Năm Thìn Nói Chuyện Con Rồng

Phạm Thành Châu

Năm 2024 - Giáp Thìn Ảnh: AI tạo hình

Năm 2024 – Giáp Thìn (Ảnh: AI tạo hình)

Năm nay là năm Thìn, cầm tinh con rồng. Chẳng ai thấy dung nhan con rồng ra sao. Nó là sản phẩm của tưởng tượng. Có điều, không hiểu ai đã đồng hóa con rồng của châu Á với con dragon của châu Âu. Một bên là con rắn (long), bên kia là con kỳ nhông, kỳ đà (dragon). Con rồng Á Châu tượng trưng cho cao quí, quyền năng (nhà vua) và nhân hậu (rồng hút nước, phun nước làm mưa giúp mùa màng xanh tốt) trong khi con dragon Âu châu vừa giống con khủng long vừa giống con hải mã (các ông thường ngâm rượu để uống cho mạnh gân cốt), là con ác thú, chuyên phun lửa đốt người ta. Bài nầy sẽ nói đại khái về con Dragon Châu Âu trước sau đó sẽ nói về con rồng Á Châu.

Con dragon, trong thực tế, có thật. Ðó là con vật ăn thịt, giống như con kỳ đà, rắn mối của ta. Bạn mở Google rồi đánh chữ “Dragon” thì thấy đủ loại Dragon. Con Dragon tiếng La Tinh: Draco, tiếng Anh, Pháp: Dragon, tiếng Ý: Dragone… Dragon nhỏ cỡ con thằn lằn, to lớn thì có con Dragon Komodo ở đảo Komodo, Indonesia, tên khoa học là Varamuo Komodoensi, dài 2 mét, nặng 150 ki lô. Tôi xem trong TV. thấy chúng ở chung với người trên đảo Komodo. Dân trên đảo phơi cá, chúng bò tới ăn, phải đánh đuổi. Hình như chính phủ nuôi chúng để hấp dẫn khách du lịch, nhưng cũng khá tốn kém, có mấy con trâu già chết, người ta mang cho chúng, chúng nhai sạch cả xương, lông. Không hiểu khi đói chúng có ăn thịt trẻ con không? chứ tôi thấy mấy đứa nhỏ lấy roi đuổi đánh chúng chạy vô rừng. Khi giành ăn, giành con mái, chúng đánh nhau rất hăng, máu me tùm lum mà vẫn cứ lăn xả vào nhau. Nhỏ hơn có con Dragon Volan mà ta gọi là thằn lằn bay, tên khoa học là Physignathus Cocinan. Miền thượng du Bắc Việt cũng có loại nầy. Có một loại tương tự lớn hơn, tên là rồng đất, người Tày gọi là Turong Ðang, người Mường gọi là Rềnh, dài khoảng 50 cm. Con chuồn chuồn không giống con dragon mà cũng được gọi là Dragon Fly? Có con cá dưới biển, màu sắc sặc sỡ, đầu dẹp cũng được gọi là con Dragonet. Ở Mỹ, có nhiều con dragon nhỏ được bày bán trong các tiệm bán thú nhỏ (pet). Mấy con nầy chẳng làm được tích sự gì, chỉ thấy bò tới , bò lui như con kỳ nhông vậy thôi (con tắc kè còn kêu được vài tiếng vào ban đêm). Tôi xem phim (vẽ) truyện cổ tích cho trẻ con Châu Âu, con Dragon được thêm vây, cánh, móng vuốt dữ dằn. Có con năm bảy đầu. Nó to như cái nhà, hiệp sĩ đến gần để chiến đấu thì nó phun lửa, chặt đầu, nó mọc lại đầu khác, phun lửa tiếp. Có khi nó bay trên trời, dùng móng vuốt bắt người. Cuối cùng chàng hiệp sĩ cũng giết được nó (hoặc bắn tên cho nó rớt xuống đất) để vào hang cứu công chúa (và để vui lòng lũ trẻ), tương tự chuyện Thạch Sanh, Lý Thông của ta vậy. Dragon là con ác thú, các ông gọi mấy bà dữ dằn, ác phụ là Dragon lady.

Bây giờ qua chuyện con rồng của ta.

Chưa ai thấy con rồng thật, tôi cũng chưa thấy, nên tôi chỉ dựa vào sách báo, truyền thuyết, tranh vẽ, hình tượng để để trình bày với hi vọng quí độc giả có được những giây phút giải trí thoải mái trong mấy ngày xuân.

Hình tượng con rồng có từ khi nào? Có thể khẳng định, rồng có từ thời lập quốc nước Việt Nam ta. Sử Trung Hoa có nhắc đến con Giao Long, là con rồng của người Giao Chỉ. Các di chỉ lịch sử của Trung Hoa không thấy hình tượng con rồng (chỉ có con lân), mãi đến đời Tuyên Ðức (1426-1435) mới thấy rồng xuất hiện trên các đồ đồng, đồ gốm, đồ sành (ông vua nầy chỉ thích đá dế, sao lại thích con rồng?). Ðến đời Thành Hóa (1465-1487) mới thấy xuất hiện Long Phụng Hòa Minh rồi Phụng Mao Lân Giác… Ngay cả đến con Phụng Tàu cũng chỉ xuất hiện sau Phụng Việt ít ra cũng 400 năm. Ðời Lý, thế kỷ 11, phụng đã thấy xuất hiện trên đồ gốm, đồ đồng rồi. Con phụng Việt dáng uy nghi nhưng nặng nề, người Trung Hoa “chế biến” con phụng Việt thành bay bướm, rực rỡ, thanh thoát ra vẻ mẫu nghi thiên hạ (phụng tượng trưng cho hoàng hậu). Xem thế từ thời thượng cổ, người Lạc Việt đã vẽ hình giao long trên người để tránh bị giao long làm hại, thuyền bè cũng vẽ con mắt phía trước mũi thuyền, mục đích đồng hóa với giao long. Người Mường (gốc người Việt cổ) gọi con rồng là Prudồng và con thuồng luồng là Tu Luông. Con rồng ở Việt Nam không chỉ dành riêng cho vua chúa mà dân gian cũng có thể dùng hình tượng rồng, chỉ khác biệt là con rồng, tượng trưng cho nhà vua thì mỗi chân có năm (5) móng, rồng của các quan bốn (4) móng, dân chúng (các đình chùa, miếu đền) chỉ được làm hình con rồng ba (3) móng thôi. Ra Huế, bạn thăm cung điện, lăng tẩm các vua đều thấy rồng năm móng, Ðồ cổ, có hình vẽ rồng năm móng là biết đó là đồ ngự dụng (vua dùng), rất có giá trị. Nếu có lên Ða Lạt, nhớ ghé thăm biệt điện Bảo Ðại, bạn xem trong tủ triển lãm đồ ngự dụng, có một bình trà (cho vua dùng) vẽ hình con rồng sẽ biết. Thời các vua nhà Nguyễn, có lịnh cấm dân chúng dùng hình tượng con rồng. Theo Khâm định Ðại Nam Hội Ðiển Sự Lệ , quyển 186 về luật lễ thì “Nếu thêu vẽ con rồng, con phượng, giao long thì quan hay dân đều bị phạt 100 trượng (đánh bằng gậy) và lưu đầy 3 năm. Quan thì cách chức, thợ làm bị phạt 100 trượng”. Ðến thời Pháp thuộc, triều đình nhà Nguyễn chỉ là bù nhìn nên chẳng ai sợ lệnh vua mà phải tuân hành nên đình chùa, miếu võ, các đồ dân dụng (ấm, tách, đĩa, chén) vẫn vẽ con rồng, có khi rồng năm móng!

Huyền sử Việt Nam có kể rằng chúng ta là con Rồng cháu Tiên (các cháu gặp người “ngoại quốc” có thể tự giới thiệu “We are children of the Dragon and the Fairy” nhưng nhớ chỉ rõ hình con rồng chứ không phải con dragon, khủng long hay ác thú phun lửa giết người, và cô Tiên của chúng ta là người đẹp bằng người thật, nhân hậu và có phép tiên, chứ không phải cô tiên có cánh, bé tí xíu như con ong, tay cầm chiếc đũa thần, nhấp nháy như pháo cầm tay thường xuất hiện trong các hình vẽ và phim cổ tích cho trẻ em ở Châu Âu).

Sách xưa có ghi rõ về các loại rồng như sau: Rồng có cánh gọi là Ứng Long, rồng có sừng gọi là Cù Long, không có sừng gọi là Ly Long, rồng có vảy gọi là Giao Long (con rồng ở xứ Giao Chỉ. Giao Long thường xuất hiện ở bến sông thành Ðại La và Long Biên). Rồng 500 tuổi thì có sừng, 1000 tuổi thì có cánh, rồng chưa bay lên được thì gọi là Bàn Long. Trung Hoa đem con Giao Long (của xứ Giao Chỉ) ra “vẽ rắn thêm chân” (đầu lạc đà có sừng, tai bò, bốn chân, râu ria, móng vuốt trông rất hùng vĩ, dữ tợn) phổ biến đến các nước chung quanh nên nước Nhật chọn con rồng đen là rồng thiêng của họ (trước 1945, có đảng Hắc Long của Nhật), và con Thanh Long là rồng thiêng của dân tộc Triều Tiên.

Trở lại tục xăm mình của người Việt mà đến đời Trần vẫn còn giữ và con rồng đời nhà Lý chỉ là con rắn có vảy, có chân đến đời nhà Trần mới dùng hình tượng con rồng (có vây, kỳ) như của người Trung Hoa. Nhưng con rồng có thật hay không? hay biến dạng từ con vật nào? Theo các nhà nghiên cứu về tục xâm mình và con rồng Việt Nam thì có lẽ đó là hình ảnh con thủy quái. Họ suy luận rằng: Thời thượng cổ, đồng bằng sông Hồng và vùng bờ biển vịnh Hạ Long (vịnh rồng đáp xuống) còn rất hoang vu, thú dữ đầy dẫy. Người Việt đánh cá thường bị loại thủy quái nầy sát hại. Họ sợ hãi và nghĩ cách xâm hình con thủy quái lên toàn thân, hi vọng chúng tưởng đồng loại mà không ăn thịt. Loài thủy quái nầy rất to lớn, chúng thường băng qua sông hoặc lội từ đảo nầy qua đảo kia ở vịnh Hạ Long để săn mồi. Vì là ác thú hại người nên con người phải chiến đầu, tiêu diệt chúng để sống còn, giống như đã tiêu diệt hổ báo, cá sấu ở nam bộ thời người Việt mới đến khai phá. Tuy vậy đến thời Pháp thuộc, loài thủy quái nầy vẫn còn. Xin trích sau đây một số tài liệu liên quan đến con thủy quái mà người ta gọi là rồng biển, có ghi nhận trong các “Nhật Ký Hải Trình” của hải quân Pháp trên vịnh Hạ Long như sau. Theo Oudemans người ta đã trông thấy rồng hiện ra 134 lần từ năm 1802 đến năm1890. Ông Oudemans đã được trông thấy rồng hiện lên ở vịnh Hạ Long (bai d ùAlong) nên ông có tả rõ hình con rồng dài từ 15 đến 30 thước, đầu nhỏ có râu, đuôi dài lắm, có 4 vây to, lúc ngoi dưới nước mình như con rắn. Vị chỉ huy tàu Avalanche là Lagrisill có kể chuyện rằng: Năm 1897, hồi tháng 7, tàu ông đang đi ở vịnh Hạ Long, thình lình, ở đằng xa, xuất hiện một vật đen đen, chiếu ống dòm thì thấy con rồng đang rẽ nước, ông liền cho tàu chạy đến gần độ 600 thước rồi ra lịnh lấy súng đại bác bắn một phát, nhưng không trúng, rồng lặn xuống nước. Rồng thở phì phào như con trâu đầm nước và phun nước lên cao như cá ông voi. Ngày 15 tháng 2 năm 1898 rồng lại hiện lên gần Faist-si-long, trên tàu bắn nhiều phát súng, cách rồng 3, 4 trăm thước, hình như có hai phát trúng nên thấy rồng cuộn khúc lên khỏi mặt nước và phun nước lên trên không. Chín ngày sau, từ tàu Bayard, một sĩ quan (quan năm) hải quân và tám hạ sỹ quan đang đứng chơi trên tàu cũng lại thấy rồng hiện lên, đầu nó nhỏ như đầu chó bể (phoque), lưng có gai như răng cưa”. Mới đây, vào năm 2009, ở vịnh Bristol (Alaska) người ta quay video được một sinh vật to lớn, dài khoảng 6 – 9 mét, di chuyển trong nước với cổ dài, đầu giống đầu ngựa. Giáo sư Paul LeBlond, trưởng khoa Khoa Học Trái Ðất Và Ðại Dương, đại học British Columbia cho biết, sinh vật trong video dao động lên xuống theo chiều dọc chứ không di chuyển sang hai bên như cá. Có thể đó là loài rắn biển khổng lồ, được gọi là Cadborosaurus, là động vật bò sát biển, thường xuất hiện ở các bờ biển Bắc. Như vậy, con Giao Long (con rồng của người Giao Chỉ) là có thật, đến thế kỷ 19 còn sống sót vài con và bị người Pháp tiêu diệt. Có phải con thủy quái ở hồ Loch Ness (xứ Scottland) cũng là bà con giòng họ gì với con giao long của ta chăng?

Năm 1925, giáo sư Gruvel xuất bản một cuốn sách nói về nghề đánh cá cũng có kể chuyện về con rồng biển. Theo lời ông bác sĩ Kremp, nguyên quản đốc viện Ðông Dương Hải Học đã nghe một người Nam phần, 56 tuổi, chủ thuyền ở sở Thương Chánh Sài Gòn thuật lại rằng, năm 1883, có trông thấy trên bể một con rắn biển to bị sóng đánh giạt vào. Con rắn bể nầy dài 19 thước, lưng rộng 1 thước và có nhiều đốt. Da nó xám, cứng, gõ kêu như sắt tây (Theo Nguyễn Công Huân, Văn Hóa Nguyệt San, T. XIII, Q I, Sài Gòn 1964, tr. 26-30).

Trở lại chuyện con rồng. Vì là con vật được tượng trưng cho cao quí, sang trọng, quyền năng và nhân hậu nên các vua tự xem mình là rồng, những gì thuộc về nhà vua đều thêm chữ long vào. Long nhan (mặt rồng), long sàn (giường vua nằm), long xa (xe vua)… Trong truyện kiếm hiệp của Kim Dung có “Ðồ Long Ðao” (đồ long là giết rồng) là cây đao sẽ dùng để giết vua Mông Cổ giành lại nước Trung Hoa cho người Hán. Người Việt mình rất thích dùng chữ “long” để chỉ các công trình, địa danh. Long Biên, Hàm Rồng, Long Hải, sông Cửu Long, thành Thăng Long… ngoài ra còn có Long Beach (bãi biển rồng), Long Island (đảo rồng) ở xứ Mỹ, và Longine (con rồng nằm trong đồng hồ?) của Thụy Sĩ nữa!

