứ đã chứng minh điều đó.  Một người lãnh đạo thành công một đại công ty, không nhất thiết sẽ thành công khi lãnh đạo một cuộc chiến tranh; một người lãnh đạo một hội đua ngựa quyền quý, nhưng lớ ngớ khi phải chỉ huy cứu trợ khẩn cấp nạn nhân bão Katrina.  Có người sau một thời gian đã thành công, thì lại đi, không dùng kinh nghiệm và kỹ năng cho cơ quan cũ, nhường chỗ cho người mới tới … bắt đầu học việc. Sự thiếu vắng những viên chức uy tín làm việc lâu năm và có nhiều kinh nghiệm ở trung ương để liên lạc với địa phương cũng là một thiệt thòi cho thể chế liên bang Hoa Kỳ.

Hình như người Mỹ cũng không coi trọng hành chánh công quyền lắm.  Đến nay, họ vẫn còn luận bàn về vai trò của chính trị và hành chánh, vẫn coi trọng quản lý khu vực tư hơn.  Sau Thế Chiến Thứ Hai, trong khi nước Pháp mở Ecole Nationale d’ Administration (ENA) để đào tạo chuyên sâu cán bộ hành chánh trung ương, và lần lượt nhiều viện hành chánh vùng (instituts regionaux d’administration) đào tạo cán bộ hành chánh địa phưong, trong đó khá uy tín là Ecole nationale d’adminstration municipal ENAM, nay là Institut national d’études territoriales, INET) , trong khi  tại Hoa Kỳ, các trường Đại Học dò dẫm cung cấp chương trình MPA, với những môn học tương đối tổng quát cho sinh viên đã tốt nghiệp mọi ngành đại học. Triết lý giáo dục của Hoa Kỳ là giúp anh những điều tổng quát, để ra đời anh tự trau dồi thêm cho thích nghi với địa phương, với hoàn cảnh, và tình thế.  Nhưng một số không nhỏ, sau khi ra trường một thời gian, “đủ lông đủ cánh” thì bay đi nơi khác hay cơ quan khác! Do đó mà hành chánh công quyền Hoa Kỳ tương đối thiếu người kỳ cựu kinh nghiệm.

Liên Bang Chế Và Yếu Tố Truyền Thống

Các tranh cãi đó phản ánh văn hóa chính trị (political culture) của các địa phương.  Nói cách khác những qui luật của chính trị Mỹ thay đổi khi quan niệm và quan điểm của người công dân thay đổi. Ngày xưa sự thay đổi của người dân chủ yếu nhờ giáo dục học đường, chậm nhưng vững chãi. Ngày nay lực lượng truyền thông quá lớn và ảnh hưởng quá mạnh, các công dân “am tường” (informed citizens) dễ bị cung cấp “thông tin dõm” (fake information) đến một cách ào ạt, mà họ lại không có đủ thời giờ để chọn lọc, đánh giá chúng. Trong một chừng mực nào đó, có thể nói  cư dân các thành thị lớn đông dân dễ bị nhiễu tin hơn cư dân miền quê thưa thớt.  Do đó tìm hiểu văn hoá chính trị Hoa Kỳ thì cũng cần tìm hiểu  thêm về văn hóa chính trị truyền thống và địa phương . Đa số người Việt chúng ta không định cư và sinh sống ở các vùng nông thôn Hoa Kỳ, tuy nhiên nếu có dịp “nhìn lại” qua phim ảnh, sách báo, có thể chúng ta sẽ hiểu biết và “thấm” phần nào cái truyền thống địa phương đó.

 Alexis de Tocqueville, một học giả trẻ người Pháp khi sang Hoa Kỳ 9 tháng (1831-1832) để nghiên cứu chế độ lao tù của nước này, khi về nước đã không tiếc lời ca tụng sinh hoạt của các thành phố Mỹ vùng New England thủa đó.  Trong nhật ký, ông tỏ ra thích thú về các thành phố được đặt tên mang dấu vết lịch sử hay quê hương cũ như Ethena, Troy, Rome, Liverpool, vv. bên cạnh những cánh rừng đầy hoang dã  (sauvagerie).  Trong Chương 5 của quyển Democracy in America (dịch từ nguyên bản tiếng Pháp De la Démocratie en Amérique: Les Grands Thèmes), Tocqueville viết: “Các thị trấn nhỏ là nơi hội họp duy nhất, bắt nguồn một cách tự nhiên là bất cứ ở đâu người ta tụ họp, là nó tự hình thành …  Con người tạo dựng các vương quốc, các nước cộng hòa, nhưng các thị trấn nhỏ dường như nảy sinh ra từ bàn tay của Chúa.” Trải qua hơn hai trăm năm, các thị trấn lớn nhỏ thay đổi nhiều, nhưng cái truyền thống đó vẫn giữ lại tuy ít, nhưng mỗi khi lễ hội, bầu cử, hay khi địa danh được nhắc nhở trong phim ảnh, một người con địa phương thành danh, hay hy sinh vv., cái truyền thống hào hùng đó chợt sống lại và gắn kết điạ phương với nhau, không khác chi làng quê chúng ta trên cả 3 miền Bắc Trung Nam.  Tinh thần truyền thống nhen nhúm này dễ bùng lên khi có nhân tố mới, chẳng hạn chủ nghiã dân túy (populism) trong kỳ bầu cử 2016 đưa đến thắng lợi cho Tổng Thống Donald J. Trump.

Đã có nhiều người phê phán về LBC Hoa Kỳ. Kettl (2020), một tác giả khá nổi tiếng về nền hành chánh Hoa Kỳ, viết: “Liên bang chế có thể là một khám phá cốt lõi nhằm xây dựng và duy trì nền Cộng Hòa Hoa Kỳ. Nhưng nay nó không còn là chất kết chặt quốc gia với nhau, mà chỉ là động lực phân chia quốc gia mà thôi. Kết quả một nước Mỹ chia rẽ.” (trang 205).  Thật ra, LBC Hoa Kỳ tỏ ra không hoàn hảo ngay từ khi xuất hiện, mức độ hữu hiệu có lúc cao, có lúc thấp.  Nhưng nó vẫn tồn tại cho đến ngày nay.  Có người đề nghị rằng muốn nó hữu hiệu thì cần phải tu chính Hiến Pháp 1789.  Nhưng thủ tục tu chính lại không dễ.   Theo Điều V, khi thấy cần thiết, Quốc Hội có thể đề nghị tu chính với 2/3 số phiếu Hạ Viện 2/3 số phiếu Thượng Viện.  Hoặc phải do Quốc Hội của 2/3 tổng số các tiểu bang, tức Quốc Hội của 34 tiểu bang. Ngoài ra, còn có tác giả đề nghị tăng cường quyền hạn của  cả hai bên liên bang lẫn các tiểu bang (Chemerinsky, 2008).  Trong thời đại kỹ thuật số tân tiến này, cũng đã có những tác giả, chẳng hạn do Koliba (2018) đề nghị  tạo lập những mạng lưới  (networks) để quản lý  hành chánh với gần 90.000 chính quyền,  gồm CQLB + CQTB + CQĐP hầu  tiện việc thi hành các chính sách công.   Người viết chỉ xin  ghi ra đây để quý độc giả có cơ hội thâm cứu.

                                                                                    ***

Đến đây, có thể nói chính Liên Bang Chế đã tạo ra nước Mỹ.  Nếu LBC không ra đời, nước Mỹ khó có thể hình thành và hùng mạnh như ngày nay.  Các nguyên tắc tam quyền phân lập được tạo ra ngay từ đầu là để tránh độc tài, bảo vệ dân chủ, cùng bảo vệ luật pháp –mà Hiến Pháp là luật cao nhất,  Khi tuyên thệ nhậm chức, không giống các nhà lãnh đạo các nước khác tuyên bố trung thành với tổ quốc nhân dân,  các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ tuyên bố duy trì, bảo vệ và phòng thủ Hiến Pháp  (preserve, protect and defend the Constitution of the United States).  LBC không hoàn hảo, có những vấn đề cần giải quyết, trong đó có vấn đề bất bình đẳng về cơ hội và lợi tức, cũng như sự ổn định về mối tương quan quyền lực giữa CQLB + CQTB + CQĐP.

Điều hành hiệu quả Liên Bang Chế  do đó quả là không dễ.  Chúng ta thử suy gẫm về một đoạn dưới đây trích từ lá thư số 51 do James Madison viết trong quyển The Federalist Papers:

“Nhưng chính quyền tự nó là gì nếu không là điều tốt đẹp nhất trong những điều phản ánh bản chất con người? Nếu con người là những vị thánh, thì chính quyền sẽ không cần thiết.  Nếu những vị thánh cai trị con người, thì sự kiểm soát chính quyền từ trong nội bộ cũng như từ bên ngoài sẽ không cần thiết. Khi tạo lập chính quyền với con người cai quản con người, điều khó khăn nhất là ở điểm này: bạn phải cho phép chính quyền kiểm soát người bị trị; và kế đó buộc chính quyền kiểm soát lấy mình.”

 Nếu cần hiện đại hoá khái niệm trên, chúng ta có thể nói “chính quyền” ở đây là cả Chính Quyền Liên Bang, Chính Quyền Tiểu Bang và Chính Quyền Địa Phương ; và “người bị trị” là toàn thể công dân được thông báo đầy đủ (informed citizens), không phân biệt màu da, tôn giáo hay đảng phái.  Trong chính trị, không dễ gì thay đổi khẩu hiệu mà đôi khi chúng ta nghe hò reo thích thú “They get low, we get high”, thậm chí quá đà say máu “They get low, we kill them.”

Để kết luận, chúng ta có thể nhắc lại ý kiến của Huntington (2004) đã trích dẫn dưới tựa đề của bài viết này với ước vọng rằng kết quả cuộc thăm dò năm 1983 của 15 nước Tây Phương mà ông viện dẫn ngày nay không thay đổi nhiều.   Và người Mỹ sẽ tìm được những giải pháp thỏa đáng cho những vấn đề mới mà Liên Bang Chế Hoa Kỳ đưa ra.

Lê Văn Bỉnh

Virginia, tháng 9 năm 2020

(Trong mùa đại dịch Covid-19)

 ___________

*Chú Thích

Hiến Pháp Hoa Kỳ không đề cập đến chính quyền địa phương của các tiểu bang.  Tổ chức CQĐP/ TB  lại khá phức tạp,  không những khác nhau về tên gọi, diện tích, dân số, cơ cấu quản lý, vv. , mà tiếng Việt khó có từ ngữ để dịch cho đúng, hay có tổ chức tương đương để so sánh.  Nói chung, trong các sách bàn về “State and Local Government”, các tác giả Mỹ chia CQĐP/TB ra làm 2 loại: (1) những CQĐP với mục tiêu tổng quát (general-purpose local governments), thực hiện nhiều chức năng, như county, city vv. ; và (2) những CQĐP với mục tiêu đơn nhất (single-purpose local governments) chỉ thực hiện một chức năng, như school district chỉ lo về trường học. Tổng cộng gồm gần 90.000 chính quyền địa phương. Mỗi năm US Census Bureau đều có thống kê. Có thay đổi về các con số, nhưng không nhiều. Đề nghị độc giả truy cập website http://www. Census. gov/govs/cog nếu muốn biết thêm chi tiết.

Cũng cần lưu ý: Nhiều CQTB lắm lúc than phiền bị CQLB áp lực nặng nề, thì nhiều CQĐP cũng bất mãn không kém khi bị CQTB bức bách, đưa đến kiện tụng tại các Tòa Án, vì hầu hết các CQĐP không phải trực thuộc hành chánh theo cách chúng ta đã quen khi còn ở VN trước 1975.

  • Các CQĐP Với Mục Tiêu Tổng Quát – Người Mỹ xem đây là những bộ phận chính trị (political arms) hơn là những đơn vị hành chánh, vì chúng có đủ Lập Pháp, Hành Pháp và Tư Pháp mà tên gọi và quyền hạn khác nhau từ TB này sang TB khác.   Dưới đây là một số tổ chức:

Quận (County) – Người Việt ở Hoa Kỳ thường dùng chữ Quận để gọi cho tiện một county Hoa Kỳ, một bộ phận của hầu hết các TB.  Nước Mỹ có trên 3000 đơn vị như thế này. Thật ra, Quận của VNCH trước 1975 có thể lớn hay nhỏ hơn một county Mỹ, nhưng hoàn toàn khác với county về phương diện quản lý.  Quận Việt Nam là trung gian giữa Tỉnh và Xã, mà hai đơn vị này đều có tư cách pháp nhân, Hội Đồng (Tỉnh, Xã) do dân bầu, và có ngân sách riêng. Còn quận thì không có tư cách pháp nhân, cũng không có ngân sách. County là một địa phận hầu hết tương đối thôn quê. Tiểu bang Hawai chỉ có 3 counties, California có 57, Virginia có 96, Texas lại có đến 254.  Tại Virgina, mỗi county (cũng như city, sẽ đề cập) phải có những chức vụ sau đây do dân bầu lên, có nhiệm kỳ 4 năm. Đó là:  Treasurer, Sheriff, Attorney of the Commonwealth, Commission of Revenue, Clerk of Court (nhiệm kỳ 8 năm).  Bộ phận lãnh đạo county, gọi là Board of Supervisors (hay Board of Commissioners, County Board tại nhiều tiểu bang khác) mà mỗi supervisor của mỗi khu vực cũng do dân bầu, phụ trách thuê mướn nhân sự hành chánh và chuyên môn cung cấp dịch vụ. Ngân sách của County do thuế (sales taxes, property taxes), lệ phí (cung cấp nước, thu nhặt rác), tiền cho thuê tài sản, tiền phạt giao thông, tòa án và các trợ giúp của tiểu bang và liên bang. Đơn vị hành chánh căn bản của nhiều tiểu bang là county. Louisiana gọi nó là parish; Alaska gọi là borough.  Toàn quốc có trên 3000 counties và tương đương.

Thành Phố (City) Có tác giả dùng municipality đồng nghĩa với city.  Nhưng đa số , trong đó có US  Census Bureau, dùng municipality để chỉ city và town. Thành phố được thành lập (incorporated) theo luật tiểu bang, và hoạt động theo một bản điều lệ (charter) do lập pháp tiểu bang phê chuẩn, hay theo luật TB (như tại California).  Tại Virginia, thành phố được thành lập theo một đạo luật của lập pháp Virginia; hay theo thủ tục tư pháp tại một tòa sơ thẩm (circuit court) ở county nơi thành phố này toạ lạc. Phải hội đủ những điều kiện chính đáng, trong đó có các điều kiện về dân số, mật độ, lý do (tạo thêm lợi ích cho đơn vị mới cũng như cho các đơn vị hành chánh lân cận).  Thành phố thường đông dân hơn thị trấn.  Sau khi thành lập, các thành phố và thị trấn trở nên tự trị, không được trông cậy vào đơn vị cũ để cung cấp dịch vụ nữa; thuế thường cao hơn. Có những thành phố sau khi thành lập càng ngày càng phát triển; đôi khi trở nên xung đột với tiểu bang đưa tới kiện cáo.  Nhưng cũng có những thành phố sau 5-7 năm thì “phá sản” và phải quay về với county cũ.  Các thành phố có thể được điều hành theo một trong những hình thức sau đây: (1) Thị-Trưởng Hội Đồng (Mayor- Council): Dân bầu lên Hội Đồng, Thị Trưởng và một số viên chức khác, như ủy viên thuế vụ, thủ quỹ à Thị Trưởng tuyển chọn các viên chức phụ trách công chánh, tài chánh, an toàn, phát triển cộng đồng, công viên vv. (2) Hội Đồng- Quản Lý Viên (Council- Manager): Dân bầu Hội Đồng à  Hội Đồng bổ QLV (có thể là 1 thành viên của HĐ) à QLV bổ chuyên viên. (3)  Ban Ủy Viên Thành Phố (City Commission): Dân bầu ra một số ủy viên, mỗi vị phụ trách phần vụ chuyên môn à một vị sẽ được đề cử đảm trách việc họp hành để phối hợp công tác.   Hình thức (1) taọ một chính quyền mạnh, thường áp dụng cho các thành phố lớn, đông dân, giàu có. Hình thức (2) khá hữu hiệu. Có vài thành phố mà Hội Đồng Thành Phố (City Council)  quản lý rất khéo bằng cách mướn City Manager giỏi;  thuê các counties lân cận cung cấp dịch vụ (xã hội, pháp lý ) cho cư dân mình, không phải tốn kém nhiều cho nhân sự, hành chánh.

Thị Trấn Lớn – Thị Trấn Nhỏ (town và township), thường ít dân hơn county và city. Khi dân số tang  nhiều, town có thể xin trở thành city; và khi dân số giảm, chúng dễ mất tư cách này và nhập vào county, như trường hợp của các city.  Hiện nay chỉ tồn tại ở 20 TB, chủ yếu Vùng Northeast và Midwest. Hằng năm, toàn thể dân chúng trong town họp khoáng đại hội nghị; đưa ra phương hướng hoạt động, bầu ra các viên chức, thông qua các qui định, biểu quyết ngân sách, ấn định thuế suất vv. Township, ít dân hơn town, và thôn dã hơn, thường được quản lý bởi những viên chức bán thời gian, hay tự nguyện. Theo thống kê 2007, Hoa Kỳ có 16.519 towns và townships, chỉ giảm 110 so với mười năm trước đó. (Bownan & Kearney, 2012, p. 266).

  • Các CQĐP Với Mục Tiêu Đơn Nhất

Còn được gọi là những khu đặc biệt (special districts).  Đây là những đơn vị chính quyền độc lập, được thành lập nhằm một mục tiêu hạn chế và đặc biệt.  Mỗi năm đều có những khu đặc biệt mới ra đời, và những khu đặc biệt hiện hữu biến đi. Nói chung, các CQĐP loại này được thành lập vì lý do kỹ thuật/tài chánh (chẳng hạn dự án dẫn nước sạch hay dự án cống rãnh buộc phải qua ranh giới của một hay nhiều counties hay thành phố khác), hay vì lý do chính trị (phòng chống lũ lụt, bảo vệ môi sinh). Nhưng loại CQĐP phổ biến nhất trên toàn quốc có lẽ là các học khu (school district).  Số học khu mỗi tiểu bang lại khác nhau, tùy theo truyền thống hơn là tùy theo số học sinh.  Thí dụ California có tới 1.025, Texas đến 1.079.  Có vài TB, học khu còn bao gồm các trường đại học cộng đồng (community college).  Toàn quốc có khoảng 14.000 học khu độc lập.  Đối với các trường công, học khu chịu hoàn toàn trách nhiệm trong 32 tiểu bang; hầu hết trách nhiệm trong 8 TB; một phần trách nhiệm trong 5 TB.  Riêng 5 TB còn lại gồm Alaska, Hawaii, Maryland, North Carolina và Virginia, không có học khu độc lập, hay nói khác đi toàn TB chỉ xem như chỉ có một học khu.   Học khu được điều hành bởi  một hội đồng (board), thường gồm 3 người trở lên, được dân bầu trực tiếp, không mang tính đảng phái; có nhiệm vụ quản lý ngân sách học khu, thuê trưởng học khu (school superintendent) mà ở nhiều nơi lương lại cao hơn cả lương thống đốc tiểu bang.

 

Tài Liệu Tham Khảo

 

Blakeman J. & Banks C. (2018).  The US Supreme Court, New Federalism, and Public Policy. In Controversies in American Federalism and Public Policy. Ed. Christopher P. Banks. New York, NY: Routledge.