Chùa Cầu – Hội An, Quảng Nam (Ảnh: Internet)

Hiện nay người ta thích vẽ, tạc tượng con rồng ở các đình chùa, miếu đền và cả các công viên, khu giải trí. Dài nhất Việt Nam là 2 con rồng bằng xi măng trước đền thờ Ngọc Hân công chúa và vua Trần Nhân Tông, cách đàn Nam Giao 6 km trên núi Ngũ Phong, thôn Ngũ Tây, thành phố Huế. Con rồng xi măng nầy dài 105 mét, thân cao 2,5 mét, đầu cao 3,5 mét. Trong truyền thuyết, có con rồng dài gần chục nghìn cây số, từ thành phố cổ Hội An đến nước Nhật. Người ta kể rằng. Nước Nhật thường hay động đất vì có con rồng nằm dưới đó, thỉnh thoảng cựa mình là đất đai rung chuyển, cây đổ, nhà sập. Thầy địa lý Nhật bảo rằng, mình con rồng ở Nhật nhưng đầu nó ở tận xứ Việt Nam. Vậy nên, vào đầu thế kỷ 15, thầy địa lý Nhật đến xứ Ðàng Trong (của chúa Nguyễn), tìm long mạch thì thấy ở Phố Hội có đầu con rồng nằm dưới một rạch nước, họ bèn xây đè lên (đầu rồng) một cây cầu, xây thêm trên cầu một ngôi chùa, có tượng ông (thần) tướng cầm cây gươm, ghìm ngay đầu con rồng để kềm chế, không cho nó cục cựa, vậy là nước Nhật bớt động đất. Ðó là Chùa Cầu, tỉnh Quảng Nam, đến nay vẫn còn, như một kỷ niệm của người Nhật tặng cho dân Hội An, nhiều người gọi đó là cầu Nhật Bản, có ghi công trình nầy ở các bia đá trên cầu. Ðến Hội An xem Chùa Cầu, bạn nhớ vô chùa (ngay trên cầu) sẽ thấy rõ tượng ông (thần) tướng cầm gươm. Có lẽ người dân Hội An thêm thắt vô cho bọn trẻ chúng tôi tin là thật, sau nầy, đọc sách chúng tôi mới biết là khoảng thế kỷ 15, 16, người Trung Hoa và người Nhật đến phố Hội lập thương cục buôn bán. Phía bắc phố Hội bên kia con rạch là nơi cư ngụ của người Nhật, phía nam của người Tàu. Người Nhật xây cây cầu để tiện đi lại, nhưng sách vở không nói về chuyện ngôi chùa (miếu) thờ ông thần nào đó, tướng tá, võ phục trông giống của người Nhật.

Tượng (ảnh trái) và bàn thờ Bắc Đế Trấn Vũ ở chùa Cầu, Hội An. Ảnh: V.V.H

Bây giờ, để chấm dứt bài con rồng, tôi xin hiến quí vị tuổi Thìn (con rồng) một quẻ bói. (Xin lỗi, tôi không có quẻ tuổi Thìn cho quí bà). Ðàn ông tuổi con rồng thường gặp may mắn. Năm nay lại càng may mắn hơn vì là năm Giap Thìn. Người tuổi Rồng có thừa sức khỏe, năng nổ nhưng dễ bị kích động và mất thăng bằng. Cực kỳ ương ngạnh nhưng ăn ở có đức độ, không biết đạo đức giả. Ðược thiên hạ kính nể, có thế lực. Tuổi Rồng hăng hái ít ai sánh kịp. Thời trẻ hay gặp trắc trở, lớn lên vùng vẫy như rồng có cánh tuy cũng lắm thăng trầm, về già nhàn nhã. Tuổi Rồng hợp với tuổi chuột, rắn, khỉ, gà. Kị nhất với tuổi trâu, chó. Năm nay, tuổi Rồng khá giả, yên thân, miễn là đừng giao dịch, tiếp xúc với người cùng tuổi Thìn (con rồng) vì là năm Rồng lại nằm ở cái thế “lưỡng long tranh châu”, chưa biết thắng bại ra sao?

Bài con Rồng xin chấm dứt, sang năm xin hầu quí vị chuyện con Rắn, năm Tỵ.

Phạm Thành Châu

Hoạn Thư Tập Sự

Phạm Thành Châu

Ghen đến trình độ "thượng thừa" như người đàn bà này: Từng bước đều cao ngạo và đánh thẳng mục tiêu, người đời sau đọc xong chỉ biết "tấm tắc" - Ảnh 1.Tứ nghiện thuốc lá. Bỏ được ít lâu, lại hút tiếp. Lan bực lắm, thường bảo.

– Anh chỉ được chọn một thôi, hoặc em hoặc thuốc lá.

Tứ thề thốt, coi bộ hăng hái lắm, được ít lâu, sau bữa ăn, Tứ biến đâu mất. Lan mở cửa đi tìm, thấy Tứ ngồi trước thềm phì phà điếu thuốc. Tứ hít một hơi thuốc, thở khói ra, ngón trỏ gõ gõ trên điếu thuốc, mắt đăm chiêu mơ màng. Lan đâm bực.

– Chà sướng quá há! Trốn ra ngoài hút thuốc. Ôm gói thuốc đi luôn đi, đừng vô nhà nữa nghe!

Tứ nhe răng cười.

– Anh sẽ súc miệng, đánh răng cho hết hôi. Em mà nghiện thuốc, em mới thấy được cái thú hút thuốc. Sau bữa ăn mà không có điếu thuốc thì cuộc đời mất hết một nửa thú vị.

– Thôi, đủ rồi, có vứt điếu thuốc đi không, hay là tôi khóa cửa lại?

Tứ hít một hơi dài rồi mới chịu dí dép lên điếu thuốc. Chuyện Lan nổi cơn ghen sau đây cũng vì Tứ ra ngoài sân hút thuốc. Một tối thứ bảy, vợ chồng đi dự đám cưới của một người đồng hương tại một nhà hàng. Theo truyền thống trong lúc thực khách thưởng thức các món ăn thì cô dâu, chú rễ và phái đoàn hai họ đến từng bàn tiệc ngỏ lời cám ơn tấm thạnh tình đã bỏ chút thì giờ quí báu… Rồi đại diện bàn tiệc sẽ đứng lên đáp từ và trao những phong bì tiền lì xì. Khi sắp đến bàn của vợ chồng Lan thì Tứ bỏ ra ngoài hút thuốc, Lan dặn với theo.

– Lẹ lên nghe, sắp đến bàn mình rồi.

Lan muốn khi cô dâu, chú rễ đứng chụp hình kỷ niệm phải có Tứ ngồi bên cạnh. Vậy mà chờ mãi, cô dâu chú rễ đã qua bàn khác vẫn không thấy Tứ vào. Lan bực mình đứng dậy đi tìm. Vừa bước ra khỏi cửa nhà hàng, Lan bỗng khựng lại nép người vào tường: Tứ đang nói chuyện với một cô gái trước một cửa tiệm bên cạnh. Tuy không xa lắm, nhưng Lan không nhìn rõ được cô gái vì cả hai đứng khuất ánh đèn dưới mái hiên. Lan thấy họ coi bộ vui vẻ, thân thiết lắm. Cô gái nói gì đó, Tứ đáp lại, rồi cả hai cười phá lên, cô ta còn đập tay vào người Tứ nữa. Lan như chết sững, tim đập thình thịch, người run lên. Cô muốn ra chỗ hai người, nhưng không hiểu sao chân tay không cử động được. Lối đập tay vào người Tứ của cô gái và cách nói chuyện tự nhiên vui vẻ đó chứng tỏ hai người quen biết, thân thương nhau coi bộ hơn cả Lan với Tứ nữa. Cô gái mở bóp, đưa Tứ tờ giấy nhỏ, Tứ nhanh nhẹn xé đôi tờ giấy viết gì đấy và trả lại cô ta nửa tờ, nửa kia bỏ vào bóp. Rồi Tứ ném điếu thuốc xuống đất và dí nát nó. Lan hiểu rằng Tứ sắp quay vào, cô vội vã trở vào nhà hàng, cố giữ vẻ bình tĩnh. Chờ một lúc, vẫn không thấy Tứ đâu, cô lại định ra tìm thì thấy Tứ đang cụng ly với mấy người bạn ở bàn phía xa kia. Cô muốn gọi Tứ để hỏi cho ra lẽ nhưng chợt nghĩ lại làm gì Tứ cũng bảo đó là người bạn cùng sở hay gì gì đó và chắc chắn sẽ có một câu: Đừng nghĩ bậy bạ, người ta có chồng rồi, anh chỉ là người quen thôi. Nếu nghe thế chắc chắn Lan sẽ nổi giận ngay: Quen, quen mà vỗ vai, vỗ vế, giống như mấy con đĩ. Lan biết hễ nổi nóng lên là cô không chịu giữ ý gì cả, và như thế mọi người trong tiệc cưới sẽ chú ý đến ngay. Lan nghĩ: Ai lại nổi ghen trước mặt người khác, người ta đồn đãi nhau xấu hổ chết, người bản lĩnh phải che dấu ý nghĩ. Mà nếu hắn trả lời như thế thì mình cũng chịu, giỏi lắm lầu bầu mấy câu, rồi hắn nịnh nịnh, cười cười là mình quên ngay như mấy lần trước, mà lại chẳng khác gì báo động tụi hắn sẽ dè dặt kín đáo hơn. Cho nên Lan quyết định làm như không biết gì hết. Lúc Tứ trở về chỗ ngồi, nghe nồng nặc mùi rượu, cô lại nghĩ Chà, uống mừng tái ngộ cố nhân đây! Lan thấy tức đến nghẹt thở nhưng cố nén giận, đứng lên.

– Say quá rồi! Thôi, về sớm!

Tứ lè nhè gì đấy, cô không thèm nghe, xin lỗi những người cùng bàn. Cô biết Tứ say, nếu lái xe mà cảnh sát hỏi thăm sức khỏe thì rắc rối to ngay, nhưng cô làm thinh, để mặc. Trước giờ đâu có uống đến say tí bỉ như thế, phải có lý do, đó là gặp con nhỏ kia, vui quá nên tự thưởng cho mình mấy ly chứ gì, lăng nhăng đi, gặp chuyện thì ráng chịu, đáng kiếp! Lúc về nhà, đáng lẽ như thói quen Lan phải ôm chồng mới ngủ được, lần nầy cô nằm xây mặt vào sát vách yên lặng. Tứ kéo tay, cô cưỡng lại, cô muốn nói mấy câu cho hả giận nhưng nhớ lại là cần giữ bí mật nên chỉ bảo.

– Hôi quá, tránh ra!

Tứ thấy bất thường nên hỏi.

– Có chuyện gì vậy?

– Đau đầu quá. Để tôi yên!

Thực sự Lan muốn bể cái đầu khi tưởng tượng lại cảnh lúc nãy, tưởng tượng sau nầy “hai đứa” lén lút hò hẹn, đưa nhau đi nhà hàng, cinê, có khi đi phòng ngủ nữa. Lan chỉ muốn hét to lên “Đồ phản bội!”, muốn đấm, muốn ngắt véo Tứ cho hả giận nhưng vì mưu kế nên đành yên lặng. Cô cứ thao thức mãi, trong khi Tứ đã ngáy khò khò, Lan giận mình dại, tại sao không đến ngay lúc đó cho con nhỏ kia biết điều mà buông tha Tứ, hay ít ra cô sẽ làm bộ vui vẻ hỏi tên, hỏi chỗ ở, sở làm của “con kia” để có thể theo dõi cho chính xác. Bây giờ thì mù tịt, hỏi hắn cũng vô ích, hắn sẽ nói láo ngay. À, hai đứa đã cho nhau số điện thoại rồi, như thế số điện thoại con nhỏ kia đang nằm trong bóp Tứ. Quần dài lúc nãy Tứ treo trong tủ áo quần, Lan quyết định sẽ lấy cái bóp trong túi quần Tứ, vào phòng vệ sinh, khóa cửa lại, mặc sức lục lọi. Nghĩ thế nên cô chồm dậy, định bước xuống giường, nhưng kẹt là phải làm sao bò qua người Tứ mà không đụng đến hắn. Tứ rất tỉnh ngủ, chỉ cần đụng nhẹ là hắn mở mắt ra ngay. Hai đầu giường thì kẹt cái vách và cái bàn. Lan nhìn đồng hồ, đã hơn hai giờ sáng, Tứ vẫn ngáy đều, cô nhẹ nhàng lần xuống phía chân, cố chống hai tay, hai chân thật cao sao cho không đụng đến người Tứ, nhưng chợt Tứ ngừng ngáy, Lan thất vọng, có lẽ tà áo của cô đụng vào người Tứ. Đúng ra người say rượu thường ngủ li bì, giờ nầy có lẽ rượu không còn tác dụng nữa. Lan lại giận mình, biết vậy, lúc tối thay vì đi ngủ Lan làm bộ làm gì đấy để khỏi lên giường, hễ nghe Tứ ngáy là lấy bóp Tứ ra kiểm tra. Giờ thì đã lỡ rồi, không thể đến mở tủ được, sợ Tứ biết, cô đành đi xuống bếp, mở tủ lạnh lấy nước uống. Lan làm thong thả cố kéo dài thời gian. Một lúc sau, cô nhẹ nhàng về phòng. Tứ đang ngáy, bỗng trở mình và không ngáy nữa, Lan đoán Tứ vẫn ngủ say, cô kéo nhẹ cánh cửa tủ. Bỗng cô nghĩ Khi mình lấy bóp của hắn và tìm thấy số điện thoại hoặc địa chỉ con kia, mình phải chép ra và để lại chỗ cũ mới không bị nghi ngờ, vậy phải tìm một cây bút và một mãnh giấy. Nghĩ vậy, Lan tiến về phía chiếc bàn ở góc phòng. Cô nhớ có một cây bút để cạnh TV, nhưng ánh đèn đường chiếu qua cửa sổ không đủ sáng để cô phân biệt các vật trên bàn, Lan đành dùng tay mò mẫm, bỗng tay cô đụng cái ly, ngã nghe cạch một tiếng, cô giật mình đứng yên, sợ Tứ tỉnh dậy. Nhưng Tứ đã hỏi giọng tỉnh rụi.

– Làm gì mà đứng lù lù như ma vậy?

Lan tức quá trả lời.

– Kệ chó tui!

Rồi cô vùng vằng leo lên giường, tiện chân cô đạp cho Tứ một đạp vào lưng nghe đánh hự một tiếng.

– Làm gì zdậy? – Ai vẽ! (Ai bảo)

– Vẽ gì?

Lan định nói “Ai vẽ theo con đĩ ngựa kia chi!” nhưng cô giữ kịp miệng. Nói vậy thì lộ bí mật hết còn gì!

– Ngủ đi. Cứ lục đục hoài không cho người ta ngủ!