Chemerinsky, Erwin (2008). Enhancing Government: Federalism for the 21st Century. Stanford, CA: Stanford University Press.

Drake, F. & Nelson, L. (1999). States’ Rights and American Federalism: A Documentary Historỵ.  Westport, CT: Greenwood Press                  

Elazar, D., Carroll R., Levine E. & Angelo, D. (Ed.). (1989).  Cooperation and Conflict: Readings in American Federalism. (11th ed.).  Itaska, IL: F. E. Peacock Publisher.

Gelm, Richard (2008).  How American Politics Works: Philosophy, Pragmatism, Personality and Profits. Newcastle, UK:  Cambridge Scholars Publishing.

Huntington, Samuel (2004). Who Are We? The Challenges to America‘s  National Identity. New York, NY:  Simon & Schuster.

Kettl, Donald (2020). The Divided States of America: Why Federalism Doesn’t Work. Princeton, NY: Princeton            University Press.

Koliba, C., Meek, J., Zia, A. & Mills, R. (2018).  Governance Networks in Public Administration and Public Policy.             (2nd ed.).   New York, NY: Routledge.

Lê Văn Bỉnh.  Câu Chuyện Nợ Nần Nước Mỹ.  Hành Chánh Miền Đông số 17 (2012).  Có thể còn được giữ lại trên một vài Website với tựa đề “Câu Chuyên Nợ Nần Của Chính Phủ Hoa Kỳ”.  Tác giả có thể gửi bản thảo nếu độc giả yêu cầu.  Địa chỉ: levanbinh4303@yahoo.com

May, C & Ides, A. (2013) Constitutional Law: National Power and Federalism. (6th ed.) New York, NY: Wolters Kluwer Law & Business.

Plano, J. & Greenberg, M. (2002). The American Political Dictionary. Belmont, CA: Wadsworth.

Peaslee, L. & Swartz, N. (2014). Virginia Government: Institutions and Policy. Thousand Oaks, CA: Sage.

Posner, P & Conlan, T. (2016). European-Style Federalism’s Lessons for America.  In State and Local Government: 2015-2016 Edition. Ed. Kevin B. Smith. Thousand Oaks, CA: Sage.

Rozell, M. & Wilcox, C. (2019) Federalism: A Very Short Introduction. New York, NY: Oxford University Press.

Smith, K. & Greenblatt A, (2018). Governing States and Locations. (6th ed). Thousand Oaks, CA: CQ Press.

Đại Họa Kinh Tế Do Đại Dịch Coronavirus

Nguyễn Bá Lộc

Đại dịch coronavirus là một tai họa lớn cho nhân loại. Nạn dịch nầy xẩy ra từ tháng 12-2019 tại Vũ Hán, Trung quốc. Trong khoảng hai tháng sau, nó lan mạnh ra tới nhiều quốc gia. Cho tới ngày 12 tháng tư -2020 trên thế giới đã có 184 nước chịu tai nạn khủng khiếp nầy với gần 2 triệu người bị nhiễm bịnh và hơn 120,000 người chết. Tai họa nầy còn tiếp diễn và là mối lo sợ to lớn của nhiều nước, vì nó tiến quá nhanh mà lại chưa có thuốc trị. Hầu hết người dân phải cách ly phải xa nơi đông người, nên tạo ra bế tắc và sụp đổ lớn về kinh tế, tai hại hơn cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu hồi năm 2008.
Không kể đại dịch nầy tiêu diệt nhiều sinh mạng, nó còn làm thiệt hại kinh tế toàn cầu toàn diện và khó phục hồi. Mỗi quốc gia có mức độ thiệt hại kinh tế khác nhau. Chiến trận với coronavirus mới có hơn ba tháng, và chưa chấm dứt. Điều rõ ràng là trận chiến càng kéo dài thì kinh tế bị thiệt hại càng lớn và sự phục hồi càng khó khăn.
Nhiều quốc gia đã bị đặt trong tình trạng khẩn cấp và lo sợ. Ngoài việc chống đỡ trên mặt trận y tế, còn phải lo liệu trên mặt kinh tế và đời sống của dân. Về kinh tế, các chánh quyền đã có một số biện pháp cứu nguy.
Trên bình diện quốc tế, có sự xáo trộn mậu dịch và đầu tư. Và một số vấn đề đặt ra và tương lai có một số điều chỉnh
Dưới đây, tôi xin tóm lược cách sơ khởi trong giai đoạn đầu của cuộc khủng hoảng kinh tế to lớn và nhanh chóng nầy trên cả thế giới, và một số quốc gia quan trọng như Hoa kỳ, Trung quốc và Việt nam.

1. Thiệt hại kinh tế thế giới do đại dịch

Kinh tế thế giới bị sụp đổ gần toàn diện. Dưới đây là các điểm chánh:

a/ Thiệt hại sơ khởi kinh tế thế giới .

Nền kinh tế toàn cầu có mối liên hệ chặc chẽ với nhau trên nhiều mặt nhiều lãnh vực. Cho nên sự thiệt hại lớn của những quốc gia mạnh về mậu dịch và đầu tư ngoại quốc thì ảnh hưởng. Đàng nầy đại dịch xẩy ra hơn phân nữa thế giới. Do đó lần nầy kinh tế thế giới bị ảnh hưởng nặng và trên mọi mặt, từ sản xuất, đến tiêu thụ, vận chuyển, và tài chánh.
Theo Chủ tịch Ngân Hàng Thế Giới (World Bank, WB) David Malpass : “Ngoài tai họa về sức khỏe và sinh mạng con người, chúng ta đang phải đón nhận cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu”.
Theo cơ quan OECD và của một số trung tâm nghiên cứu thì năm 2020, tỷ suất phát triển kinh tế thế giới chỉ còn độ 1.5%, tỷ suất nầy là 2.9% năm 2019. Theo World Economic Forum thì kinh tế thế giới có thể bị mất $2.3 ngàn tỷ.
Theo Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế (IMF) khủng khoảng kỳ nầy nặng hơn các lần khủng hoảng tài chánh trước kia (2008-2009).
Các ngành quan trọng bị ảnh hưởng nặng như:
Tài chánh, chứng khoán xuống thê thảm (cả ngàn điểm) và không ổn định của các thị trường Trung quốc, Hoa kỳ, Anh và Nhựt.
Xuất nhập cảng cũng giảm mạnh, nhứt là ngành không cần thiết lắm và hệ thống tiếp liệu dây chuyền (supply chain).
Chuyển vận, và du lịch. Hàng không bị nặng nhứt. Riêng hàng không và cruises thiệt hai 30 tỷ, (theo ước lượng của ABC News). Hàng không thế giới có thể mất $113 tỷ trong năm 2020
Giá dầu sụt 18% ngay trong tháng đầu có đại dịch (Theo Trung tâm nghiên cứu BESA). Các quốc gia sản xuất dầu lửa (OPEC) cắt giảm 25%.
Ngành ngân hàng và các định chế tài chánh khác.
Tai họa ác nghiệt hơn cho các nước nghèo về mặt kinh tế lẫn xã hội.

b/ Biện pháp trợ giúp cấp thời của quốc tế và của các chánh quyền

Ngân khoản trợ cấp sơ khởi của các cơ quan quốc tế:
Ngân Hàng Thế Giới (WB): Gói trợ cấp $160 tỷ cho các quốc gia trong 15 tháng tới. Gồm 14 tỷ cứu trợ khẩn cấp nhứt là cho dụng cụ và thiết bị y tế. $2 tỷ cho xây cất ngay cơ sở y tế khẩn cấp. $2 tỷ cho mậu dịch, trong đó có chuỗi cung ứng “supply chain”. $2 tỷ cho vốn hoạt động của tiểu thương. Và $2 tỷ cho vận chuyển tiếp tế.
Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế (International Monetary Fund, IMF) bỏ ra $50 tỷ cho cứu cấp những quốc gia bị nặng nhứt và yếu kém.
Ngoài ra WB và IMF cho các nước nghèo hoãn trả nợ ít nhứt một năm.
Các quốc gia có đại dịch đều có đưa ra trợ cấp nhứt thời chống đỡ tăng cường hệ thống y tế và phục hồi kinh tế, nhiều hay ít tùy sức lực kinh tế và sự tàn phá lớn hay nhỏ.
Ví dụ một số nước:
Hầu hết các quốc gia cũng bỏ ra số tiền lớn để giải quyết đại dịch và phục hồi kinh tế. Hoa kỳ (US) đã có một package lớn là $2.2 ngàn tỷ và sẽ còn nữa. Trung quốc (TQ) khoảng 600 tỷ qua Ngân hàng trung ương đưa xuống các ngành thương mại và kỹ nghệ giúp cho các hoạt động sản xuất thương mại. Đức bỏ ra khoảng 600 tỷ gói hỗ trợ. Pháp cũng có kế hoạch cứu kinh tế với khoảng 500 tỷ, Canada bỏ ra 52 tỷ. Nhựt ngoài gói trợ cấp còn bỏ ra 2 tỷ mỹ kim giúp cho các công ty nào ở TQ trở về Nhựt. VN cũng có chương trình cứu nguy nhưng tới giờ còn quá nhỏ.

2. Một số vấn đề kinh tế thế giới qua đại dịch cần điều chỉnh

Qua đại nạn một số vấn đề quốc tế nổi lên, từ tổ chức quốc tế đến mậu dịch có trục trặc và có thể phải điều chỉnh. Qua đại dịch kỳ nầy, nền kinh tế thế giới có khá nhiều vấn nạn. Ở đây xin nêu ra hai vấn đề: (1) Sách lược Toàn cầu hóa, và (2) sự lũng đoạn thị trường thế giới của TQ.

a/ Về Toàn cầu hóa (TCH, Globalization) và mậu dịch tự do.