Thì ra hình như Tứ biết tất cả những gì Lan làm từ nãy giờ. May mà cô chưa lấy được cái bóp nếu không Tứ sẽ biết được, chúng nó sẽ kín đáo hơn, khó theo dõi. Lan nhìn đồng hồ, đã hơn bốn giờ, vậy là gần như trắng đêm cô không ngủ với bao ý nghĩ ngổn ngang. Lan phân vân không biết những người có chồng ngoại tình xử trí ra sao? Cô nhớ lúc nhỏ đọc báo, ở Sài Gòn có người tạt acít tình nhân của chồng. Cô tưởng tượng lúc bắt gặp hai đứa trong phòng ngủ, cô dám tạt acít cả hai lắm, nhưng ở Mỹ acít đâu dễ tìm. Hay là khi tìm được con kia, Lan sẽ nhẹ nhàng bảo Biết chuyện cô Cẩm Nhung, (bị tạt acit) báo có đăng ở Sài Gòn trước đây không? Nếu nó không biết tất sẽ hỏi thằng tình nhân (là Tứ). Lúc đó Tứ sẽ về tìm cách dọa nạt cho Lan không làm điều đó, thế là cô sẽ bảo Tứ Hỏi bà Phương bên Vancouver Canada đã làm gì biết không? Và Tứ sẽ nhớ lại chuyện báo đăng một người đàn bà Việt Nam ở Canada cắt chim chồng bỏ vô cầu tiêu giật nước cho trôi mất tiêu, không hy vọng chắp vá gì được cả. Như thế Lan đã cảnh cáo cả hai. Nghĩ vậy Lan hơi yên tâm, nhưng lại tự nhủ, phải làm gấp, cho hai đứa xa nhau sớm, chứ để chúng hẹn hò, ôm nhau rồi thì khó mà dứt ra. Lối cho nhau số điện thoại như thế chứng tỏ chúng nó đã lâu không gặp nhau. Tình cũ không rũ cũng đến, lúc tái ngộ sẽ mùi dữ! Nghĩ đến đó trong đầu Lan lại hiện ra cảnh Tứ ôm con kia hôn hít như đã từng ôm cô, Lan càng sôi gan, tưởng như chuyện đó đã xảy ra rồi, cô lại đạp cho Tứ một cái thật mạnh, Tứ lại hự một tiếng, la lên. – Làm gì zdậy? Điên hả?! Lần nầy Lan không thèm trả lời nhưng thấy cơn giận tạm nguôi, cô trùm mền ngủ. Đến khi nghe đồng hồ reo Lan mới tỉnh dậy, thấy đã mười giờ sáng. Quái lạ, lúc nào cô cũng để bảy giờ, dậy sửa soạn ăn uống cho chồng con rồi đi làm là vừa, sao đồng hồ lại reo lúc mười giờ?. Đúng rồi, Tứ sợ cô dậy cùng lúc có thể sẽ theo dõi hắn, nên vặn cho đồng hồ reo trễ. Sáng nay làm gì hắn cũng hẹn với con kia đi ăn điểm tâm đây, có thể Tứ dậy lúc bảy giờ rủ nhau (ăn, ngủ) cho đã rồi tới sở làm cũng còn kịp chán. Lan thấy buồn đến rã rời người. Vậy là Tứ đã phản bội cô thật rồi. Tự nhiên nước mắt trào ra, và cô ngồi khóc. Lan nghĩ đến mấy câu thường hát ru con, trước kia thấy bình thường, bây giờ nghe thảm não quá. Gió đưa bụi chuối sau hè, Anh ham vợ bé bỏ bè con thơ. Ví dầu tình bậu muốn thôi, Bậu gieo tiếng dữ cho rồi bậu ra. Nghĩ đến mấy câu ru em đó, Lan tủi thân khóc nức nở. Khóc chán, cô điện thoại vào sở làm báo đi làm trễ vì bịnh phải đi bác sĩ. Công việc của Lan làm tại sở là xếp lại một số hồ sơ cũ, cô làm giờ nào, ngày nào cũng không ai quan tâm, có khi báo nghỉ vài ba hôm cũng không cần người thay thế và cũng chẳng trở ngại gì cho ai cả. Lan đi rửa mặt, cô soi gương thấy mắt mình mọng và đỏ lên. Bỗng cô chú ý đến nhan sắc của mình và tự hỏi có phải con kia đẹp hơn cô hay nó có gì đặc biệt mà quyến rũ được chồng mình? Hay là Tứ bị nó bỏ bùa?! Kiểu nầy thì tán gia bại sản ngay! Cô hoảng kinh với ý nghĩ đó. Buổi sáng yên tĩnh, các con đã đi học từ sáng sớm, chồng đi làm, Lan ít khi phải đối diện với cảnh trống vắng nầy, vì giờ cô đi làm về cũng là giờ cả nhà đều có mặt, tiếng TV trong phòng các con vọng ra, tiếng nhạc Tứ mở trong phòng khách, và tiếng nồi niêu, chén bát va chạm trong bếp là những âm thanh vui vẻ, hạnh phúc. Lan bỗng có cảm tưởng sự trống vắng hôm nay là bắt đầu cho những ngày tương tự sẽ xảy ra. Biết đâu Tứ lăng nhăng rồi về tìm cách gây gổ, rồi sẽ đưa đến tan vỡ, ly dị. Lan sợ hãi hai tiếng đó. Rồi cô sẽ không được ở trong ngôi nhà nầy nữa. Lan từng nghe những cặp vợ chồng ly dị, thường người chồng có nhiều tiền hơn, nhất là có con tình nhân hỗ trợ sẽ trả một số tiền cho người vợ ly dị coi như chia của để lấy căn nhà và người vợ phải ra đi. Rồi con kia và Tứ sẽ ôm nhau trên giường của cô, sẽ nấu nướng trong bếp của cô. Ý nghĩ đó làm Lan chỉ muốn chết quách cho xong, cô lại ngồi khóc tiếp. Khóc một lúc, cô bình tĩnh lại và tự trấn an mình Đàn ông ai mà chẳng lăng nhăng, coi như chơi qua đường, con nào dại ráng chịu, ăn thua người vợ biết giữ chồng hay không? Nhưng cô không biết giữ chồng cách nào. Lan đọc báo thấy nào là phải dịu dàng, chiều chuộng chồng, nào phải để ý đến bản thân, son phấn, ăn diện cho đẹp, nào là phải quyến rũ, hấp dẫn chồng trong phòng the. Hai tiếng phòng the lại làm Lan lại tưởng tượng đến chồng và con kia sẽ ôm ấp nhau ngay trên giường của mình, máu nóng lại xông lên đầu, cô nghiến răng “Gian phu dâm phụ, cho chết cả hai!”. Bỗng Lan tự hỏi, tại sao mình không mua lấy một khẩu súng, rình theo, hễ thấy hai đứa với nhau mình đến cảnh cáo “Lần sau bắt gặp sẽ bắn chết cả hai!” Có cho vàng chúng cũng phải khiếp vía. Rồi cô tự hỏi. Nhưng rủi chúng không khiếp vía thì sao, có dám bắn không? Cô nghiến răng “Dám bắn! Bắn chết tươi!” Cứ một câu hỏi hiện ra trong đầu Lan thì lập tức có câu trả lời, như thế một lúc thì cô bí lối. Lan thở dài, trang điểm sơ sài và lên xe đi làm. Vừa mệt vưà đói bụng, cô bơ phờ, chỉ muốn nằm lăn ra ngũ giấc nghìn thu cho quên hết sự đời. Chợt cô có sáng kiến cứ giả giọng con kia gọi đến sở làm của Tứ, làm gì Tứ cũng vọt miệng hỏi. “Em Hồng, Cúc, Ngọc, Ngà gì đó phải không?” Thế là cô biết tên đối phương. Lan còn nghĩ ra một sáng kiến nữa là sẽ cho Tứ uống thuốc ngủ, bằng cách hòa thuốc chữa bịnh dị ứng vào nước ngọt, Tứ uống vào sẽ ngủ như chết ngay, cô sẽ mặc sức lục lọi bóp của Tứ, ngửi áo xem có mùi nước hoa, tìm có sợi tóc nào, vết son nào không? Khi đã có chứng cớ rõ ràng thì Tứ không có cách nào chối cãi được. Lúc đó Lan sẽ nói thẳng vào mặt Tứ Nếu không sớm từ nó ra thì tôi sẽ bắn chết cả hai. Ôi đơn giản thế mà cô nghĩ không ra. Nhưng phải nói trúng tên con kia mới chứng tỏ mình biết hết, đừng hòng chối cãi. Vậy phải giả giọng con kia gọi đến Tứ ngay. Nhưng giọng gì? Bắc, Trung hay Nam? Theo Lan thấy, thái độ con nhỏ kia không phải là của người Bắc, người Bắc ăn nói điềm đạm và rất giữ ý, người Nam bộc trực hơn, đúng nó là người Nam rồi. Lan quay số, gọi đến sở làm của Tứ, giả giọng Nam.

– Cho gặp anh Tứ ạ!

– Tứ tôi nghe đây. Xin lỗi, ai ở đầu dây ạ?

– Em đây, anh không nhớ à?

– Tôi có nghe quen quen, nhưng thực tình chưa nhận ra là ai cả!

Lan cúp ngay điện thoại, sợ Tứ nhận ra giọng mình. Vợ chồng bao nhiêu năm, dù giả giọng, nói tiếp vài câu Tứ sẽ biết ngay. Cô hơi yên tâm, Tứ không tưởng là con kia nên không vọt miệng hỏi tên chứng tỏ cả hai chưa liên hệ nhau nhiều. Nhưng tại sao Tứ vặn đồng hồ cho cô dậy trễ? Nhất định phải có nguyên do. Cô phải cho Tứ ngủ say để tìm cho ra chứng cớ để buộc tội Tứ cố tình cho cô dậy trễ để đi với con kia mà không bị nghi ngờ. Lan đã lấy lại bình tĩnh. Khi về nhà cô vẫn làm bổn phận thường ngày là chuẩn bị bữa cơm tối và không quên pha sẵn một ly nước ngọt với thuốc dị ứng để khi Tứ uống vào là ngủ say ngay. Hai cô con gái ra than đói bụng, Lan bảo chúng chờ ba về ăn luôn, nhưng đứa lớn nói.

– Ba gọi về nói sẽ về trễ vì bận việc.

– Mẹ nấu chưa xong, các con chờ một chút!

Tuy nói bình tĩnh nhưng cô đã nghi ngờ. Hẹn hò với nhau đi đâu đây, nhưng đừng hòng qua mặt con nầy. Lan gọi ngay điện thoại vào sở làm của Tứ, nếu không có Tứ ở đó, tức đã đi với con kia. Nhưng chỉ mới reng một tiếng là đầu dây kia đã nghe Tứ nói.

– A lô, Tứ nghe đây.

Lần nầy cô giả giọng Bắc vì giọng Nam gọi lần trước Tứ nhận không ra.

– Em đây, anh không nhớ ra em à?

– Xin lỗi cô tên gì, tôi không nhận ra.

– Anh đoán xem, mới gặp đấy mà, người đâu mau quên thế!

– Ai hè?

Lan cúp ngay điện thoại, cô thấy hơi vui vì mưu kế kiểm soát của mình. Nhưng con nhỏ kia là ai? Thân mật đến độ đó thì ôm nhau lúc nào chẳng được. Trong lúc đang suy nghĩ thì cô con gái đưa cho Lan điện thoại.

– Mạ, có điện thoại.

– A lô Lan đây!

– Lan đó hả, mi? Có biết ai đang gọi mi không?

– Ai rứa hè? Nghe như giọng con Tiểu Hoa!

– Đúng rồi, giỏi lắm! Tao qua đây mấy năm mới có được số điện thoại của mi. Răng mi? Làm ăn ra răng? Nghe nói vợ chồng tụi mi mua nhà rồi hả? Làm chi giàu rứa hè?

– Giàu cái khỉ khô chi mi ơi! Thuê nhà cũng trả chừng đó tiền. Chừ mi đang ở mô, tiểu bang mô?

– Tụi tao mu (move) qua Maryland rồi.

Thế là hai chị đàn bà Huế gặp nhau trên điện thoại, nói chuyện sa đà, linh tinh suốt buổi, cứ líu lo như chim hót, người xứ khác chẳng hiểu được bao nhiêu. Lan và Tiểu Hoa là bạn học lại là hàng xóm, từ trường tiểu học Gia Hội cho đến trường Đồng Khánh đều chung một lớp, lớn lên lấy chồng, các ông chồng cũng là bạn thân với nhau. Thành ra khi có gia đình vẫn cứ rủ nhau đi chợ, ăn quà rong.

– Tao đâu biết mi ở Virginia, hôm qua ăn đám cưới bên tiểu bang mi, nửa chừng ông xã tao say quá, tao phải đưa về nhà gấp, lúc ra gặp ông xã mi đang đứng hút thuốc. Lúc đầu, tao không biết là ai, sau ổng tới phụ đẩy ông xã tao vô xe mới nhận ra, tụi tao mừng quá.

Lan lặng người một lúc lâu.

– Bữa mô mời cả nhà mi qua tao, lâu quá!

– Tao cũng định rứa, nhưng để coi, lâu lâu gọi nhau cũng vui rồi.

– Nhưng răng mi biết số điện thoại của tao?

– Thì bữa đó, ông xã mi cho tao chớ ai.

– À, tao biết rồi. Mệ tổ mi. Rứa mà tao tưởng ổng nói chuyện với con mô, tao nổi ghen, tối về tao đạp cho ổng mấy đạp thất kinh luôn.

– Răng ổng không nói cho mi biết?

– Rứa mới đáng đời ổng. Say quá, ổng quên. Lúc ra, tao thấy, nhưng đâu biết mi! Biết, tao đã chạy tới rồi. Thôi, rứa cái đã hỉ, tao sẽ gọi lại.

Lan tắt điện thoại, quay lại thì Tứ đã đứng sau lưng từ lúc nào rồi.

– À, khi hôm đạp tôi! Nhớ nghe! tối nay phải để tôi đạp lại. Hai lần nghe!

Lan mắc cỡ.

– Ông ni, ăn nói nham nhở!

Rồi cô la lên khi thấy Tứ bưng ly nước.

– Ly nước cam. Đừng uống nghe, có thuốc độc trong đó!

– Cô muốn giết tôi phải không?

– Ừ đó! Răng?

Tứ lầu bầu.

– Có mụ vợ ác ôn như ri thì cũng nên uống ly thuốc độc đó, chết sướng hơn!

– Chơ răng ông vặn đồng hồ cho tôi dậy trễ?

– Uả. Thấy cô lục đục cả đêm, sợ cô mất ngủ sinh bịnh, tôi phải vặn trễ.

Bỗng Tứ ôm cứng vợ và cười mãi. Lan vùng vẫy.

– Buông ra! Điên hả?

– Bộ tôi không biết cô giả giọng người khác gọi tôi sao? Số điện thoại cô gọi hiện rõ trong điện thoại sở làm.

Lan vừa giận vừa tức vì bị Tứ chọc quê nhưng cô vẫn nhìn Tứ cười cười rồi ôm Tứ, tay sờ soạn người Tứ. Tứ cảnh giác nhưng không biết sẽ bị gì? Đột nhiên Lan dùng hai ngón tay kẹp một miếng da hông của Tứ, vặn tréo, răng nghiến lại “Chọc quê tôi! Cho biết thế nào là lễ độ!” Tứ nhảy dựng lên “Ui da! Đau quá! Buông ra!”.

 

Phạm Thành Châu

Năm Mão

Phạm Thành Châu

ăm nay là năm Mão, cầm tinh con Mèo. Các báo Xuân làm gì cũng có một bài về mèo. Lịch thì có hình con mèo. Nhà nào cũng có mèo, ai cũng biết rõ về nó, chẳng có gì lạ, nên viết sao cho độc giả mới đọc nửa chừng thì không thèm đọc nữa mới thật là khó. Thông thường, người ta viết nhiều nhất là về những nhân vật (đúng ra là những danh nhân đã chết) có tuổi con mèo, cũng có người viết về những năm Mão trong lịch sử. Cứ lôi bài cũ (báo xuân) từ mười hai năm trước ra xào nấu, thêm chút gia vị vào là thành bài của mình. Hoặc cứ lấy quyển mười Hai Con Giáp ra chép lại. Tôi cũng chẳng hơn gì những vị đó, nhưng có để tâm sưu tập những bài về mèo từ các báo đã đăng, dành dụm những tài liệu, tin tức liên quan đến con mèo, nay kể ra, để bạn đọc giải trí trong mấy ngày xuân. Người ta nói Chữ Mão, tiếng Tàu nghĩa là thỏ, tiếng Việt nghĩa là mèo (?) Tôi không biết chắc nhưng lịch Tàu thì để hình con thỏ vào năm Mão. Người miền Trung và miền Nam gọi mão là mẹo (tí, sửu, dần, mẹo, thìn, tị…) Tiếng Anh gọi mèo là cat, tiếng Pháp là chat, tiếng Đức katze, tiếng Tây Ban Nha gato, tiếng Nhật neko, tiếng Ả Rập kitte… Con mèo có thể kêu khoảng sáu mươi thứ tiếng khác nhau để bày tỏ cảm nghĩ của mình, đặc biệt nó gào thét khi làm tình, nhưng đối thoại với người, nó chỉ kêu meo, meo để xin ăn mà thôi. Cũng có khi nó kêu rù rù nho nhỏ lúc bạn âu yếm nó hoặc lúc nó dụi đầu vào người bạn để chờ được vuốt ve. Có lẽ vì các cô bồ nhí của mấy ông già cũng nũng nịu kiểu đó nên được gọi là mèo. Chính mắt tôi thấy trong TV, một con mèo nói tiếng Mỹ. Bà chủ nói gì, nó nói theo (độ năm ba tiếng thôi). Bác sĩ thú y nói trong thanh quản con mèo đó có dị tật. Hình như chuyện Ba Giai Tú Xuất có kể, Ba Giai đánh cuộc với cô hàng nước rằng con mèo cô ta biết tiếng người. Cô hàng nhận lời, Ba Giai xách tai con mèo lên, bấm móng tay vào tai mèo và hỏi “Của cô hàng tròn hay méo?”, con mèo đau quá kêu lên: “Méo, méo!”. Có vài chuyện vui về mèo. Một ông quá lười biếng nên chết đói. Xuống âm phủ, Diêm Vương phán: “Nhà ngươi lười quá nên ta cho ngươi đầu thai làm con mèo, phải tự mình bắt chuột mà ăn.” Anh ta năn nỉ Diêm Vương: “Xin ngài cho con làm con mèo đen có chấm trắng trên mũi.” Diêm Vương ngạc nhiên “Để làm gì?” “Thưa, ban đêm con nằm trong bóng tối, bọn chuột thấy chắm trắng tưởng hột cơm, mò đến, con bắt ăn thịt, khỏi phải đi đâu cả.” Một con mèo khác rình hoài mà không bắt được chuột, nó giả giọng chuột kêu chít, chít! Bọn chuột tưởng đồng loại, bò ra khỏi hang, bị mèo bắt ăn thịt. Ăn xong mèo gật gù. Biết ngoại ngữ cũng dễ sống hơn bọn không chịu đến trường sinh ngữ để học thêm. Một chuyện vui khác. Cô giáo bảo học trò tả con mèo. Một cậu viết: “Nhà em có một con mèo, nhưng em chưa thấy nó, mẹ em cũng chưa thấy nó. Mẹ em nói -Ba mầy có mèo, nhưng tao chưa bắt được. Trước sau gì tao cũng tìm ra.”Một lần khác, cô giáo bảo tả con khỉ, cũng cậu học trò đó, viết “Nhà em có nuôi một con khỉ. Một buổi sáng chủ nhật, có một cô đến nhà em, ba em chạy ra bảo -Đừng vô nhà, có con khỉ già ngồi trong đó!”
Mèo bự nhất, có thể nặng từ sáu đến mười kí lô, đó là giống Main Coon, lai tạo từ mèo rừng Bắc Mỹ với mèo hoang tiểu bang Maine. Một ông bạn, gặp tôi, khoe rằng sắp lập một xí nghiệp nuôi mèo và chuột. Ông bạn giải thích: Giai đoạn đầu, tôi nuôi một mớ chuột, khi chuột sinh sôi nẩy nở nhiều rồi, tôi nuôi mèo, lấy chuột cho mèo ăn. Khi mèo lớn, sinh con đẻ cháu, tôi giết mèo, lấy da đem thuộc, làm áo ấm, ví, xách tay… cho quí bà, thịt mèo đem nuôi chuột. Vậy là vòng tròn khép kín, chỉ tốn công, khỏi tốn thực phẩm nuôi mèo và chuột. Anh ta nhờ tôi nghiên cứu giùm về con số chính xác, mèo sinh sản ra sao? Tôi tìm đọc về mèo và cho anh ta những số liệu sau: Mèo đẻ hai lứa một năm. Trong năm năm sống sót được hai mươi tám con, với mười lứa đẻ. Mèo mẹ sinh con, con sinh cháu, cháu sinh chắt, chút, chít … sau ba năm có được ba trăm tám mươi hai con, sau bốn năm, hai nghìn hai trăm con, sau năm năm, mười hai nghìn sáu trăm tám chục con… sau mười năm có hơn tám mươi triệu con. Anh bạn tôi sáng mắt lên. Giàu thấy rõ mà chẳng ai biết ! Sau đó tôi không còn gặp anh bạn đó nữa, cũng không nghe về Xí nghiệp mèo chuột của anh ta.

Toàn thế giới có sáu trăm triệu con mèo, riêng nước Mỹ có hơn bảy chục triệu con. Các bà thích nuôi mèo vì nó giúp các bà đỡ buồn chán (depress), coi như người bạn hiền lành. Nuôi mèo ở các nước Âu Mỹ phiền phức lắm, phải có bảng tên đeo vào cổ mèo, phải đi bác sĩ chích ngừa, khám bịnh, phải cho ăn đúng thực phẩm, phải tắm rửa, dọn vệ sinh cho nó (hốt phân), vì nhà luôn đóng cửa, mèo không ra ngoài phóng uế được, không như ở xứ ta, chút xương cá với mấy muỗng cơm là xong. Mèo, chó Âu Mỹ mà cho ăn như thế nó sẽ bị tiêu chảy, rụng lông rồi chết. Mấy ông bà Âu Mỹ thường chụp hình chó, mèo của mình, để rủi chó, mèo có đi lạc thì làm một bảng cáo thị, có đủ tên tuổi con vật với hình ảnh, số điện thoại của chủ rồi đem treo ở các ngã tư trong xóm. Ai tìm thấy thì cho chủ biết, nhận về. Có người nuôi mèo chung với chuột, vì mèo (Âu Mỹ) không ăn thịt chuột, và chó cũng không ruợt cắn mèo bao giờ. Nhưng mèo hoang thì cũng giống như mèo ở xứ ta. Chúng đi hoang vì chủ nó dọn nhà mà không mang chúng theo, chủ nhà mới không cho vô nhà. Mỗi năm ở Mỹ có cả triệu con mèo bị bỏ hoang. Xóm tôi ở, có mấy con mèo hoang, khuya nào chúng cũng đi lùng sục chuột bọ trong các vườn nhà người ta. Chúng thích nhất là trèo cây bắt tổ chim. Ở Âu Mỹ, bắt giết súc vật là phạm pháp, thế nên chim chóc sinh sôi nay nở khắp trong vườn, trong rừng. Vườn nhà tôi có rất nhiều chim đến làm tổ, khi thấy có trứng trong tổ (chúng làm tổ trong các buội cây rất thấp) tôi phải lấy thuốc trừ sâu bọ xịt dưới gốc cây, cành lá chung quang để mèo không đánh hơi được, nhờ vậy lũ chim non được sống sót. Có một bà Mỹ già, tối nào cũng đem thực phẩm mèo ra sau vướn nuôi lũ mèo hoang, có đến mấy chục con tụ tập, giành ăn, meo meo ồn ào, hàng xóm kêu cảnh sát. Không hiểu sao, cảnh sát lại cấm bà ta cho mèo ăn? Ở Âu Mỹ, mấy người già thích sống một mình, không muốn con cháu đến quấy rầy, thế nên có một bà cụ chết, mấy ngày sau, nghe mùi hôi, hàng xóm gọi cảnh sát đến. Mở cửa ra, có đến hàng trăm con mèo đang vây quanh xác chết, kêu gào vì đói. Sở Mục Súc phải đóng cửa, vây bắt từng con. TV chiếu, mèo lớn, mèo nhỏ chạy lung tung, trên lầu, trong bếp, trong kẹt tủ … Thông thường, sở bắt súc vật đi lạc về, nhốt vô chuồng, ai muốn nuôi thì đến xin. Mèo, chó nhiều quá, không ai xin thì phải giết bớt. Ở Việt Nam mà có mấy dịp đó thì các quán nhậu đặc sản phát tài. Một bà cụ Mỹ, có con mèo bịnh chết, bà ta sắm cho nó một quan tài giá năm trăm đô la, lại tốn một mớ tiền mua đất ở nghĩa trang súc vật để xây mộ cho nó. Thỉnh thoảng bà cụ đi thăm mộ, chuyện trò với vong linh con mèo thân yêu. Ở các xứ văn minh, con cái không có cái tình với cha mẹ như người Á Đông. Cha mẹ nuôi con như làm bổn phận, con đến tuổi trưởng thành là rời nhà cha mẹ, đi thẳng, họa hoằn lắm mới gọi điện thoại hỏi thăm. Mà cha mẹ cũng thích sống một mình trong nhà hoặc gửi thân nơi các nhà dưỡng lão, chờ ngày nhắm mắt xuôi tay. Họ không thích con cháu đến làm phiền. Thế nên, con mèo, con chó là bạn thân nhất của người già. Có mấy chuyện (cũ và mới) về mèo, kể ra đây để bạn đọc cho vui. Nursing Home (nhà già) tên là Steere ở Providence, Rhode Island có nuôi một con mèo đen trắng (có hình trên báo) tên là Oscar. Nó rất hiền và ngoan, các cụ thích vuốt ve, âu yếm. Nhưng nó có tật lạ là hễ tối nào nó nhảy lên giường người nào nằm thì làm gì người đó, hôm sau sẽ chết. Có lần, người ta đem bỏ nó lên giường một người hấp hối, nó nhảy xuống chạy qua phòng một người mạnh khỏe mà nằm. Quả nhiên, hôm sau, người hấp hối hồi tỉnh còn người mạnh khỏe kia, tối ngủ rồi ngủ luôn, không dậy nữa (chết). Đảo Peratjio ở Ấn Độ Dương, không có người nhưng lại có hàng nghìn con mèo. Số là năm 1850, có một chiếc tàu biển bị đắm vì đá ngầm, những người sống sót lên được đảo nhưng cũng chết sau đó vì bịnh dịch, chỉ còn vài con mèo, chúng sống nhờ bắt cá ven bờ biển. Đến nay, ghé vào đảo đó, vẫn thấy đầy mèo. Đảo Ishima ở Nhật có quá nhiều chuột, người ta bèn đem mèo các nơi khác đến bắt chuột, ít lâu sau, chuột hết sạch mà mèo thì đông hơn chuột trước đây, mà lại không có gì ăn, chúng vào bếp ăn vụng, ra chợ rình vồ thịt cá, tha chạy đi, người ta đi chợ, chúng cũng nhảy vô giỏ cướp thịt cá. Bài báo không nói cách giải quyết nạn mão mãn ra sao?

Năm 1902, Walter William, một nha sĩ đến Tahiti hành nghề ở thủ đô Papeete, ông ta chữa răng cho quốc vương Pomare giỏi quá nên quốc vương tặng ông ta một hòn đảo, chỉ có dừa chứ không có người. Đến nơi thì thấy toàn chuột. Ông ta quay về thủ đô Papeete treo bảng mua mèo, được hơn hai trăm con, đem qua đảo cho bắt chuột. Chuột không còn, mà dân số mèo lại tăng lên, nhưng mèo không phá hại như chuột, không đục khoét dừa non và mèo cũng biết ra bờ biển rình bắt cá sống qua ngày. Ngày 2 tháng 9 năm 2009, ở tiểu bang Texas, ông Gil Smith lái xe từ thị xã Gilbert đến thành phố Kearny, trên quãng đường một trăm hai mươi cây số. Ông ta không biết có con mèo của mình đang ôm cứng cái bánh xe dự phòng dưới gầm xe. Nếu nó buông chân, ắt bị xe sau cán chết. Khi đến nơi, nghe mèo kêu, ông ta đem nó ra rồi gọi báo chí, truyền hình đến khoe con mèo khôn ngoan. Ngày 26 tháng 8 năm 2010, bà quả phụ Monika Hoppert, sáu mươi tuổi ở Studthgen, nước Đức, kêu thợ đến thay bồn tắm. Ông thợ đặt bồn tắm mà không biết có con mèo dưới đó. Hàng xóm nghe mèo kêu mà không biết từ đâu, qua hỏi, bà Monika Hoppert bèn cho người dở bồn tắm lên. Con mèo nằm trong đó mấy tuần mà không chết. Trước đây, nó nặng gần sáu kí lô, đem ra chỉ còn một kí sáu. Vậy mà nó sống được ! Năm 2008 cô bé Kirstas Hicks ở Adelaide, Úc châu, đi du lịch với gia đình, nhân tiện ghé thăm ông bà ngoại, cô đem con mèo gửi cho ông bà ngoại (ở cách nhà cô một nghìn sáu trăm cây số). Đi nghỉ hè về thì ông bà ngoại báo con mèo đi đâu mất rồi, tìm không ra. Một năm sau, một buổi sáng, mẹ cô bé Kirstas Hicks thấy một con mèo ốm trơ xương, trụi lông, sút móng, khắp mình đầy vết thương lở loét nằm trước cửa. Thấy tội nghiệp, bà ta đem vào nhà cho ăn. Khi cô bé Kirstas Hicks đi học về thấy thì kêu lên -Con Howie của con đây mà! Thì ra con mèo đã vượt một nghìn sáu trăm cây số, băng qua sa mạc, rừng rậm, sông hồ, chiến đấu với thú dữ để sống còn mà về với cô chủ nhỏ. Ở Việt Nam, trước đây, người ta bảo ăn thịt mèo xui (mèo đến nhà thì khó, chó đến nhà thì sang), về sau, thịt mèo, thịt rắn được xếp vào đặc sản. Thế nên, ở thôn quê, các tay buôn thu mua rồi chuyển hết mèo với rắn lên thành thị để cung cấp cho các quán nhậu. Không có mèo và rắn bắt chuột nên chuột sinh sôi, nẩy nở đầy đồng, phá hại mùa màng, cũng may, sau đó, lại dấy lên phong trào nhậu chuột đồng, người ta lại đổ xô đi bắt chuột để cung phụng cho mấy ông thần ve chai. Thế là cân bằng sinh thái !

Bây giờ kể chuyện đời xưa về con mèo. Đó là chuyện Linh Miêu Hoán Chúa đời Tống bên Tàu. Chuyện hơi dài dòng, xin kiên nhẫn và cũng xin hiểu rằng. Chuyện đã được tiểu thuyết hóa thành dã sử (Vạn Huê Lầu?) thành tuồng hát, với tình tiết gay cấn, lâm ly và bao giờ kết thúc cũng có hậu. Vị nào trên sáu mươi tuổi ắt đã từng xem sách hoặc xem hát bộ (Bao Công Tra Án Quách Hòe) xem cải lương (Linh Miêu Hoán Chúa) ắt còn nhớ.