Nhìn chung, Toàn cầu hóa có kết quả tốt. Nhờ nó kinh tế thế giới ổn định hơn. Các nước nghèo được khá hơn. Sự hợp tác giữa các quốc gia tốt hơn, chẳng những về mặt kinh tế mà cả về mặt xã hội và nhân quyền. Các công ty đa quốc ào ạt tìm nơi đầu tư có nhiều thuận lợi hơn. Cũng từ khi TQ tham gia mạnh mẽ vào thị trường thế giới từ khoảng năm 2000 và rồi dần trở thành nước đứng đầu về chế tạo và xuất cảng toàn cầu thì mô hình và hoạt động TCH bị lệch lạc và bị TQ lợi dụng cho âm mưu bá quyền của cái gọi là “Giấc mộng Trung hoa”. Các nước tư bản vốn chủ trương mậu dịch tự do chịu nhiều thiệt hại.
TQ lợi dụng nhiều thứ trong sách lược TCH. Chẳng hạn lợi dụng “qui chế nước đang phát triển” (status of developing country) của WTO để được tự bảo vệ kỹ nghệ, để trợ giá, phá giá, để lủng đoạn tiền tệ. TQ dùng tiền mua chuộc lãnh tụ một số quốc gia nghèo và tham nhũng để tạo thế mạnh trên toàn cầu.
Trong giai đoạn đại dịch vừa qua có những trục trặc lớn về mậu dịch toàn cầu, đặc biệt là hệ thống chuỗi cung ứng toàn cầu “global supplies chain” mà TQ nắm đầu mối và thực hiện sự lũng đoạn kinh tế thế giới.
Một nhà nghiên cứu kinh tế quốc tế có nêu ra một số ý kiến nay cần phải xem lại nguyên tắc và mô hình TCH. Có một số suy nghĩ của một số nhà nghiên cứu:
Mậu dịch tự do hoàn toàn hay có hạn chế và điều nầy gần như một dạng “Bảo hộ mậu dịch”(Protectionism). Nói khác đi để đối phó trò ma giáo của TQ, các nước cần xem lại sự an toàn và an ninh kinh tế quốc gia. Cần có sự nhập cảng chọn lọc và có tính chiến lược hơn, trong khi đó vẫn giữ nguyên tắc mậu dịch tự do.
Thứ hai là sự hợp tác và đầu tư ồ ạt của một số ngành kỹ nghệ mang đến TQ chẳng những làm giàu cho một nước gian ác muốn thống lãnh toàn cầu, mà còn làm kinh tế nước nhà có nhiều khó khăn không dễ giải quyết như hàng chục năm qua, nhứt là khi có đại nạn. Ý niệm nầy có thể đi tới một loại “Chủ nghĩa quốc gia”( Nationalism) dưới một dạng nào đó hay một mức độ nào đó, và điều nầy đi ngược lại chủ trương nền kinh tế tự do trong hơn nửa thế kỹ nay.
Các ý kiến trên còn đang tranh cãi.

b/ Trung quốc và chuỗi cung ứng toàn cầu về y cụ và dược liệu

Dụng cụ y khoa và dược phẩm (Health care and Medical products) là phần quan trọng nhứt trong việc chống đỡ đại dịch. Trong ba tháng qua, hầu hết các nước bị virus corona nhiều ở trong tình trạng thiếu hụt các sản phẩm trên. Thứ hai là các hàng hóa trên bị TQ lũng đoạn để vừa tạo lợi ích kinh tế vừa về mặt chánh trị quốc tế.
Đây là phần quan trọng nguy hiểm của “Global supplies chain” do TQ nắm đa số và đang sử dụng như một công cụ chánh trị. Theo World market tháng 3/2020 :
Tỷ phần Global supplies chain của TQ tăng rất nhanh từ 4% (2002) lên 20% (2019).
Trong bài nầy tôi chỉ nêu ra hàng hóa liên hệ y tế, vì có rất nhiều hàng hóa khác như đồ parts xe hơi, điện tử, kim loại cũng dưới đầu mối TQ nắm. Hoa kỳ và Tây Âu đang kẹt nhiều nhứt.
Hoa kỳ lệ thuộc sản phẩm y tế của TQ, nhập từ TQ năm 2019 như sau (Theo tài liệu của Congrestional Research Service, CRS, April/6/2020) :
Dược liệu (Pharmaceutical products): $1,560,469,274 – 80% nhu cầu.
Thuốc trụ sinh (Antibiotics): $307,137,836 – 90% nhu cầu
Dụng cụ y tế (Medical instruments, Appliances, and parts): $1,700,501,270
Y cụ chữa bịnh (Mechano-Therapy and Respiration Apparatus): $1,386,955,875
Và còn nhiều thứ nữa cho chăm sóc sức khỏe.
Tổng cộng trong năm 2019, Hoa kỳ nhập các loại Medical supplies từ TQ là :
$224,573,271,721 (nguồn: CRS)
Trong quá khứ sự lệ thuộc sản phẩm y tế quá lớn như trên, nay bị đại dịch, các công ty sản xuất từ trước tại Hoa kỳ không nhiều lại có một số công ty chuyển qua TQ. Nên Hoa kỳ Tây Âu nay bị lúng túng nhiều.
Cho tới nay có một số dấu hiệu cho thấy TQ đã có kế hoạch đầu cơ Medical supplies nhân vụ đại dịch. Một số điều ghi nhận :
Tháng 2/2020, chánh quyền TQ đưa sản phẩm y tế trước kia thuộc bộ Information Industry and Technology quản lý sang qua cơ quan kiểm soát sản phẩm chiến lược kiểm soát chặc chẽ từ sản xuất tới xuất cảng. TQ còn đặt sản phẩm y tế nằm trong danh sách hàng hóa quan trọng mà TQ phải thực hiện trong kế hoạch “Made in China 2025”. Điều nầy TQ đúng vì trên giới hầu hết các nước đã kỹ nghệ hóa không hoặc sản xuất rất ít hàng nầy. Và thực tế, TQ nắm ưu thế.
Cũng trong tháng 2, TQ ra lịnh cấm các công ty kể cả công ty ngoại quốc, xuất cảng sản phẩm y tế các loại, lấy lý do để dùng trong nước. Nhiều yêu cầu nhập cảng từ bên ngoài bị hủy bỏ. Trong lúc nhu cầu về sản phẩm y tế tăng lên mạnh tại nhiều nước.
Trong các công ty bị cấm xuất cảng có công ty 3M, một công ty rất lớn của Mỹ ở TQ, không thể đưa hàng về Hoa kỳ khi Hoa kỳ đang thiếu hụt nhiều. Điều nầy sai luật của WTO, theo luật nầy thì một quốc gia thành viên chỉ “không xuất cảng vì an ninh quốc gia”. Sau đó, một quyết định của G20 đưa ra ngày 30/3/2020 yêu cầu các nước phải mở cho xuất cảng sản phẩm y tế.
Đồng thời Chánh quyền TQ ra lịnh sản xuất thật nhiều dụng cụ y tế phòng chống coronavirus.
Và trong khoảng thời gian nầy TQ đi nhập cảng rất nhiều sản phẩm y tế từ nhiều nước. Hàng trong nước với hàng nhập được tồn trữ thật nhiều. TQ nhập 1.2 tỷ mask, máy trợ tim, áo quần bảo hộ y tế từ cuối tháng giêng đến cuối tháng hai (Theo Reddit).
Sau đó qua giai đoạn thế giới bị đại dịch tràn lan, TQ tung hàng ra trên nhiều nước. Một phần nhỏ là tặng cứu trợ, phần lớn bán với giá rất cao.
Trong tháng ba, khi có nhiều nước bị đại dịch nặng: Ý, Tây Ban Nha, Pháp , Hoa kỳ thì TQ tung loại hàng nầy tới. Truyền thông TQ rêu rao TQ là nước duy nhứt làm từ thiện lớn. TQ tự coi như ân nhân của nhân loại. Hàng y tế TQ rất nhiều nhưng giá cao và thứ dõm. Hoặc gạ trao đổi có điều kiện như khi thương thảo với Pháp yêu cầu Pháp cho công ty Huawei thiết lập ở Pháp thì sẽ có đầy đủ. Mặt khác, TQ xuất cảng lẫn hàng giả không đạt tiêu chuẩn, như khẩu trang , máy trợ tim giả giao cho Hòa Lan và Tây Ban Nha, và Tiệp Khắc và bị các nước nầy tố cáo.
TQ ép FDA của Mỹ giảm tiêu chuẩn sản phẩm y tế sản xuất ở TQ để đưa vào Mỹ.
Do tình trạng trên, một số quốc gia có phản ứng. Hoa Kỳ ra lịnh một số công ty trong nước sản xuất sản phẩm y tế nhanh cho nhu cầu, qua xử dụng quyền trong thời chiến (luật Defense Production Act). Pháp, Anh cũng có quyết định phát triển công ty nội địa sản xuất trong nước.
Tuy nhiên còn rất nhiều nước không tự túc được sản phẩm y tế, phải nhập của TQ. Cho tới cuối tháng ba, có 58 nước đã ký hợp đồng và 71 nước đang sửa soạn ký để mua sản phẩm y tế TQ cho đại dịch.
Trên đây là một kinh nghiệm đau thương về “Global supplies chain” mà Tàu nắm gần hết. Khi trong nước có nhu cầu, sản xuất nội địa gần như bị bế tắt, và nhập thì bị TQ làm khó khăn hay bị đặt điều kiện. Vấn đề nầy cần phải được điều chỉnh lại.