Chuyện xảy ra thời Ngũ Đại Tàn Đường, khoảng thế kỷ thứ 10. Lúc bấy giờ, bên Tàu, giặc giả khắp nơi, mỗi người hùng cứ một phương. Có Quách Ngạn Oai, là nguyên soái Phàn Châu, tự xưng làm vua, lập nên nhà Hậu Châu. Ngạn Oai chết, Sài Vinh, xuất thân bán dù, là cháu vợ Ngạn Oai, nối ngôi, hiệu là Châu Thái Tôn. Bấy giờ Triệu Khuôn Dẫn, em kết nghĩa với Sài Vinh, làm chức Kiểm Điểm Sứ, nắm binh quyền. Châu Thái Tôn (Sài Vinh) chết, con là Tông Huấn, mới bảy tuổi lên nối ngôi. Nhân giặc Khiết Đơn quấy phá biên cương, Khuôn Dẫn đem quân tiểu trừ. Khi kéo binh đến Trần Kiều thì các tướng bàn nhau tôn Khuân Dẫn làm vua, truất phế Tông Tuấn. Khuôn Dẫn lập nên nhà Tống. Sử Tàu gọi vụ đảo chánh nầy là Binh Biến Trần Kiều, năm 960. Nhà Tống truyền ngôi mấy đời, đến đời Tống Chơn Tông thì xảy ra vụ án Linh Miêu Hoán Chúa.

Chuyện như thế nầy. Tống Chơn Tông có hoàng hậu họ Lưu, không có con, vua lại yêu thương một quí phi tên là Lý Thần Phi. Khi Tống Chơn Tông xuất chinh đi đánh Khiết Đơn thì Lý Thần Phi có bầu và sinh con trai. Lưu hoàng hậu đến thăm Lý Thần Phi, thấy Lý Thần Phi đang hôn mê, bèn sai thái giám Quách Hòe đem một con mèo thay vào và đưa đứa bé cho cung nữ Thể Vân đem giết đi. Thể Vân đem đứa bé giao cho thái giám Trần Lâm rồi nhảy xuống hồ tự tử. Trần Lâm trao đứa bé cho Lộ Huê Vương là anh em chú bác với Tống Chơn Tông. Lấy lý do Lý Thần Phi sinh quái thai, Lưu hoàng hậu bắt nhốt Lý Thần Phi vào Bích Vân Cung (Tống Chơn Tông đi đánh giặc chưa về), sau đó sai thái giám Quách Hòe đốt Bích Vân Cung, cố ý giết Lý Thần Phi. Âm mưu bị cung nữ Khấu Thừa Ngự biết, bèn báo cho Lý Thần Phi trốn thoát, còn mình giả làm Lý Thần Phi chịu chết cháy. Như vậy, coi như Tống Chơn Tông không có con nối dõi. Khi Tống Chơn Tông chết, triều đình đề nghị cho con Lộ Huê Vương lên nối ngôi, đó là Triệu (?) Trinh (con Lý Thần Phi nhưng không ai biết). Triệu Trinh làm vua tức Tống Nhân Tông. Thời Tống Nhân Tông được xem là cực thịnh của vương triều nhà Tống. Tống Nhân Tông có nhiều nhân tài như Vương An Thạch, Âu Dương Tu, Phạm Trọng Yếm… (Nhân vật tể tướng Vương An Thạch nầy đã làm một việc có liên quan đến Việt Nam thời bấy giờ. Vương An Thạch chủ trương đánh chiếm Việt Nam nên cho dự trữ lương thực, khí giới ở các tỉnh sát biên giới với Việt Nam. Ung Châu là nơi tập trung quân đánh đường bộ vào Việt Nam, Khâm Châu, Liêm Châu là cánh quân đường thủy. Biết được âm mưu của kẻ thù, vua Lý Nhân Tông sai tướng Lý Thường Kiệt và Tôn Đản đem quân đánh vào các nơi đó, tịch thu và phá hủy tất cả lương thực, khí giới, tiêu diệt và bắt làm tù binh hàng vạn quân địch. Tướng Tàu là Trương Thủ Tiết và Tô Giám bị chém đầu). Đứng đầu bên văn có đại thần Bao Công, bên võ có Tống Địch Thanh. Bao Công tên là Bao Chửng, đậu tiến sĩ đời Tống Thái Tông, làm quan đến chức phủ doãn (đô trưởng) phủ Khai Phong, là kinh đô nhà Tống. Bao Công nổi tiếng là người xét án giỏi và công minh. Đọc truyện Tàu “Thất Hiệp Ngũ Nghĩa kể chuyện về bao Công rất hấp dẫn. Một lần đi phát chẩn cho nạn nhân bão lụt sông Hoàng Hà, đến phủ Đại Danh, Bao Công bị gió thổi bay mất mũ, bèn nghi ngờ có điều gì oan khuất trong thiên hạ đây, nên cho dừng quân, viết trát, sai hai thuộc tướng là Trương Long, Triệu Hổ đi bắt Lạc Mạo Phong (gió thổi bay mũ). Hai tướng lên đường mà không biết đi đâu để bắt Lạc Mạo Phong. Gió lại nổi lên, thổi bay cái trát vào thúng cải của Quách Hải Thọ, là tên bán cải kiếm tiền nuôi mẹ bị mù. Thế là hai tướng bắt Quách Hải Thọ về nộp cho Bao Công. Bao Công thấy bắt người vô tội mới đền tiền và thả về. Quách Hải Thọ mang tiền về lò gạch, là nơi cư ngụ, khoe với mẹ. Người mẹ mù đó chính là Lý Thần Phi và Quách Hải Thọ là con nuôi của bà ta. Nghe rõ sự tình, Lý Thần Phi sai Hải Thọ đến gặp Bao Công và bảo Mẹ tôi truyền ngài đến cho mẹ tôi dạy việc. Bao Công sinh nghi, bèn đích thân đến lò gạch, là nơi cư ngụ của Lý Thần Phi. Bao Công phải chui vào lò gạch còn bị bà già mù dõng dạc. Nếu phải Bao Long Đồ sao chưa quì xuống mà ra mắt ta? Bao Công không biết đó là Lý Thần Phi, nhưng là quan xử án nên phải chịu nhục để tìm cho ra oan khuất của người dân. Bà già mù (Lý Thần Phi) tra hỏi Bao Công đủ điều. Sau khi biết chắc đó là Bao Công, bà ta mới kể lại mọi chuyện. Xác nhận được bà già mù là Lý Thần Phi, Bao Công về triều tâu lại với Tống Nhân Tông (là con của bà Lý Thần Phi, được thái giám Trần Lâm giao cho Lộ Huê Vương làm con nuôi, sau được tôn làm vua). Tống Nhân Tông cho bắt Quách Hòe, tra khảo. Đánh đập đến gần chết, Quách Hòe cũng không chịu khai vì sợ liên lụy đến Lưu thái hậu (trước là Lưu hoàng hậu, chủ mưu). Quách Hòe nói -Có đánh tao chết thì xuống âm phủ, họa may tao mới khai với Diêm Vương. Bao Công bèn thiết trí một nơi âm u, lạnh lẽo, giả làm âm phủ, có diêm vương, có ngưu đầu mã diện, có hồn ma kêu khóc… rồi đánh cho Quách Hòe bất tỉnh và đem đến nơi âm cảnh giả đó. Quách Hòe tỉnh dậy, tưởng mình chết thật, mới khai ra mọi chuyện. Cuối cùng, kẻ ác đền tội, Lý Thần Phi được trời cho sáng mắt, đoàn tụ với con (là vua Tống Nhân Tông), Quách Hải Thọ được phong làm quan nhưng chỉ xin lãnh lương, nằm nhà chứ không chịu đi nhận việc.

Chuyện con mèo của năm Mão đến đây là hết.

Phạm Thành Châu

(chaupham3276@gmail.com)

Tình Già

Ngô Tằng Giao

“Tình già” là một bài thơ nổi tiếng được công bố lần đầu năm 1932 của nhà văn-nhà thơ Phan Khôi. Tác phẩm này được xem như là tác phẩm thơ tự do đầu tiên mở đường cho phong trào Thơ Mới ở Việt Nam.

Bài thơ nói về một chuyện tình đôi lứa, yêu nhau tha thiết, đã cùng thề non hẹn biển. Nhưng sự đời lại khiến cho họ phải xa nhau… 24 năm sau, họ tình cờ gặp mặt nhau, và chỉ biết liếc nhìn nhau:

“Hai mươi bốn năm sau.
Tình cờ đất khách gặp nhau.
Đôi cái đầu đều bạc.
Nếu chẳng quen lung đố nhìn ra được.
Ôn chuyện cũ mà thôi.
Liếc đưa nhau đi rồi,
Con mắt còn có đuôi”

Chuyện vợ chồng trẻ chia tay nhau được coi là… chuyện dài “nhân dân tự vệ.” Nhiều trai trẻ than rằng mối tình đẹp với “con nai vàng ngơ ngác” buổi ban đầu tan mất rồi? Chẳng còn bóng dáng con nai vàng ngơ ngác đâu cả. Sau khi cưới nàng về được một thời gian chỉ thấy con sư tử Hà Đông mà thôi!

Người ta còn nhắc chuyện ở nước Cu Ba rằng ông chồng thú nhận: “Hôn nhân là một điếu xì gà. Càng ngon ta càng hút nhiều, càng hút nhiều càng ngắn đi!”. Thời vợ ông ấy nói: “Hôn nhân đúng là một điều xì gà, và tất cả có thể đốt cháy chỉ bằng một que diêm thôi!”.

Nhưng chuyện vợ chồng già mà còn bỏ nhau khiến nhiều người lấy làm lạ. Người ta vẫn cứ nghĩ rằng sau hôn nhân, nhất là khi về già, dù hai vợ chồng có trở nên hai mặt của một đồng tiền, tuy không nhìn nhau nữa nhưng cũng vẫn kề lưng nhau chứ? Lời Phó Tổng Thống Al Gore đấy! (…they just can’t face each other, but still they stay together). Điều đó không còn là… chân lý nữa rồi hay sao!

Tuổi tuy già nhưng máu ghen đôi khi vẫn còn nguyên như hồi trẻ. Báo The Telegraph tại nước Anh đưa tin: một cụ ông nộp đơn ly dị sau khi khám phá những lá thư trong cuộc tư tình của bà vợ mình hơn 60 năm trước. Hồ sơ toà án ghi nguyên đơn tên gọi là Antonio C, 99 tuổi và vợ là Rosa C, 96 tuổi. Hai người chung sống với nhau từ 77 năm trước. Theo nguồn tin UPI, cụ bà thú nhận chuyện ngoại tình nhưng không thể thuyết phục cụ ông ở lại. Hai cụ có 5 con, 12 cháu và 1 chắt. Đây là trường hợp ly dị cao tuổi nhất thế giới – kỷ lục trước, năm 2009, là giữa một đôi vợ chồng người Anh 98 tuổi.

Nguồn tin từ nước Nhật: Một bà cụ 79 tuổi đã bị bắt sau khi đánh chồng mình đến chết, vì ông đã ngoại tình từ cách đây 40 năm. Theo đó, bà Yoshiko Suzuki đã dùng 1 cây gậy dài để đánh chồng mình, ông Masaharu, 79 tuổi, cho đến chết khi cả 2 đang ở nhà riêng tại thị trấn Nakai, tỉnh Kanagawa. “Chồng tôi đã bị mất việc vì ngoại tình với một phụ nữ khác từ cách đây 40 năm. Chúng tôi thường xuyên cãi nhau về việc này”, bà cụ Yoshiko nói với cảnh sát sau khi bị bắt.  Cặp vợ chồng già hiện đang sống với con gái 43 tuổi. Người con đã vắng mặt vào buổi tối xảy ra chuyện này.

Tại Hoa Kỳ, tin vợ chồng cựu Phó Tổng Thống Al Gore & Tipper chia tay sau 40 năm mặn nồng chăn gối cũng đã làm nhiều người thắc mắc. Mới đây lại có tin ông Tổng Thống Putin của nước Nga cũng vừa ly dị vợ sau đúng… 30 năm thành hôn.

Nhân đó có người còn kể chuyện nằm mơ thấy người bạn thân qua đời hiện về khoe rằng: “Tớ được đưa ra trước tòa phán xét của Thượng Đế. Có tiếng loa: ‘Ai có vợ, và đã sống với vợ từ 30 năm trở lên, hãy đứng sang bên phải.’ Tớ theo tiếng loa, chạy vội đứng sang bên phải. Đông người lắm! Ai trông cũng thiểu não quá sức. Chừng mấy phút sau, bỗng lại nghe có tiếng vọng từ trên trời cao: ‘Các con yêu quý, lúc còn sống, các con có vợ và đã ở với vợ được trên 30 năm, như thế các con được coi như đã ở luyện ngục cả mấy trăm năm rồi, các con coi như đã gột được sạch mọi tội lỗi và đáng được lên Thiên Đàng ngay lập tức để hưởng Thiên Nhan Chúa’. Tớ mừng quá xá!”.

Ngày nay tại các xã hội Tây phương, vụ vợ chồng già bỏ nhau sau ba, bốn chục năm sống chung trong hòa bình chen lẫn với chiến tranh lạnh cũng đã trở nên khá quen thuộc. Đối với các cặp vợ chồng già Việt Nam thì không rõ lắm, nhưng có nhiều người “báo cáo” rằng cảnh khá phổ biến là khi ông leo lên tầng trên thì bà xuống tầng dưới, ông chuồn vào trong phòng ngồi gõ computer check “meo” thì bà né ra ngoài phòng khách ngồi xem Asia hay Thúy Nga Paris By Night hoặc phim bộ… Đại Hàn, bà cất giọng lải nhải thì ông làm thinh như đang tập trung… thiền định.

Theo Giáo sư Pepper Schwartz của đại học Sociology Univ of Washington, các cặp vợ chồng già tưởng họ hiểu rõ nhau hơn theo năm tháng, xích lại gần nhau hơn theo thời gian nhưng thật sự ra không phải như vậy đâu. Không ai hiểu ai hết. Giáo sư Schwattz cho rằng ngày nay tiến bộ khoa học và ngành y khoa đã giúp con người sống thọ hơn xưa rất nhiều.  Những năm bonus dư thừa đã tạo điều kiện cho quý cụ ông và cụ bà có cơ hội để hưởng thụ cuộc sống cho đúng nghĩa của nó.

Theo US Census thì lối ½ cặp vợ chồng già đã quyết định chọn giải pháp rã đám. Tây họ gọi những chuyện bực dọc qua lại giữa ông và bà là những irritants làm hại thần kinh. Ngày nay ly dị không còn được xem như vấn đề cấm kỵ taboo nữa. Bởi thế các cặp vợ chồng già có khuynh hướng tha hồ bắt chước theo bọn trẻ, ở không được thì bỏ nhau. Ngày xưa các cụ thường phải cắn răng cố gắng chịu đựng để tránh rắc rối cũng như để giữ thể diện gia đình và muốn được bình an cho đến lúc đi theo ông theo bà. Ngày nay họ nghĩ rằng mình chỉ có một đời sống mà thôi, tội gì không sống cho đáng sống.

***

     Oscar Wilde từng nói: “Ðàn ông lập gia đình vì mỏi mệt, đàn bà vì tò mò, cả hai đều thất vọng.” Nhưng tuy nói thế chứ thời nay người ta vẫn thấy còn có những cảnh “chồng già vợ trẻ là tiên”. Điển hình là cụ ông Hugh Hefner trùm tạp chí Playboy đón năm mới 2013 bằng lễ cưới với người tình trẻ kém cụ những… 60 tuổi. Cụ năm nay 86 trong khi Crystal Harris mới 26. Không lâu sau đám cưới, có nguồn tin trên Celebuzz cho biết, cặp vợ chồng chênh lệch tuổi tác nhất làng giải trí thế giới này lại còn mong muốn sớm có con chung.

Lại nữa, nào là cuộc hôn nhân của nữ danh ca Celine Dion, 44 tuổi và Rene Angelil, 70 tuổi đã kéo dài 19 năm. Rene Angelil là người quản lý của Celine Dion từ khi nàng mới 12 tuổi. Nào là đạo diễn Clint Eastwood, 82 tuổi có vợ là phóng viên người Mỹ Dina Ruiz Eastwood, 47 tuổi. Họ kết hôn năm 1996. Cũng phải kể tới chuyện diễn viên Dick Van Dyke, 86 tuổi, kết hôn với chuyên gia trang điểm Arlene Silver, 40 tuổi, vào tháng 03 năm 2012.

Một trường hợp hy hữu nữa. Ðó là trường hợp của cụ ông Paul Walker, 88 tuổi, quyết định làm đám cưới với cụ bà Ann Thayer, 87 tuổi, tại một trung tâm phục hồi sức khỏe ở Lewiston, tiểu bang Main. Hai người gặp nhau lần đầu tiên ở một nhà thờ cách đây 17 năm và bắt đầu hẹn hò từ đó. Cả hai quyết định làm đám cưới sau khi bị một số nhân viên bệnh viện chọc ghẹo ít tuần trước đó. Mỗi ngày, cụ bà Thayer đều ghé thăm cụ ông Walker tại bệnh viện Marshwood Center, nơi cụ ông đang tập phục hồi sức khỏe. Cụ bà nói cụ có “những năm tháng rất đẹp” với cụ ông. Cụ ông và cụ bà từng lập gia đình trước đây. Giám đốc bệnh viện nói với báo Sun Journal rằng đây là lần đầu tiên cơ sở y tế này có đám cưới. Cụ bà Thayer nói cả hai người bàn chuyện đi hưởng tuần trăng mật tại Bermuda, khi cụ ông khỏe mạnh trở lại.

***

      – Câu chuyện “Tái hồi Kim Trọng” tại nước Anh: Hai vợ chồng lại kết hôn lần nữa sau gần 50 năm ly dị (9-2013).

Bà Ollie Ingram ly dị người chồng đầu tiên Wills Holmes vào năm 1965. Sau khi chia tay cả hai đều kết hôn với người khác. Chồng bà Ingram mới chết cách đây 3 năm ở tuổi 72. Vợ thứ 3 của ông Holmes mới chết mùa hè năm ngoái. Rồi 18 tháng trước đây bà đã 76 tuổi còn ông đã 79 tuổi cùng gặp lại nhau trong một cuộc họp mặt gia đình nhân lễ Giáng Sinh do cô con gái là Lisa tổ chức. Bà Ingram kể với nhà báo: “Chúng tôi đồng ý là Holmes sẽ cùng ở chung trong lều của tôi đêm đó nhưng không ngờ là lại còn… chung giường nữa!”

Thế là có màn nối lại tình xưa và chàng lại mang tặng nàng chính cái nhẫn mà chàng đã mua tặng nàng khi nàng 17 xuân xanh. Cụ bà cho biết tình xưa tan vỡ vì lúc đó còn trẻ quá, chưa chín chắn. Nay thì chắc sẽ mãi mãi bên nhau!

– Câu chuyện của cụ ông George Sanders, 86 tuổi, bị can tội giết vợ tên Ginger Sanders tại Arizona là một câu chuyện tình già thật đặc biệt.

Cụ bà Ginger bị bệnh đa xơ cứng (multiple sclerosis) từ năm 1969 và sau một thời gian ngắn bà phải đi xe lăn. Cụ ông George là cựu quân nhân trong trận thế chiến thứ hai. Khi bà phải đi xe lăn thì ông là người săn sóc cho bà. Ông nấu ăn, dọn nhà, giặt đồ và giúp bà trang điểm. Ông đưa bà đi tiệm làm tóc. Khi bà làm móng tay, ông cầm tay bà để cho thợ làm móng tay có thể săn sóc bàn tay cho bà.

Thời gian trôi qua, cụ ông cũng già đi. Tim ông bị yếu và phải dùng máy trợ tim. Tình trạng sức khoẻ của cụ bà cũng tệ đi. Bà bị thêm chứng bệnh gọi là gangrene (bệnh hoại thư) một chứng bệnh lở loét da rất trầm trọng. Bác sĩ muốn bà nhập bệnh viện để cắt đi những ngón chân bị hủy hoại, và sau đó đưa bà vào viện dưỡng lão để bà có thể được nhân viên chăm sóc.

Đó cũng là tình cảnh tuyệt vọng cho bà. Đó là lý do bà muốn chết. Bà muốn được chết bên người chồng yêu quý thương yêu mình. Bà năn nỉ cụ ông làm cho bà chết. Nhưng ông nói với bà là ông không thể giết bà được. Ông kể cho cảnh sát viên là bà nói… “Ông có thể làm được!”

Sau đó cụ ông lấy khẩu súng lục, quấn khăn tắm chung quanh để không bị lạc đạn. Bà hỏi ông: “Cái nầy có đau lắm không?”  Ông trả lời: “Không đau đâu. Bà sẽ không có cảm giác gì hết.” Thế là bà nói: “Vậy ông làm đi, làm đi, làm đi”… và như thế… cụ ông đã bóp cò và cụ bà đã ra đi.

Sau đó cụ George bị bắt và bị truy tố về tội giết người có chủ ý, một tội danh có thể bị kết án tử hình hay chung thân. Khi ra toà, người con của cụ ông nói với Toà là gia đình không muốn cụ ông bị truy tố. Con trai cụ nói với Toà: “Tôi muốn Toà biết là tôi yêu mẹ tôi vô cùng; và tôi cũng muốn quý Toà biết là tôi cũng yêu cha tôi như thế.”

Lời chứng của người con bị ngắt quãng vì tiếng khóc nấc. Người con giải thích “cha mẹ ông sống với nhau hơn 62 năm, và cha ông phải nuôi dưỡng, săn sóc mẹ ông ngày này qua ngày khác.” Ông nói tiếp: “Tôi tin là việc đi khám bác sĩ, cuộc hẹn với bác sĩ, những cú phone về sức khoẻ và thời gian chờ đợi cho có giường trống ở bệnh viện đã giúp cha mẹ tôi làm một quyết định chung. Do đó, tôi không quy lỗi ở cha tôi.” Ông nghẹn ngào, nói tiếp: “Ai cũng có hình ảnh một anh hùng trong cuộc đời của họ… người anh hùng trong cuộc đời tôi là cha tôi.”

Cụ ông George chỉ có khoảng một phút để nói về tình yêu của cụ dành cho người vợ: “…tôi gặp Ginger khi nàng 15 tuổi và tôi yêu nàng kể từ ngày ấy. Tôi yêu nàng khi nàng 81 tuổi… Đó là nguồn ân phước và tôi rất sung sướng được săn sóc cho nàng.”  Rồi cụ ông nói tiếp: “Tôi lấy làm tiếc và buồn vì đã gây ra cái đau thương này.”

Công tố viên, người đại diện nhà nước để truy tố cụ ông, đã yêu cầu quan Toà đừng phạt cụ vào tù, và đề nghị tù treo. Công tố viên nói với Toà: “Thưa tôi không biết xã hội này sẽ đi về đâu với những trường hợp như thế này, tuy nhiên không ai trong phiên toà ngày hôm nay quên được nạn nhân trong trường hợp này.”

Khi quan Toà sửa soạn đọc bản án, cả gia đình cụ ông ngồi yên lặng để nghe phán quyết. Còn cụ ông đứng bất động, run rẩy trước vành móng ngựa. Quan Toà nhìn thẳng vào mắt của bị cáo, tuyên bố với giọng nhẹ nhàng, tuyên phạt bị cáo 2 năm tù treo không có giám sát. Quan Toà nói: “Quyết định của ông đã vi phạm công lý với lòng thương xót (tampers justice with mercy).”

LS. Ngô Tằng Giao

 

 

Mưu Sinh Ở Mỹ và Tuổi Già

Phạm Thành Châu

Đây là chuyện kể của mấy ông bà già người Việt ở Mỹ. Già rồi, hưu trí, không biết làm gì, ngồi nhớ chuyện xưa. Tôi nhớ rất nhiều chuyện xưa, nếu kể ra đây, biết bao giờ cho hết! Chỉ một chuyện kể sau đây thôi, cũng khiến bạn, đọc mệt nghỉ. Đó là chuyện cách nay khoảng ba mươi năm, từ ngày đầu đến xứ Mỹ, tha phương cầu thực với hai bàn tay trắng cho đến hôm nay, tuổi đã trên tám mươi, sắp lên đường vào cõi hư vô. Bôn ba một kiếp ngưòi, để rồi gia tài đem theo với mình cũng chỉ là cỗ quan tài!

Đúng ra, đây là những “Kỷ niệm” mà đa số những người lớn tuổi đến Mỹ đã trải qua. Với thế hệ trẻ, về sau, khi đọc bài nầy, chúng sẽ không ngờ ông bà, cha mẹ chúng đã phải mưu sinh với quá nhiều khổ cực, vất vả nơi xứ người.

            Mấy ông, bà HO, khi đến Mỹ, tuổi đã trên năm mươi, lo kiếm tiền mà nuôi con, lo chuyện ăn, ở, thời gian, tâm trí đâu mà học với hành như bọn trẻ! Phần khác, sức lực đã cạn kiệt vì cả chục năm trong nhà tù Cộng sản, mang trong người nhiều thứ bịnh, nên chỉ có thể làm được những việc lao động nhẹ với đồng lương ít ỏi.

Năm 1991, gia đình chúng tôi qua Mỹ theo chương trình HO. Người bạn đồng môn (Quốc Gia Hành Chánh) vừa là bạn tù, là Ngô Đình Hoa, vượt biên qua trước, bảo trợ gia đình tôi về ở tạm dưới basement trong nhà anh ta. Ở miền Đông Bắc Hoa Kỳ, đa số các nhà đều có tầng hầm, gọi là basement. Người Mỹ xây nhà có cái basement nầy (ông bạn tôi đã mua lại) là để chứa máy giặt, máy sấy, máy nước nóng, máy điều hòa nhiệt độ (AC). Người Mỹ không nghĩ rằng sẽ có những người Việt tị nạn như gia đình chúng tôi sẽ vào ở trong đó. Thế nên họ đã bắt ống nước, ống hơi dẫn nhiệt, ống nước thải, dây điện… chạy lung tung trên trần basement, chẳng khác gì mấy cái xưởng máy trong phim trinh thám mà James Bond thường mò vô để truy tìm bọn tội phạm quốc tế.

Khi chúng tôi đến Mỹ thì ông bạn kêu thợ đến ngăn ra một phòng ở basement cho gia đình tôi trú ngụ. Anh thợ nầy, cũng người Việt, loại tay ngang, làm rất nhanh nhưng cũng rất ẩu tả. Anh ta chỉ làm bốn bức vách cách nhiệt với cửa ra vào là thành một cái phòng! Đến mùa đông, (thường lạnh dưới 0 độ C) hơi lạnh từ các kẻ hở của vách cách nhiệt, bốc ra như sương khói, thấy rõ như hơi lạnh trong ngăn đá của tủ lạnh vậy. Lạnh đến độ đắp mấy cái mền cũng lạnh, đắp không kỹ, hơi lạnh từ chỗ hở luồn vào như cái lưỡi của con ma le, liếm cái lưng, cái bụng, nên người cứ  run lên, vợ con cũng run cầm cập, ngủ không được. Vợ chồng tôi phải ôm thằng con hai tuổi vào lòng để truyền hơi ấm cho nó. Lúc mới đến Mỹ, chưa quen giờ giấc nên cứ đến một, hai giờ trưa (ở Việt Nam là khuya) là tôi buồn ngủ ríu mắt, nhưng tối lại, hai mắt cứ mở thao láo, nằm để thấm thía cái lạnh lẻo nơi xứ người.                                                 

Bạn sẽ hỏi “Sao không mua một cái máy sưởi điện về mà sưởi?” Có máy sưởi đấy chứ! Chủ nhà cũng có để sẵn một cái heater nhưng nhỏ chút xíu, mỗi cạnh chưa đến gang tay, để sát tay vào thì thấy ấm, nhưng dùng cho cả cái phòng thì chẳng hiệu quả gì. Thời đó chưa có cái heater to như cái nón như bây giờ. Mới đến Mỹ, như mán xuống phố, có biết mô tê gì! Tôi cứ nghĩ trên lầu, chắc ai cũng lạnh như mình, nhưng họ “quen rồi” mình than lạnh thì lòi cái “nhà quê” ra. Trước đó, đọc báo, tôi thấy ở Iceland, mùa đông, lạnh dưới 0 độ C mà người ta cho em bé ngủ ngoài trời, cho trẻ có sức đề kháng tốt, nên tôi nghĩ, ở Mỹ cũng vậy. “Lạnh cỡ nầy đối với người đã từng ở Mỹ, có lẽ là bình thường!”. Bấy giờ tôi chưa biết cái máy điều hòa nhiệt độ (AC) là gì cả! Mà cái máy nầy cứ chạy ầm ầm dưới basement, ngay cạnh phòng chúng tôi, chỉ thổi hơi nóng lên tầng trên, nên cái basement vẫn là cái tủ đá lạnh ngắt.

            Ở basement có thêm cái khổ nữa là nghe tiếng nước chảy trong các ống thoát nước. Tầng trên làm gì, dưới nầy biết hết. Nghe nước chảy ro ro mãi thì cầu cho trên đó tắm mau xong. Nước chảy cái ào rồi róc rách qua các ống bự trên trần basement lại tưởng tượng đến chất thải của con người đang vui vẻ jogging (chạy thể thao) vòng vèo trên đầu mình.

            Chắc bạn lại hỏi “Sao không “mu” (move) chỗ khác? Ăn eo phe (welfare, trợ cấp), có tiền chính phủ cho, tìm cái apartment mà thuê?” Thì tôi cũng nghĩ như bạn vậy. Nhưng hết trợ cấp thì tiền đâu mà trả tiền thuê nhà? Nhưng mùa hè, ở basement lại mát vì nó nằm dưới mặt đất. Hơn nữa, mình từ xứ cộng sản, đã từng ở tù khổ sai, ra tù vẫn đói rách, được vậy là tốt rồi. Tạm trú nhà bạn thì tiền trả tượng trưng thôi, dành giụm chút đỉnh, “rủi có gì!”, nơi xứ người còn xoay xở được. Đó là lo xa. Ngay chính tôi, khi còn ở Việt Nam, đi tù về mà lúc nào cũng chuẩn bị sẵn một cái xách nhỏ, đựng áo quần, mùng mền, thuốc men. Hễ nghe công an Việt Cộng gõ cửa là cầm luôn cái xách trong tay ra mở cửa. Có đi tù tiếp cũng đã chuẩn bị sẵn rồi. Thế nên, ông HO nào qua Mỹ, tìm được đồng nào, lận lưng đồng đó, xin đừng cười là keo kiệt.