3. Thiệt hại kinh tế Hoa kỳ do đại dịch

Với nền kinh tế hàng đầu thế giới và số người bị bịnh đứng đầu thế giới. Cho tới ngày 12 tháng tư Hoa kỳ có hơn 560,000 người mắc bệnh và có hơn 4200 người chết. Các biện pháp ngăn ngừa toàn nước cùng sự sợ hãi của người dân làm nền kinh tế phải bị bể nát nhiều lãnh vực từ sản xuất, chuyển vận, dịch vụ đến tiêu thụ. Nền kinh tế Hoa Kỳ bị suy sụp nặng thì kinh tế thế giới bị ảnh hưởng theo.

a/ Kinh tế trong nước.

Chỉ có hơn một tháng bị đại họa, kinh tế trong nước bị suy sụp quá nặng nề
Sản xuất bị giảm mạnh. Hầu hết các cơ sở sản xuất bị giảm hay bị ngừng, nhứt là lãnh vực tiểu doanh nghiệp.
Thất nghiệp tăng từ 3.3 triệu lên 6.6 triệu trong vòng 2 tuần tháng ba, và đến giữa tháng tư con số nầy lên tới trên 16 triệu.
Hàng quán và mọi dịch vụ, trung tâm giải trí, thể thao.. đóng cửa vì người dân không ra ngoài.
Cho tới ngày 9 tháng 4, có tới 96% hành khách máy bay bị mất.
Thị trường chứng khoán bị giao động mạnh nhứt kể từ 2008. Mấy ngày nay tăng lại phần nào do có gói trợ cấp kinh tế.

b/ Kinh tế đối ngoại .

Ngoại thương cũng bị suy thoái theo vì nhu cầu hàng hóa thông thường bị giảm nhu cầu, vì công nhân ngại đi làm, vì chuỗi cung ứng nguyên liệu của TQ bị sụt giảm.
Tai họa từ “chuỗi cung ứng“ quốc tế mà Hoa Kỳ kỳ nầy thấy rõ ràng nhứt. Hoa Kỳ và nhiều nước thấy được sự tai hại của sự lệ thuộc kinh tế bá đạo kiểu TQ. (Chi tiết nầy tôi trình bày ở phần 2).
Sự thỏa thuận phần 1 của chiến tranh mậu dịch Hoa kỳ -TQ ký hồi 15 tháng giệng và có hiệu lực 15 tháng hai/2020 bị ảnh hưởng phần nào của đại dịch. Chiến tranh mậu dịch các giai đoạn tới của hai nước sẽ thảo luận sau đại dịch.
Mặc dù hàng hóa sản xuất tại Hoa kỳ phần lớn tiêu thụ trong nước. Nhưng sự đình trệ các công ty máy bay , xe hơi, hàng điện tử kỹ thuật cao, máy móc xuất cảng của Hoa kỳ có ảnh hưởng kinh tế Hoa kỳ và mậu dịch thế giới.

c/ Sự can thiệp của chánh quyền

Chánh quyền Hoa kỳ đang chiến đấu trên hai mặt trận: Thứ nhứt là chống coronavirus, thứ hai là phục hồi kinh tế.
Về phương diện kinh tế, chánh phủ đang thi hành luật CARE với ngân khoản rất lớn là $2,2 00 tỷ. Số tiền trợ giúp trên mọi mặt. Trước hết là ngành y tế, kế là giúp người tiêu thụ, tiền cho không và tiền thất nghiệp, thứ ba là Doanh nghiệp nhỏ, và phần rất lớn trợ cấp cho một số ngành đặc biệt bị tổn thất nặng, như hàng không chẳng hạn.
Chánh quyền Mỹ muốn kinh tế phục hồi sớm. Tổng Thống định mở lại kinh tế từ ngày tháng 5 nầy. Nhưng đang có những ý kiến trái ngược nhau. Vì không dễ dàng khi đại dịch chưa giảm mạnh. Lo sợ của quần chúng còn cao. Nhưng nếu trì trệ kinh tế càng lâu thì thiệt hại càng lớn.
Trong dài hạn, chắc Hoa kỳ phải có một số điều chỉ với TQ trong thương mại và đầu tư. Mà Thỏa ước vừa ký chỉ có một phần của bước đầu của hai cường quốc kinh tế. Trong đó có sự điều chỉnh “chuổi cung ứng toàn cầu” tôi trình bày ở phần trên; cũng như vấn đề an ninh kinh tế với TQ phải xem trọng trong an ninh quốc gia.

4. Kinh tế Trung Quốc do hậu quả đại dịch

TQ là nước xuất phát đại dịch từ tháng 12/2019. Về số người bị bịnh và người chết không cao bằng Hoa kỳ, mà nhiều người nghi là TQ dấu bớt rất nhiều chỉ có hơn 3000 người chết và 81,000 người bi bịnh. Nhưng thực tế kinh tế TQ bị thiệt hại rất nặng nề, trong nước cũng như giao thương quốc tế. TQ đang mở lại hoạt động kinh tế và muốn chứng tỏ với thế giới là kinh tế sớm bình phục. Xuất nhập cảng và đầu tư ngoại quốc là phần chánh yếu, TQ muốn các nước vẫn tiếp tục giao dịch bình thường. Theo một số nhà nghiên cứu thì hiện nay và về lâu dài kinh tế TQ có sứt mẽ to lớn trong nội địa cũng như trong kinh tế đối ngoại. Trong phản ứng của một số dân chúng, sự bất đồng ý kiến trong nội bộ đảng CSTQ, cũng như những chỉ trích bất lợi của nhiều nước với TQ trong sự xuất phát coronavirus, sự hợp tác kinh tế và chánh trị một cách gian dối trên nhiều mặt trong đại nạn nầy.

a/ Kinh tế trong nước

Tổng quát: Tỷ suất phát triển dự tính trước đại dịch 5.5%, sau đại nạn nầy sụt xuống còn 2.9- 3% /2020 (Theo ngân hàng Goldman Sachs). Như vậy kinh tế TQ có thể bị giảm gần 50% so với 2019. Theo Ngân hàng thế giới ước tính thì năm nay TQ chỉ đạt 2.3%.
Về sản xuất: Gồm các hảng xưởng đóng cửa . Ngành chế biến sản xuất giảm 20% trong tháng 2/2020. Đầu tư nội địa giảm 30.2% (theo World Market ngầy 27/3/20)
Chỉ trong nửa tháng ba, đã có tới 10 triệu người thất nghiệp mới.Con số nầy chắc phải cao lắm.
Tiêu thụ giảm 20.5% (Theo World market)
Cuối tháng rồi chánh quyền ra lịnh giải tỏa, cho nhà máy và cơ sở thương mại mở cửa lại. Nhưng có 1/3 hảng xưởng cho rằng họ gặp khó khăn là nguyên liệu thiếu và thị trường bị thu hẹp. Các tiệm bán lẻ giảm 20% trong hai tháng giêng và tháng hai.
Ngành xe hơi số bán ra trong tháng hai/2020 giảm 80% so với năm rồi. (Theo OECD)
Ngành nhà đất bị dao động mạnh.
Tiêu thụ: TQ thiếu hụt lương thực phải nhập.
TQ có nợ công rất lớn (300% GDP) nay phải tung ra món tiền rất lớn để cứu kinh tế thì lạm phát sẽ tăng cao.
Mặt khác thị trường chứng khoáng giảm sụt mạnh .
Các hảng hàng không bị giảm khách tới 90%. (Theo National Interest)

b/ Kinh tế đối ngoại

Kinh tế TQ mạnh chính yếu nhờ xuất cảng. Hai năm trước kinh tế TQ đã bị suy yếu rồi. Nay bị hậu quả đại dịch, tình trạng càng xấu thêm.
Về xuất cảng trong hai tháng giêng và hai/2020, giảm sụt 17%, nhập cảng giảm 4% (Theo Reutrs ngày 6 tháng 3). Nhập siêu là 709 tỷ (trước kia TQ luôn xuất siêu). Xuất siêu với Mỹ hai tháng qua là 25.37 tỷ, năm trước cùng thời kỳ là 42.16 tỷ.
TQ lợi dụng tình hình gia tăng xuất khẩu rất lớn các loại sản phẩm y tế như máy trợ tim, mask, quần áo chống vi khuẩn cho hơn một trăm quốc gia đã ký hợp đồng mua của TQ.
Một số công ty ngoại quốc như công ty Fiat-Chrysler tạm ngừng sản xuất đồ parts xe cho Serbia, công ty Hyundai cũng tạm ngừng sản xuất cho hảng chánh ở Korea. Công ty viễn thông Apple tạm ngưng.

c/ Sự can thiệp và chỉ đạo của chánh quyền TQ

Là nước độc tài toàn trị, CSTQ trọn quyền chỉ đạo và yểm trợ kinh tế trong mọi lãnh vực.
Cho tới nay chỉ thấy Ngân hàng trung ương cho ra một gói lớn hỗ trợ kinh tế là 570 tỷ mỹ kim để hỗ trợ cho thương mại và sản xuất.
Ngân hàng trung ương cũng bỏ ra 394 tỷ để phân phát cho các địa phương chi cho ngành y tế
Chánh quyền cho giảm thuế và hoãn thuế. Ngân hàng cắt giảm lãi suất.
Tuy chánh quyền tuyên bố hết coronasvirus, cho mở lại mọi sinh hoạt. Nhưng dân chúng còn hãi hùng vì có một số bịnh nhân mới. Nội bộ đảng có xào xáo và có thể đấu đá mạnh. Trên thế giới thì càng ngày càng nổi lên sự thù ghét TQ cho rằng đảng CSTQ nhúng tay trong việc bành trướng đại dịch ra thế giới.