            Trợ cấp của chính phủ chỉ đủ lây lất trong thời gian đầu, nên phải lo mà tìm việc sớm nếu không muốn cả nhà lâm nguy. Thế nên, khi đến Mỹ, không lâu, chúng tôi phải tìm việc làm. Nhưng muốn đi làm phải có chiếc xe là phương tiện đi lại. Nhờ vợ chồng Ngô Đình Hoa và các con của bạn đưa, đón mãi cũng bất tiện. Nhân tiện đây, xin cám ơn vợ chồng bạn Ngô Đình Hoa và các cháu đã vui vẻ giúp đỡ chúng tôi trong những ngày khó khăn khi mới đến xứ lạ còn ngơ ngáo. Một ông bạn cùng tù, Đinh Văn Kỷ, qua trước, xin đâu đó một chiếc xe cũ. Đi inspection (xét xe) không passed vì cái dè xe cọ vào bánh xe. Tôi đục cái dè cho hở xa bánh xe. Thật may! passed! Xong thủ tục cho chiếc xe, tôi lái đi làm. Không hiểu sao, đang ngon trớn, đến đèn đỏ, tôi đạp thắng, xe cứ chạy tuột, không chịu ngừng! May quá. Đường vắng! Tôi bỏ xe bên đường, đi tìm điện thoại công cộng (lúc đó chưa có handphone), nhờ cậu con của Ngô Đình Hoa đến chở về, xe thì câu đi sửa.

Ngày trước, tôi lái công xa đi làm nên qua Mỹ, tôi chỉ tập lái cho quen rồi đi thi lấy bằng lái không khó khăn lắm. Lúc thi lái (có ông Mỹ, giám khảo ngồi bên cạnh), tôi để ý và nhớ những con đường nào đã lái đi qua. Sau nầy, tôi giúp rất nhiều đồng hương đi thi lấy bằng lái, bằng cách tôi hướng dẫn họ lái xe (thi thử) qua những con đường mà giám khảo thường bảo thí sinh lái vào. Chỉ chạy vài lần là họ thuộc lòng, (còn nhớ cả những bảng stop), không còn lo lắng, bối rối khi có giám khảo ngồi bên cạnh. Đồng hương HO. mới qua, tiền đâu mà đóng học phí lái xe, cũng chưa có tiền mua xe. Xe cũ, dơ dáy, giám khảo không chịu ngồi vào. Tôi phải đem xe tôi cho họ tập lái. Trước hết, tôi đưa họ vào công viên, lúc vắng người, cho tập lái lòng vòng, đến khi vững tay mới cho ra đường phố. (Rồi mượn xe mới cho họ đi thi). Đường sá ở Mỹ tấp nập mà người tập lái thì ngơ ngáo, lóng ngóng. Khi tôi nhắc chừng, họ càng quýnh quáng! Cũng may, người Mỹ thấy cách lái xe đó là họ biết liền nên thường tránh đường cho xe qua. Lúc đó tôi không biết rằng. Người không có tên trong hợp đồng bảo hiểm xe mà gây tai nạn thì hãng không chịu bồi thường. Bây giờ nhớ lại mà lạnh người. Tính ra lúc đó tôi đã giúp vài ba chục gia đình, vợ chồng, con cái, khỏi tốn tiền học lái xe.

Khi đã có xe rồi, tôi tìm việc làm.Việc gì cũng làm, miễn có tiền là được. Chủ trả bao nhiêu cũng tốt vì tôi có biết mô tê gì mà so sánh hơn thua! Công việc đầu tiên của tôi là làm vệ sinh các cao ốc, nhưng bị người chủ thầu đồng hương bóc lột dữ quá. Tên chủ nầy, miệng dẻo quẹo, lúc nào cũng nói nhân đạo “Tội nghiệp đồng hương! Để tôi cho mấy anh lãnh tiền mặt, chính phủ không biết. Nếu biết, họ cắt eo-phe (trợ cấp) còn bỏ tù nữa” Sau nầy tôi (cùng với mấy ông HO) mới biết là hắn dọa rồi bắt mỗi người tụi tôi làm gấp ba người khác (mà tiền công chỉ tính một người)

            Sau khi chia tay với tên chủ đồng hương ác ôn, tôi tìm được job khác là rửa chén dĩa, nồi niêu, làm vệ sinh, phụ việc vặt cho mụ làm bếp của một nhà hàng người Á Châu (không phải người Việt). Nhiệm vụ tôi là buổi chiều đến sớm hút bụi nhà hàng, làm vệ sinh mọi nơi. Mụ nhà bếp cũng đến sớm để chuẩn bị thức ăn, đồ nhậu. Tối, khách mới đến. Mụ bếp nầy, tiếng Anh, chỉ dùng động từ “Tu quơ” (tay) để sai tôi. Chúng tôi đến sớm, chẳng có ai, nên mụ bắt tôi đấm lưng, bóp chưn, bóp tay cho mụ. Mụ khoảng gần năm mươi, mập nu, mắt một mí, híp lại như mắt heo luộc, trên ngón tay không thấy đeo nhẫn cưới, chắc còn là “nàng trinh nữ tên Thi”. Đấm bóp cho mụ ta xong tôi mới được làm việc khác. Một lần tôi đến, cửa mở nhưng không thấy mụ ta. Tôi đi hút bụi xong thì lấy đồ nghề đi dọn vệ sinh. Khi vô phòng vệ sinh nữ, tôi vô tình mở cửa một ngăn, thấy mụ ta ngồi chóc ngóc trong đó (mà không gài cửa!) Tôi dội ngược. Vậy mà tối hôm đó, mặt mụ ta hầm hầm. Tôi thấy thế báo với bà chủ nhà hàng, nghỉ việc. Có làm, mụ nhà bếp sẽ gièm pha, chủ cũng së cho nghỉ thôi.

           Sau đó, tôi xin làm thu ngân (cashier) cho một cây xăng. Cây xăng nầy của một ông chủ Mỹ và một mụ phụ tá người Á châu (không phải người Việt) Mụ ta không phải vợ ông Mỹ, có lẽ hùn hạp bằng “vốn tự có”.

             Tôi nghe một anh chàng thợ sửa xe người Việt làm ở đó kể rằng. Có lần anh ta vô tình đẩy cửa văn phòng mụ  ta, thấy thằng thợ máy (người Trung Đông) đang bóp chưn cho mụ ta. Mỗi khi người chủ Mỹ kia đi vắng thì anh chàng thợ máy được gọi vào văn phòng để “bóp chưn bóp tay”, (Lại bóp chưn, bóp tay!) Mụ nầy đi chân vòng kiềng. Sách tướng có nói “Đàn bà đi chân vòng kiềng, mỗi ngày không có đàn ông, sẽ phát điên!”. Mụ phụ tá nầy đã làm một việc bất lương, là khi không có chủ ở đấy, hễ khách trả tiền sửa xe bằng tiền mặt thì mụ ta xé bỏ (phi tang) cái bản lưu (copy) sửa xe, tiền mặt thì bỏ túi, sau khi dúi cho thợ sửa xe một ít tiền và dặn đừng cho chủ biết. Thời đó (thập niên 1990), đa số xài tiền mặt, ít người dùng thẻ tín dụng (credit card) Ít lâu sau, cây xăng phá sản! Tôi làm cashier cho một cây xăng khác.

         Trong việc ngồi bán xăng, buổi tối, nhất là về khuya, cũng có vài chuyện vui. Có bà khách mỗi khi đền đổ xăng còn làm thêm việc truyền giáo. Bà ta nói nhiều lắm. Đại ý. Phải tin Chúa để khi chết không phải vào hỏa ngục mà còn được cứu rỗi, lên Thiên Đàng. Tôi ậm ừ cho qua chuyện, nhưng bà ta lại tưởng tôi xiêu lòng, nên có dịp là nói về cứu rỗi. Tôi đành phải nói với bà ta “Bản thân tôi, tôi còn không tin được mình, làm sao tôi tin được người khác?” Bà ta không giận, chỉ cười. Thêm một chuyện nữa. Có bà khách buổi tối, đến đổ xăng, cứ rủ tôi về nhà bà ta để làm điều gì đó (do something)? Tôi nói cám ơn. “Sorry!” Một bà khác, còn táo bạo hơn. Gần cây xăng, có một tiệm rượu, có vũ sexy, (nhiều bà cũng thích đến xem) có lẽ bà nầy uống rượu ở đó, say khước, đậu xe ngay trước cửa quầy, vào hỏi tôi “Mấy giờ mầy (you) về?” Tôi nói “Khoảng mười một giờ” “Tao chờ. Tao sẽ cùng về nhà với mầy” “Không được đâu! Nhà tôi đông người lắm!” “Thì mầy về nhà tao. Tao ra ngoài xe chờ mầy”. Rồi bà ta ra xe, nằm ngủ khò! Hết giờ làm. Tôi rón rén, ra xe, về. Ở Âu Mỹ, chuyện các bà gạ tình là bình thường, Nhưng có ông nào dám đụng đến người đàn bà say rượu nầy không? Tù mục xương đấy!

            Bấy giờ coi như tôi có việc làm, lương rất thấp, chỉ đủ chi tiêu các thứ. Vợ tôi thì đi may ăn công, theo sản phẩm. (Thời đó, may gia công chưa chuyển qua Trung Cộng) Ví dụ may cái túi áo giá mấy xu đó, ngày may được bao nhiêu túi áo cứ tính thành tiền mà lãnh, cố lắm, ngày được vài chục đô là tối đa. Thấy khó sống, vợ tôi đi bán “hotdog” (bán thức ăn và nước ngọt) trên một xe nhỏ (trailer) đặt dọc lề đường thủ đô Hoa Thịnh Đốn (Washington DC). Cứ bán được trăm đô, chủ trả hai mươi đô. Cũng đỡ khổ, nhưng mùa đông, đã lạnh mà tuyết bay mù trời, chẳng có du khách nào ra đường. Cả ngày, bán tối đa được trăm đô, chủ chia cho hai mươi đô, bằng một giờ làm việc của một công nhân Mỹ hạng bét. Tóm lại gia đình tôi đủ sống qua ngày, nhưng chả lẽ ở mãi dưới cái basement của người bạn?

          Có người quen xúi mua nhà “Mầy mướn nhà cũng trả chừng đó, mua nhà trả hơn chút đỉnh, nhưng sau đó mầy sẽ có nhà, nếu mướn nhà, mầy hết mướn là ra tay không” Tôi nghe cũng có lý, nên có ý tìm nhà. Tôi xem báo hoặc xách xe lội xóm. Thấy giá nhà, tôi tính nhẩm. Với số lương lúc đó của cả hai vợ chồng, thì dù có dán băng keo bốn cái miệng lại (vợ chồng và hai con), nghĩa là không ăn uống, không tiêu xài gì hết, chúng tôi cũng không đủ trả góp tiền nhà hàng tháng. Tôi bàn với vợ, tôi sẽ làm thêm vài jobs nữa, vợ tôi đi học nghề hớt tóc. Thế là tôi làm ba jobs cả thảy, cũng chỉ một nghề thu tiền cho cây xăng. Buổi sáng, tôi dậy thật sớm, đến cây xăng thứ nhất làm việc, từ bảy giờ sáng đến ba giờ chiều, xong shift (buổi làm), tôi chạy qua cây xăng thứ hai, gần mười hai giờ khuya mới về. Thứ Bảy, Chủ Nhật, tôi “chơi” luôn cây xăng thứ ba. Tính ra tôi làm hơn chín chục tiếng mỗi tuần. Tôi chịu đựng trong mấy năm, khi vợ tôi học xong, ra nghề hớt tóc, uốn tóc, lương cũng khá. Sau hơn ba năm, chúng tôi để dành được một ít tiền. Tôi lại tìm nhà để mua. Có người bạn chỉ cho tôi một ngôi nhà trong xóm, gần chỗ chúng tôi đang ở. Anh ta bảo “Nhà nầy lúc đầu đòi hai trăm nghìn đô (thời giá năm 1992). Hai năm rồi, nghe nói bớt còn trăm sáu cũng không ai mua. Bây giờ có lẽ chủ hạ giá nữa. Anh đến xem” Tôi đến, thấy cái nhà đó giống cái chuồng gà công nghiệp bên Việt Nam, thấp tè, cũng không đến nổi. Nhưng sao giá thấp như thế mà không có ai mua? Tôi nghĩ nhà có ma, người ta sợ. Tôi gọi một ông bạn làm realtor (môi giới mua bán nhà). Ông bạn nầy đưa tôi vô nhà và bắt đầu chê nhà cũ, chỗ nầy phải sửa, cái kia phải thay, mục đích cho chủ nhà nghe. Realtor mà chê là phải đúng. Theo luật, người môi giới (realtor) bên mua không được tiếp xúc thẳng với chủ nhà mà phải liên lạc với môi giới bên bán. Anh ta xúi tôi vô gặp chủ nhà đòi bớt giá. Có lẽ mấy năm mà không bán được nhà, chủ nhà phát nản, nên sau một lúc kỳ kèo, chủ nhà chịu bán. Tính ra hơn ba năm chúng tôi mới ra khỏi cái basement của người bạn.

            Khi dọn vào, tôi mới biết lý do người ta chê. Nhà quá cũ, tuổi cũng trên nửa thế kỷ. Thiết kế hết sức kỳ cục! Cái máy điều hòa không khí (AC) đặt ngay giữa nhà, ba căn phòng nhỏ chút xíu vây quanh. Khi cái máy (AC) đó chạy thì giống như xe lửa qua cầu. Nghe ầm ầm, nhà rung rinh như động đất. Mà nó chạy cho còn quí. Mùa đông mở máy, con quái vật đó chỉ kêu lên chứ không “chạy” Nghĩa là hơi cũng có xịt ra nhưng không thấy hơi nóng đâu cả! Tôi gọi cho một người thợ quen. Anh ta đến “Có sửa cũng xài tạm, máy quá cũ!” Sửa xong, nó có nóng chút đỉnh, nhưng anh thợ vừa đi khỏi thì hơi nóng cũng theo anh ta đi đâu mất! Đành mua mỗi phòng một cái hít (heater) nhỏ xài tạm.

            Đến mùa hè, mở máy lạnh, cũng có xịt hơi nhưng chẳng lạnh gì cả! Tôi lại kêu thợ. Anh ta đến, bảo “Bôm gas!”. Bôm gas xong, nó cũng chỉ thổi hơi nóng chứ chẳng lạnh chút nào! Anh thợ bảo “Cái máy AC nầy có lẽ là sản phẩm đầu tiên của hãng sản xuất. Xưa quá! Rã rệu lắm rồi!Phải thay cái mới” Giá mà cái máy AC nầy biết nói, có lẽ nó sẽ chửi thề ghê lắm. “Tao già sáu bảy chục tuổi rồi mà còn bắt xịt hơi nóng rồi xịt hơi lạnh. Mầy hỏi ông già mầy có xịt nổi không mà bắt tao xịt?” Sau cái máy AC thì đến mấy cái vòi nước. Tắt nước rồi mà nước vẫn chảy, giống như mấy bà đi cắt mắt, nhắm mắt mà mắt vẫn mở vậy. Kêu thợ đến thay xong thì nước lại nghẹt, chỗ nào cũng nghẹt, nước không chịu thoát đi, nhất là cái phòng vệ sinh! Kêu thợ, anh ta đến “Nhà nầy cũ quá rồi. Mấy cái ống thoát nước bằng gang, bị rỉ sét nghẹt cứng rồi” “Bây giờ phải làm sao?” “Thì đục tường mà thay ống mới” Lại tốn thêm mớ tiền nữa! Nếu kể ra cho đủ các phiền toái, bực mình khi mua nhà cũ thì chẳng bao giờ hết. Mái nhà dột, thay mái xong thì đến mấy cánh cửa. Cửa nào cũng hở, mùa đông hơi lạnh theo các khe hở vào nhà, lại kêu thợ! Lại móc túi! Tiền có bao nhiêu cũng chỉ đủ trả mấy cái bills (giấy đòi tiền) điện, nước, rác, điện thoại, bảo hiểm xe, sửa nhà…

            Kể ra tụi tôi cũng liều mạng mua nhà, chứ lương hướng chẳng bao nhiêu. Nhưng tụi tôi cũng gặp may. Thứ nhất là vợ tôi làm nghề hớt tóc ngày càng đông khách rì quếch (request, khách đến chỉ yêu cầu một người thợ mà họ thích) nên tiền “típ” cũng khá.