5. Kinh tế Việt Nam trong đại nạn coronavirus

Theo báo cáo của chánh quyền VN thì cho tới nay bịnh dịch corona coi như quá nhỏ. Chỉ có trên 280 người bị bịnh và không có người chết. Nhưng sự thật chắc không phải vậy. Vì một nước có hàng triệu du khách TQ, có hệ thống y tế rất kém, có khả năng tài chánh rất yếu, một chế độ độc tài, dân chúng phức tạp sẽ đối phó nhiều vấn nạn.
Nhưng hãy nhìn thực tế trên đường phố trong làng xóm, trong bịnh viện, cách phong tỏa của chánh quyền và qua người dân, hệ quả tai hại kinh tế của VN cũng khá lớn và sự phục hồi không dễ dàng.

a/ Sự bể vở kinh tế và hậu quả

Theo tin tức ghi nhận được thì sự khó khăn lớn cho mọi người dân. Từ các nhà máy, các hàng quán, dịch vụ chuyên chở, tới nông nghiệp.
Sự sụp đổ kinh tế kỳ nầy là toàn diện. Từ sản xuất đến thương mại đến nông nghiệp, xuất nhập cảng, tài chánh công và ngân hàng.
Mức tăng trưởng năm nay chỉ còn độ 4.9% ( World Bank ước tính), chỉ tiêu VN đặt là 6.8-7% .
Lạm phát tăng do chánh phủ phải in thêm tiền cho đại nạn. Giá cả gia tăng. Người nghèo thêm khổ. Nợ công tăng, công chi xáo trộn.
Nhiều doanh nghiệp sản xuất hay thương mại sẽ bị giảm tới 70% (Theo WB)
Xuất cảng và đầu tư ngoại quốc giảm . Đây là trụ cột chánh của kinh tế VN, nên ảnh hưởng lớn.
Về xuất cảng bị ảnh hưởng vì các thị trường ngoại quốc đều co cụm lại. Về đầu tư ngoại quốc có thể vừa bị thiệt hại trong đoản kỳ, nhưng trung hạn và dài hạn rất có thể có lợi cho VN vì một số nhà đầu tư ngoại quốc có ý định chuyển ra khỏi TQ nhiều hơn trước. Theo WB đầu tư ngoại quốc tại VN sẽ bị giảm 50%.trong năm nay.
Riêng việc mất tiền thuế ước tính độ 27000 tỷ đồng (1.16 tỷ US). Đây là sự mất mát đáng kể vì VN luôn có thiếu hụt ngân sách.
Chánh quyền đang dự trù bỏ ra một gói cứu trợ lớn là 7,7 tỷ mỹ kim và chờ Quốc hội thông qua. Nhiều người cho rằng chánh quyền CS sẽ lợi dụng việc dùng tiền dân lớn như vậy để tham nhũng. Một phần tiền sẽ vào khu quốc doanh hay chánh quyền các cấp.
Nhiều ngành lệ thuộc nguyên liệu ở ngoại quốc nay bị giảm sản xuất như may dệt, giày, linh kiện điện tử.
Thất nghiệt cao, tiền cho trợ cấp thất nghiệp là gánh nặng to lớn.
Những người nghèo chiếm đa số gồm nông dân, người buôn gánh bán bưng, người chạy xe ôm.. giờ không còn tiền đâu để sống.
Một lãnh vực quan trọng VN có số thu ngoại tệ lớn là du lịch. Du khách phần lớn là từ TQ , Nam Hàn, Nhựt và và Âu Mỹ. Hiện nay các nước nầy bị đại dịch và chánh quyền phong tỏa không đi ngoại quốc trong đó có VN. Ngành du lịch có thể mất 5-6 tỷ Mỹ kim.

b/ Sự phục hồi khó khăn và nhiều đau thương

Dù đại dịch nhẹ theo như chánh quyền CS nói. Có nghĩa là kinh tế bị đỗ vỡ ít. Nhưng sự phục hồi kinh tế của VN rất khó khăn. Vì các lý do:
Sự mâu thuẩn giữa hai nguyên tắc kinh tế vừa tự do vừa XHCN. Chánh quyền nắm gần hết của cải kinh tế kể cả đi vay mượn hay in thêm tiền.
Nền kinh tế không bền vững và có tiềm năng yếu kém. Mà sự phục hồi đòi hỏi sự cố gắng vươn lên cách đồng bộ. Quốc doanh bị lỗ nặng. Tư doanh dù đông nhưng qui mô quá nhỏ, thiếu vốn thiếu kỹ thuật, trừ một số ít của tư bản đỏ. Khu nông nghiệp càng thiếu khả năng phục hồi và thị trường bấp bênh. Khu vực kinh tế đối ngoại dù rất khá trong mấy năm qua, nhưng phải lệ thuộc nguyên liệu và nhà đầu tư ngoại quốc và thị trường ngoại quốc có bình ổn trở lại không.
Về tài chánh tiền tệ càng không vững vàng. Ngân sách luôn thiếu hụt. Nợ công gồm vay trong nước (in tiền) và vay ngoại quốc quá cao, trên 120% GDP, VN trả tiền nợ quá cao thấm nhiều trong nền kinh tế vốn yếu đuối.
Sự bất quân bình bất ổn trong cơ cấu kinh tế. Khu vực quốc doanh 70% bị lỗ nhưng được cứu trợ ưu tiên. .
Khu vực nghèo nhứt và đông nhứt bị tai họa lớn nhứt là người mua bán rất nhỏ, công nhân , nông dân không được chánh phủ bỏ ra số tiền kích thích kinh tế nào.
Ngoài công cuộc ngăn chận và điều trị bịnh, chánh quyền VN cũng cố gắng giúp đỡ các ngành kinh doanh bớt thiệt hại. Còn kế hoạch trợ giúp để phục hồi chưa có.
Chánh quyền VN có một số biện pháp cứu trợ cấp thời gồm:
Hoãn đóng thuế doanh nghiệp, thuế đất.
Chánh phủ bỏ ra số tiền rất nhỏ 180,000 tỷ đồng (gần 100 triệu đô) để giúp cho các cơ sở kinh doanh vay.
Chưa thấy biện pháp toàn diện cho sự phục hồi. Ngay cả cho sự ổn định phần nào đời sống quá khó khăn của dân hiện nay. Mới đây chánh phủ đưa qua Quốc hội một gói lớn cho trợ cấp kinh tế xã hội là 7,7 tỷ mỹ kim.
Ngoài ra, sự cản trở cho sự bình phục kinh tế còn do bộ máy hành chánh công quyền của nhà nước và của đảng quá to, quá tham nhũng và thiếu khả năng. Tiền của bỏ ra kể cả tiền vay của các định chế quốc tế sẽ bị lọt rất nhiều vào túi đảng viên và viên chức.
Trong chế độ độc tài thì không có niềm tin của dân với chánh quyền, nên mọi kế hoạch nhà nước đưa ra không có kết quả tốt.

Trên đây là tóm tắt sơ khởi về đại họa kinh tế do đại dịch coronavius gây ra trên toàn thế giới trong ba tháng qua. Sự thiệt hại quá lớn, toàn diện và toàn thế giới. Nỗi sợ hãi và niềm đau quá lớn cho nhân loại nói chung còn đó. Sự phục hồi cho tới giờ còn quá nhiều khó khăn.

Nguyễn Bá Lộc 

Cali ngày 14 tháng 4 năm 2020

Vi Phạm Nhân Quyền và Dân Quyền Tại Việt Nam Trong Lãnh Vực Kinh Tế

Nguyễn Bá Lộc

Chính quyền cộng sản cưỡng chế đất đai dân chúng khu đô thị mới Thủ Thiêm

1.Tổng quan

Luật quốc tế cũng như luật của nhiều nước tiến bộ đều có qui định về nhân quyền trong lãnh vực kinh tế. Tổng quát, đó là quyền sống của con người. Trong một quốc gia dân chủ pháp trị thì dân quyền là một mặt khác của nhân quyền. Người dân phải được luật pháp bảo vệ quyền tự do mưu cầu cuộc sống, tự do trong việc làm, quyền không bị bị kỳ thị hay ngược đãi nơi làm việc và trong kinh doanh, quyền được bảo vệ tài sản riêng và công sản quốc gia. Chẳng hạn trong bản liệt kê của cơ quan National Economic & Social Rights Initiatives (NESRI) có liệt kê hai quyền chánh yếu về mặt kinh tế là: Quyền Được Bảo Đảm Về Thực Phẩm (The Right to Food) và Quyền Lao Động (The Right to Work). Hoa kỳ và Âu châu có nhiều luật qui định về nhân quyền và dân quyền là một điều kiện trong mậu dịch quốc tế (U.S. trade law, free trade agreement, labor right litigation…)
Trên thực tế có nhiều quốc gia vi phạm các quyền trên, nhứt là tại các nước có chế độ độc tài trong đó có Việt Nam. Hậu quả các vi phạm đó là gây ra nhiều tai hại cho cá nhân nạn nhân và cả cho sự phát triển đất nước.
Mặt khác, trong hội nhập toàn cầu, một vấn đề tối sanh tử của Việt Nam, Việt Nam rất cần giao thương với nhiều nước, nhứt là các nước tư bản tự do. Và các nước nầy đều có qui định điều kiện nhân quyền trong sự hợp tác đầu tư ngoại quốc và trong ngoại thương. Trên thực tế, về kinh tế đối ngoại Việt Nam vi phạm nhiều điều luật quốc tế, từ nhiều năm qua cho tới bây giờ.
Trong những năm gần đây, Việt Nam cộng sản chẳng những không giảm bớt vi phạm nhân quyền mà còn gia tăng ở mức độ nghiêm trọng.
Tự do, Dân chủ và Nhân quyền là những nguyên tắc cơ bản cho sự phát triển kinh tế bình thường và bền vững. Tại Việt Nam thì những nguyên tắc nầy bị xâm phạm và đưa đến những hậu quả tai hại về kinh tế và xã hội.
Trong bài nầy chúng tôi tóm tắt những vi phạm Nhân quyền và Dân quyền trên phương diện kinh tế, và xảy ra trong năm vừa qua, dưới các mục sau đây:

2. Sự cưỡng đoạt đất đai của dân

Cưỡng chế thu hồi đất của dân là một vi phạm nhân quyền trầm trọng nhứt tại Việt Nam từ hàng chục năm nay. Tình trạng nầy vẫn còn tiếp diễn trong năm qua. Về luật nhân quyền đó là “quyền sống” và “quyền sở hữu”.
Chánh quyền Việt Nam đã lạm dụng và lợi dụng nguyên tắc của Luật Đất Đai 1993 (và bổ sung 2013) , gây thiệt hại cho hàng trăm ngàn dân khi bị di dời đến nơi định cư mới. Tình trạng nầy còn làm thiệt hại cho kinh tế chung.
Năm 2018 có nhiều vụ cưỡng chế lớn khắp mọi nơi. Có ba vụ lớn là:

Vụ cưỡng chế sai luật và lạm quyền tại khu đô thị mới Thủ Thiêm: Về phương diện nhân quyền các vi phạm là: Chánh quyền lấy đất của dân bồi thường giá rất thấp rồi bán lại cho công ty tư doanh với giá gấp nhiều chục lần cao hơn. Đó là hành động của chánh quyền cướp đoạt tài sản của dân, chánh quyền đoạt quyền thương lượng, quyền trực tiếp bán đất của người dân với người mua nhà đất là tư doanh. Đặt biệt trong đó có khoảng 160 hộ dân cư nằm ngoài khu vực đã được qui hoạch , nhưng chánh quyền thành phố HCM vẽ lại bản đồ, và thu hồi đất nầy. Chánh quyền không định cư đầy đủ cho người dân bị cưỡng chế, để cuộc sống của họ rất thảm thương trong thời gian dài. Dùng bạo lực thu hồi đất là vi phạm quyền sở hữu tư và xử dụng sai trái nguyên tắc công quyền. Chánh quyền làm sai nguyên tắc là: trưng thu đất tư là chỉ cho công ích. Trong đại dự án nầy có nhiều khu vực không nhằm cho công ích mà giao cho tư doanh xây nhà cao ốc, hay chánh quyền thực hiện dự án không cần thiết là Nhà Hát Giao Hưởng..

Một vụ vi phạm luật đất đai to lớn khác là vụ quân đội chiếm lấy một phần đất của phi trường Tân Sơn Nhất giao cho tư doanh khai thác sân golf và nhà hàng, khách sạn. Công trình nầy không phải là công ích. Mà nhu cầu mở rộng phi trường rất khẩn thiết, rất quan trọng. Sự việc tới nay chưa giải quyết.

Vụ thứ ba tại Thành Phố HCM hồi đầu năm nay là chánh quyền cưỡng bức trắng trợn đất của khoảng 200 gia đình dân Lộc Hưng, quận Tân Bình. Đây là vụ điển hình của sự lấy quyền sống của dân, thể hiện tính hung bạo của cường quyền cộng sản, người dân không được lấy ý kiến, không được thông báo trước khi thi hành lịnh cưỡng chế. Dân chúng phản đối mãnh liệt. Đa số người định cư ở đây có từ hơn 60 năm từ Bắc di cư vào Nam, những gia đình nghèo, sống bằng nghề trồng rau. Nhu cầu công vụ để thu hồi đất của những người dân không thích hợp cho xây dựng công ích không quan trọng và không khẩn thiết. Xây một trường học có thể tìm một nơi khác không khó khăn. Cho nên chỉ xét sơ qua về nhu cầu và về cách cưỡng chế tàn nhẫn, không tuân thủ luật lệ của chánh quyền, làm cho nhiều người nghĩ tới bên sau vụ nầy có tư sản đỏ, như hàng ngàn vụ lấy đất dân đã xảy ra.

Vụ cưỡng chế đất đai người dân tại vườn rau Lộc Hưng , Tân Bình ngày 9/1/2019

3.Vi phạm quyền người lao động (Labor Rights)

Quyền của người lao động là một quyền quan trọng của nhân quyền. Quyền nầy được Công Ước Quốc Tế về nhân quyền công nhận và Tổ chức Lao Động Quốc Tế (International Labor Organization) ghi rõ ràng. Trong đó có các quyền căn bản: được thành lập công đoàn độc lập, quyền thương lượng tập thể, quyền được làm việc nơi an toàn và có vệ sinh, quyền không bị kỳ thị. Việt Nam có ký công nhận luật quốc tế về người lao động, nhưng trên thực tế chánh quyền Việt Nam không thi hành.
Năm qua có hai sự việc liên quan đến quyền lao động là: Cộng Đồng Âu châu không phê chuẩn Hiệp ước thương mại với Việt Nam (EVFTA) hồi tháng 11/2018 vì cho rằng Việt Nam chưa làm đủ yêu cầu nhân quyền, nhứt là quyền người lao động. Sự việc thứ hai là Việt Nam đã ký Hiệp định thương mại CPTTP với 11 thành viên, không có Hoa kỳ (tháng 11/2018). Trong Hiệp định nầy, đó có điều quan trọng buộc Việt Nam phải cải sửa Luật Lao Động theo như luật quốc tế, tức là Việt Nam phải cho công nhân được thành lập công đoàn độc lập và quyền thương lượng tập thể để bảo vệ quyền lợi của mình. Việt Nam hứa nhưng chưa ban hành luật mới nầy. Từ trước tới nay, Công Đoàn của Việt Nam không độc lập, nó là một bộ phận của đảng.
Tuy nhiên với Hiệp định CPTPP 11 nước đã ký và Hiệp định Mậu Dịch Tự Do Âu châu – Việt Nam dù chưa chánh thức thì việc tranh đấu cho công đoàn độc lập và một số quyền khác, có cơ hội thuận lợi để công nhân và quần chúng tranh đấu bảo vệ nhân quyền.

4.Tình trạng tham nhũng

Trong năm qua nổi lên nhiều vụ tham nhũng kinh khủng. Các yếu tố tác động là do sự tranh đấu của dân, do chương trình đánh tham nhũng của TBT Nguyễn Phú Trọng, và do một phần áp lực quốc tế.
Ở Việt Nam tham nhũng là một đại họa. Nguyên nhân chánh là từ bản thể chế độ XHCN. Trong hai năm qua có các vụ tham nhũng lớn có thể tóm tắt như sau:
Vụ Tập Đoàn Dầu Hỏa VN (PVN): Tháng ba 2018, Đinh La Thăng và các viên chức lớn của PVN tiếp tục bị xử thêm tội đưa tiền gởi ở ngân hàng Ocean trái luật, gây thất thoát cho công quỹ ngàn tỷ đồng. Mới đây PVN bị đưa ra thêm một vụ rất to lớn nữa là Liên doanh khai thác dầu giữa Việt Nam và Venezuella. Việt Nam hùn với Venezuella khoảng 1,2 tỷ mỹ kim (40% vốn đầu tư). Sau 4 năm dự án nầy phá sản. Việt Nam mất tổng cộng gần một tỷ mỹ kim. Đây là trường hợp rất điển hình của đại tham nhũng cốt lõi quốc doanh và làm mất mát của công theo đúng qui trình và qui luật của chế độ XHCN.
Vụ Vũ nhôm (tên thật là Phan Anh Vũ) ở Đà Nẵng: Đây là vụ chiếm đoạt tài sản công qui mô tại Đà Nẵng và bị đưa ra xử trong năm qua. Vũ nhôm với danh nghĩa công ty địa ốc tư do các tướng Công an đứng phía sau, đã vừa móc ngoặc nhiều viên chức cao cấp của chánh quyền vừa ép buộc chánh quyền Đà Nẵng bán rất rẽ các lô đất công sản rất quí giá, không qua đấu thầu theo nguyên tắc. Sau đó đem bán lại cho tư nhân với giá rất cao, làm thiệt hại hàng trăm triệu mỹ kim công quĩ. Nội vụ chưa xong vì còn nhiều liên hệ đến một số viên chức khác, Vũ nhôm đang bị tù.
Vụ Mobifone: Là vụ đại tham nhũng do cấu kết giữa viên chức rất cao cấp của chánh quyền Việt Nam và tư sản đỏ. Công ty điện thoại di động của nhà nước Mobifone mua công ty AVG của tư nhân (2016) với giá 8,889 tỷ đồng ($391 triệu). Ngay việc công ty tư nhân đi bán cho quốc doanh là đi ngược chánh sách cổ phần hóa. Nhưng do sự cấu kết của viên chức cao cấp của Bộ Thông Tin, Công ty Mobifone (quốc doanh) mua công ty AVG (tư doanh) với giá cao 10 lần của giá thực tế. Sự cấu kết nầy làm thiệt hại công quỹ trên 300 triệu đô. Mặc dù khi đổ bể, AVG trả lại hợp đồng mua bán nầy. Dù vậy, đầu năm nay nội vụ bị đưa ra xử lý hình sự. Tổng Giám đốc và một số viên chức Mobifone và hai cựu Bộ trưởng Thông Tin, Trần Bắc Sơn và Trương minh Tuấn, bị bắt giam. Đây là vụ tham nhũng do lạm quyền và có cấu kết của các viên chức cao cấp nhứt, và là vi phạm lộ liễu nhứt.

Vụ tham nhũng Mobifone mua cổ phần tư doanh AVG. Mobifone là công ty viễn thông quốc doanh lớn thứ hai tại VN

Vụ bán công sản ở Thành phố HCM: TP/ HCM, một nơi coi như mỏ vàng của chánh quyền XHCN. Nên những vụ tham nhũng có thể nói to lớn nhất, kinh khủng nhất, vi phạm luật lệ và nhân quyền trắng trợn nhất, ngay từ khi CS chiếm miến Nam. Trong năm qua lòi ra các vụ viên chức chánh quyền bán nhà đất công sản không qua đấu giá, lớn nhất là khu đất vàng đường Lê Duẩn quận I, khu đất Nhà bè, khu đất giải tỏa trong đại dự án đô thị mới Thủ Thiêm.
Một vụ tham nhũng chỉ có ở nước Cộng Sản xảy ra trong năm qua là vụ hai tướng Công an tổ chức và bao che cho sòng bài qui mô hàng triệu đô la. Tổ chức đánh bạc ngay trên mạng CA, các viên chức lớn nầy lấy 20% tiền đánh bài. Hai tướng Phan văn Vĩnh và Nguyễn Thanh Hóa bị tù.
Tham nhũng là vi phạm nhân quyền lớn nhất trên thế giới. Tại Việt Nam thì nó quá kinh khủng. Nhờ một phần “chương trình đánh tham nhũng” của TBT Nguyễn Phú Trọng lòi ra nhiều vụ lớn và hoàn toàn do đảng viên cao cấp chủ mưu, cố ý và thiệt hại cho dân quá nhiều. Các nhóm đảng viên như loại siêu mafia thời XHCN. Dù việc triệt hạ nầy có tánh cách phe phái trong đảng đánh nhau để tranh giành quyền lợi.

5. Bước xâm lăng kinh tế Trung Quốc (TQ) tiến mạnh hơn

Trong năm qua TQ đẩy mạnh hơn nữa tiến bước xâm lăng kinh tế của TQ. Một tình trạng mà CSVN vừa bị ép buộc vừa tự cấu kết với TQ. Mức độ rất nguy hiểm và gây tai họa kinh tế cho mọi người dân. Các tiến bước cụ thể trong mấy năm vừa qua:
Sự thay đổi luật cư trú cho người ngoại quốc: Theo luật mới 2015 thì VN cho phép người ngoại quốc có Visa được quyền mua nhà ở, được cư ngụ 50 năm và sau đó có thể được gia hạn.Người TQ có thể mua nhà và ở Việt Nam dễ dàng. Giá nhà cửa tăng ngay. Người TQ mua nhà nhiều nhứt là tại TP/HCM, Nha Trang và Đà Nẵng.
Liên kết các tuyến giao thông mới: Các con đường bộ và đường xe lửa xuyên qua biên giới VN- TQ đã cải thiện và hoàn thành trong hai năm qua. Người TQ có thể qua lại dễ dàng.
Viet Jet Airline mở đường bay Đà Nẵng – Quảng Đông, 2017. Hãng Vietnam Airline cũng mở thêm các đường bay Nha Trang – Nam kinh, Quảng châu. Spring Airline của TQ mới mở thêm chuyến bay Shanghai- TP/HCM (2017).
Việt Nam cho Visa mới cho du khách TQ dễ dàng hơn. Du khách TQ tăng trung bình 51 % mỗi năm trong vài năm qua. Số người TQ tràn qua đông đảo như vậy làm nhiều xáo trộn cho dân chúng
Đầu tư TQ vào Việt Nam gia tăng nhanh từ hạng 9 (2014) lên hạng 3 (2017). TQ đầu tư đủ loại cạnh tranh với tư doanh Việt Nam.
Việt Nam cho phép xài tiền Yuan tại các tỉnh biên giới VN-TQ. Đó là sự vi phạm chủ quyền quốc gia.
VN- TQ cấu kết thành lập các Đặc khu kinh tế Vân Đồn, Vân Phong và Phú Quốc với nhiều ưu đãi về thời gian thuê đất, thời gian miễn thuế. Đặc biệt là cho mở casino và khu nghỉ dưỡng nhằm thu hút đầu tư TQ và di dân TQ.
Các liên kết với TQ nêu trên trực tiếp hay gián tiếp làm TQ xâm nhập vào VN và gây nhiều xáo trộn xã hội.

6. Nhận xét và đề nghị

Qua sự tóm tắt về những vi phạm nhân quyền trầm trọng xảy ra gần đây, chúng ta có thể có những nhận xét:
Tổng quát những vi phạm nhân quyền, nhứt là tham nhũng làm cho VN bị mất mát khoảng 25% tài sản kinh tế và làm gia tăng mức cách biệt giàu nghèo quá cao cách khác thường (58 lần, theo World Bank 2013). Phần lớn các nghiên cứu quốc tế về VN có nhận xét tham nhũng từ trong cơ quan cảnh sát, thuế vụ, giấy phép hành nghề, xin sổ nhà đất. Thực sự những vụ tham nhũng lớn là từ đảng viên rất cao, như Bộ Chánh Trị, Trung Ương đảng , Tỉnh ủy..
Căn nguyên chánh yếu của vi phạm nhân quyền trên mặt kinh tế là do bản chất chế độ XHCN. Chánh quyền dùng luật pháp và nguyên tắc Hành chánh, Tổ chức Hành chánh chính thức và bán chính thức, cán bộ đảng viên, cấu kết nhau thành hệ thống vi phạm nhân quyền có chủ đích .
Mức độ vi phạm rất cao và bền vững. Hậu quả là mất niềm tin của dân chúng và của quốc tế.
Cụ thể là qua những cuộc biểu tình phản đối trong nước trong năm qua và những chỉ trích VN mạnh mẽ trong các buổi họp quốc tế về nhân quyền hay mậu dịch .
Những vụ sai trái quá lớn được lòi ra do chương trình đánh tham nhũng của TBT Nguyễn phú Trọng chủ trương phần lớn là đánh diệt phe phái tranh giành quyền lợi. Đó chỉ đánh một số nhỏ cá nhân đảng viên chớ không thể diệt và cải thiện nhiều tệ trạng được nếu CS còn.
Những vụ tham nhũng lớn làm mất công quỹ hàng tỷ đô la một năm. Và chỉ thu hồi lại được qua các vụ xử lý chỉ khoảng 30% số cướp đoạt. Những vụ mà chánh quyền nêu ra chỉ là một phần rất nhỏ trong hàng chục ngàn vụ không đem ra xử trị.
Chánh quyền cấu kết với tư sản đỏ qua nhóm lợi ích. Đó là sự cấu kết đương nhiên và phải có trong mô hình “kinh tế thị trường định hướng XHCN”. Có quá nhiều thí dụ từ các khu xây dựng cao cấp ở Hà nội , Saigon, Phú quốc , Vân đồn.. Các trạm thu phí BOT trên nhiều tuyến đường.
Sự lệ thuộc kinh tế TQ là một đại họa chỉ nhìn trên khía cạnh nhân quyền về mặt kinh tế. CSVN và CSTQ đã cấu kết nhau càng ngày càng nhiều lên. Từ mậu dịch quá bất quân bình, đến các vụ thầu to lớn, không qua đấu thầu công khai. Ví dụ cụ thể gần đây là đường xe hỏa cao tốc Cát Linh – Hà đông, các nhà máy điện ở Bình Thuận, Trà vinh.. Thiệt hại nhiều tỷ với công trình kém phẩm chất.

Đề nghị:

Vấn nạn tham nhũng tại VN sẽ tồn tại khi chế độ XHCN còn ngự trị. Tuy nhiên, trong tình hình hiện nay trong nước và quốc tế, nhứt là lợi dụng nhu cầu hội nhập thế giới của VN, phối hợp tranh đấu có hoạch định, có bài bản, hy vọng có thể cải tiến cuộc sống tệ hại của dân chúng.
Trong nước, dân chúng và những Hội đoàn dân sự tiếp tục tranh đấu cho nhân quyền, gồm trên mặt kinh tế, ít nhứt trên bốn lãnh vực:
Về sự cưỡng chế đất đai, trong nước cũng như quốc tế biết rất rõ những vụ nầy, cho nên sự kết hợp tranh đấu có kết quả ít nhiều.
Về quyền người Lao động: Dựa theo qui định của Hiệp định CPTPP và mậu dịch tự do của Âu châu, có thể tranh đấu thành lập Công đoàn độc lập.Vấn đề nầy có cơ sở luật lệ quốc tế và căn bản gốc quần chúng rộng rãi, chánh đáng. Cho nên cần khôn khéo tranh đấu . Cần sự trợ giúp của cộng đồng người Việt hải ngoại và các cơ quan quốc tế.
Về tham nhũng: Các Hội đoàn và dân chúng lợi dụng chiến dịch chống tham nhũng của đảng nêu ra các vụ nghiêm trọng bị dấu nhẹm từ trước. Khi các phe phái đánh nhau sẽ bể ra nhiều vụ lớn nữa. Ít nhứt đảng viên có chút lo sợ phải “vào lò đốt”. Sự lộ ra những vụ tham nhũng lớn là cho các nước có đối tác mậu dịch hay đầu tư với VN sẽ có cớ ép VN dần đi theo luật lệ quốc tế.
Cách cụ thể là cố gắng phối hợp đưa một số vụ tham nhũng lớn cho Bộ ngoại giao Hoa kỳ và Canada áp dụng Luật Magnisky. Luật nầy chế tài viên chức tham nhũng lớn, vi phạm nhân quyền không được vào Hoa Kỳ và tài sản ở Hoa kỳ và Canada bị đóng băng. Năm qua Hoa kỳ đã áp dụng cho một số vụ xảy ra ở Yemen, Panama.
Các tổ chức người Việt ở ngoại quốc cần báo cáo đều đặn, và đầy đủ những vi phạm nhân quyền cho Liên Hiệp quốc và các cơ quan quốc tế khác và một số chánh phủ.
Về sự xâm lăng kinh tế TQ: Chỉ riêng vịệc cấu kết giữa VN – TQ về sự chiếm đoạt quá đáng tài sản, tài nguyên của nước VN và sự việc giao cho công ty TQ thi công nhiều công trình lớn là sự vi pham nhân quyền kinh tế. Dân chúng và các nhà trí thức đã phản đối và nên tiếp tục chống lại chánh quyền CS về các vụ giao thầu cho công ty TQ và vay quá lớn tiền viện trợ TQ.

Nguyễn Bá Lộc

Cali ngày 10 tháng tư – 2019