         Chuyện mua nhà ở Mỹ của vợ chồng tôi cách đây hơn hai mươi năm, thuộc thế hệ thứ nhất của dân HO. Tuổi cao, sức khỏe suy nhược, chỉ làm được những việc nhẹ, lương hướng chẳng bao nhiêu. Mà mình không có cái nhà để cho con cái đi, về, cũng tủi thân chúng.

         Nhà tôi tuy nhỏ hẹp nhưng tấm lòng rộng mở, bạn bè rất hứng thú khi được vợ chồng tôi mời đến ngắm hoa và ăn uống, cười đùa, thân ái như anh em trong gia đình. Vợ tôi nấu ăn ngon, được các bạn khen thật tình. Anh em trong hội cựu SV Quốc Gia Hành Chánh. Bà con trong hội Quảng Đà, mỗi lần họp mặt khoảng trên hai mươi người. Nhà nhỏ nhưng vườn rộng. Mỗi năm, sau mùa đông lạnh giá, chúng tôi trồng hoa khắp nơi. Trước sân, quanh nhà, các loài hoa đua nhau khoe sắc. Các bạn vui thích ngắm hoa, chụp hình. Tôi có máy copy, sang hình, bỏ vào khung hình nhỏ, tặng các bạn làm kỷ niệm. Hàng xóm cũng đến ngắm hoa và chụp hình, nhất là các cô gái trẻ.

            Đến thế hệ thứ hai. Con của mấy ông bà HO học hành nên người, lương cao thì chuyện chúng mua nhà to, biệt thự, coi như chuyện nhỏ.

            Nhưng dù sao, mỗi khi vợ chồng chúng cùng các cháu về thăm ông bà, chắc chắn chúng vẫn cảm nhận được mùi mồ hôi vì lao động chân tay vất vả của cha mẹ còn phảng phất trong nhà. Chúng cũng như nghe được tiếng lịch kịch của cha mẹ dậy rất sớm đi làm. Rồi đến khuya, đang ngủ, chúng nghe tiếng mở cửa, tiếng đóng cửa của cha mẹ đi làm về. Công việc của cha mẹ chúng đâu có ngồi trước cái computer như chúng mà phải chịu đựng tuyết lạnh hay cái nóng nung người ngoài trời, kiếm mấy đồng một giờ về nuôi chúng ăn học, trả tiền nhà, tiền điện, nước.

            Có lẽ bạn sẽ hỏi “Vậy cái nhà chuồng gà của anh bây giờ ra sao? Sửa lại chưa? Bán, mua nhà khác chưa?” Xin thưa. Vợ chồng tôi vẫn ở nhà đó. Có điều lạ, sau đó, nhà vùng tôi ở đột nhiên lên giá. Ông bạn realtor hỏi tôi “Nhà ông bây giờ bán giá gấp đôi, vẫn có người mua ngay” Nhưng tôi trả lời “Để sau nầy con tôi bán

            Bụi hoa ngoài sân tôi cũng thương, những vết bẩn trên tường các con tôi làm bẩn, tôi cũng thương (và cứ để nguyên cho đến bây giờ). Vả lại, vợ chồng tôi đã lớn tuổi, chẳng muốn ganh đua, hơn thua ai. Ngu gì mua cái nhà cho bự, nhiều phòng, chỉ ngủ vài phòng, để rồi cày mà nuôi mấy tay tư bản, cho vay cắt cổ.

Phạm Thành Châu

Hy Vọng Khởi Đi Từ Màu Đen

Nguyễn Quang Dũng

1.

Tháng 5 1981. Tôi và vợ cùng hai đứa con, một trai một gái, quyết định vượt biển, vượt thoát khỏi quê hương Việt Nam khốn khó đang sống ngột ngạt trong cuộc đổi đời dưới chế độ kiểm soát tù tội của chính quyền cộng sản từ phương bắc.

Đây là lần vượt biên thứ tư của gia đình tôi, ba lần trước đều bị bỏ rơi, phải trở về, may mắn là không bị bắt, cũng như chưa ra biển.

2.

Lần này, chuyến vượt biên thành công. Chiếc tàu nhỏ dùng chạy đường sông được sửa mủi tàu để có thể vượt sóng biển, thoát khỏi lòng sông ở cửa Cần Giờ, Long An, trực chỉ biển lớn.

Những người tổ chức của chiếc tàu vượt biên mang theo 60 người, mãi mấy ngày sau tôi mới biết, chỉ có một kế hoạch duy nhất là chạy ra hải phận quốc tế và tìm tàu lớn để mong được cứu vớt. Chúng tôi mất đúng năm ngày đêm chỉ để thực hiện được mục tiêu này: Chạy được tới hải phận quốc tế, tìm thấy được nhiều chiếc tàu hàng hải lớn. Nhưng duy chỉ là mỗi lần xả máy lại gần để cầu cứu thì những chiếc tàu sắt lớn này im lặng lừng lững bỏ đi, không hề quan tâm đến những dấu hiệu S.O.S của chúng tôi.

Ngày thứ sáu lênh đênh giữa biển khơi trong những cuộc đuổi bắt và cầu cứu vô vọng, tôi biết được từ người tổ chức là chiếc tàu nhỏ của chúng tôi đã gần cạn xăng dầu và nước uống. Sẽ phải ngưng lại việc rượt đuổi theo tàu lớn và nước uống sẽ được phân phối hết sức hạn chế .

Những mệt mỏi. lo âu và thất vọng hiện ra ở gương mặt mỗi người lớn. Những đứa nhỏ nằm la liệt trên sàn tàu, ói mửa, hốc hác…

Tối hôm đó. Biển động.

Trời đen.

Biển đen.

Những con sóng đen ngòm, với độ cao và độ nghiêng đến chóng mặt.

Lần đầu tiên trong đời, tôi ở trong lòng biển động, giữa trùng khơi sâu thẳm.

Tôi sống ở Nha Trang từ nhỏ. Biển vẫn là niềm vui và gần gủi trong đời sống của tôi. Khi lớn lên, hàng ngày trước khi đi học, tôi thường ra biển từ sáng sớm để ngụp lặn bơi lội trong làn nước xanh mặn mát ấm. Biển do vậy là những nỗi niềm thân thiết rất riêng tư của tôi. Tôi biết Biển có những lúc là Biển của hiền hòa yên tĩnh, cùng nhịp với tiếng gió thông reo hay ánh trăng đêm rằm nhẹ nhàng tỏa sáng mặt biển đêm. Tôi biết Biển có những khi gầm thét, hung dữ trong những ngày bão lớn với những con sóng xám đen cao ngất lừng lững từ xa chạy vào và đập vỡ tung bờ cát trắng.

Nhưng tôi chỉ mới biết Biển khi chân tôi đứng trên mặt đất yên ổn nhìn Biển cuồng nộ. Chưa một lần tôi cảm nhận được cái nhỏ bé mong manh đến không tưởng của chiếc tàu nhỏ  như một cọng rơm giữa biển đen sóng dậy. Không một chỗ tựa. Tôi nhìn thấy chung quanh tôi là biển nước đen ngòm hun hút đến tận trời xa đen thẳm. Biển động đang sắp sửa nhận chìm chúng tôi xuống đáy biển sâu!  Ý tưởng đó, sắc như con dao nhọn bén, đâm thẳng vào đầu tôi.

Sợ hãi ập tới. Như con sóng lớn đen ngòm kia đang ập tới, nhận chìm và chiếm ngự  tôi trọn vẹn. Không gì cản nỗi.

3.

Sợ hãi là một thứ tình tự lạ lùng và ma quái. Tôi nhận ra trong đời tôi, tôi có nhiều nỗi sợ linh tinh, thường là những dấu hiệu báo trước một loại hiểm nguy hay bất trắc nào đó tôi nhắc tôi nên tránh. Tôi gọi nó là sợ hãi nhỏ. Thường vì nhỏ nên chuyện vượt qua loại sợ này cũng là chuyện nhỏ.

Nhưng tôi cũng nhận ra sự hiện hữu của một thứ sợ hãi với mức độ và tầm cỡ kinh khủng, ảnh hưởng và tác động cùng lúc trên nhiều người. Thứ sợ hãi này liên quan đến những biến cố lớn trong đời sống mỗi người.  Và cũng thường tình, người ta dùng màu đen để diễn tả một cánh ngắn gọn nhưng đầy đủ về những biến cố mang tính phá hoại hay bi thảm này. Tháng Tư Đen chẳng hạn, tên gọi ngắn cho  biến cố 30-4-1975, nhận chìm hàng triệu người miền Nam Việt Nam trong bóng đen của sợ hãi, chết chóc và bi thảm trong thân phận những người thua trận và mất nước.

Trải qua và vượt qua biển nước mênh mông đen kịt tối hôm mưa gió đó, tôi nhận ra tại sao màu đen gắn liền với sợ hãi trong tôi bấy giờ:

Đơn giản bởi vì tôi sợ những gì tôi không hình dung, không thấy được.

Biển động ngoài trùng khơi xa thẳm hôm đó chỉ toàn là một màu đen.

Biển đen. Trời đen.

Trong bóng tối, tôi không nhìn thấy được gì ngoài màu đen. Và chính trong khoảnh khắc đó, tôi nhận ra tôi không là gì hết khi đem cái hữu hạn của tôi đặt trước cái vô cùng của trời đất. Những gì tôi biết, tôi thấy, không là gì hết trước khoảng không của hằng hà vô số những gì tôi không thể biết và không thể thấy.

Chỉ như vậy: Tôi sợ.

 

4.

Tháng 4 năm 2020, Tháng Tư Đen của cả thế giới.

Con vi khuẩn nhỏ nhưng với khả năng phá hoại khủng khiếp đã làm cả thế giới sợ hãi.

Cho đến nay, đầu năm 2021, hàng triệu người chết. Hàng triệu người bị lây nhiễm phải nhập viện và vất vả chiến đấu tồn sinh. Đời sống và sinh hoạt thường nhật bị xáo trộn đến cùng cực. Lệnh cách ly và hạn chế mọi sinh hoạt tụ họp hay sinh hoạt mang tính giao tiếp làm mọi người co rúm trong sợ hãi.

Cha mẹ con cái xa cách ông bà. Người yêu người không còn biểu hiện ở những xiết chặt của vòng tay ôm, không còn những nụ hôn gần gũi ngọt ngào, không còn những nụ cười vui. Không còn ai thấy ai. Tôi có cảm tưởng dường như những ngày tháng của Tháng Tư Đen 46 năm trước lại trở về. Người xa người trong những chia xa, ngăn cách.

Và tôi cũng nhận ra len lõi đâu đó trong tâm trí dường như là nỗi sợ hãi khi đối diện với nhiều điều tôi không biết, không thấy được và không lường trước được. Con vi khuẩn nguy hiểm lây lan trong không khí là kẻ thù độc hại và khi nhìn thấy nó thì đồng nghĩa là tôi đã gục ngã. Nỗi sợ hãi này không khác gì nỗi sợ lúc tôi ở trong lòng biển đen trong chuyến vượt biển năm nào.

Chỉ khác một điều: Vào Tháng Tư Đen 1975 tôi biết rất ít về những gì sắp sửa xảy ra trong lúc ở Tháng Tư Đen 2020 thông tin về dịch bệnh lại nhiều đến mức không tưởng. Các cơn bão thông tin này với những phương tiện truyền thông hiện đại từ những chiếc điện thoại cầm tay nhỏ xíu lan truyền đi rộng rãi, khuếch tán lớn thêm mãi về cái hữu hạn của kiến thức loài người hay những-điều-không-biết của con người đứng trước bệnh tật.

5.

Nhưng điều tôi chưa viết ở đây là tối hôm biển động trong chuyến vượt biên của tôi và gia đình, đêm tối tôi tưởng là đã vùi thây trong lòng biển như hàng trăm ngàn thuyền nhân khác trên đường tìm tự do, biển lớn hay Trời Phật đã nhẹ tay không dìm chết những sinh mạng nhỏ nhoi kia, trong đó có tôi, đang loi ngoi trên làn nước mênh mông. Và còn ban phát những giọt nước cứu tinh.

Là mưa. Những giọt nước mưa lúc đó quý hơn vàng. Trong đêm tối, mưa ướt ngọt trong môi miệng tôi. Chúng tôi loay hoay hứng mưa dự trữ nước uống, cộng thêm kinh nghiệm của người lái tàu biết cách cỡi sóng và nhờ vậy cầm cự, sống sót thêm được vài ngày. Hai ngày sau, sau khi bàn thảo rút kinh nghiệm, chúng tôi đổi cách cầu cứu: Chiếc tàu nhỏ của chúng tôi sẽ ngừng máy, thả neo, đốt khói đen, giăng bản vải S.O.S và khi thấy tàu hàng hải lớn thì những người biết bơi sẽ nhảy xuống biển vẫy tay kêu cứu.

Kế hoạch này thành công một nửa: Một tàu hàng hải của Trung Cộng đã dừng lại cung cấp cho chúng tôi mọi thứ cần thiết: thức ăn, nước uống, xăng dầu và quan trọng nhất là bản đồ hàng hải hướng dẫn chúng tôi đi đến Mã Lai. Họ không cứu chúng tôi âu cũng là may mắn vì dĩ nhiên là chúng tôi không muốn chạy họa cộng sản lại đến một xứ cộng sản khác.

Bốn ngày sau đó chúng tôi tấp vào thương cảng Singapore thì bị tàu tuần quốc gia này kéo ngược ra, bảo là họ không nhận người tỵ nạn từ Việt Nam, họ khuyên chúng tôi đi đến Phi Luật Tân. Không còn cách nào khác hơn, tàu chúng tôi đâm vào bờ biển Mã Lai, thả người vào bờ và đục tàu, đánh chìm chiếc tàu nhỏ. Sáu chục thuyền nhân của tàu chúng tôi sau đó cũng gia nhập đại gia đình của người Việt tỵ nạn tại đảo Pulau Bidong.

 

6.

Tôi nhận ra trong tuyệt vọng của đói khát và đối diện với tử vong trong chuyến vượt biển năm nào thì hy vọng đến cho tôi cơ hội tiếp tục tồn sinh.

Đến bây giờ có một lý lẽ rất đơn giản mà tôi trực nghiệm từ những trải nghiệm của đời sống là tôi luôn sống trong cái hữu hạn của kiếp người. Cái biết của tôi không là gì hết trong cái vô hạn của Trời Đất.

Cũng cho đến bây giờ tôi vẫn còn tự hỏi: Làm sao tôi còn sống sót trong lúc hàng trăm ngàn người vượt biển tìm tự do  như tôi vùi thây trong lòng biển sâu? Có chăng Trời Phật với những sắp xếp mà loài người không biết được?

Và tôi cũng như triệu tỷ người khác trên trái đất này là những kẻ không-hiểu-gì, loay hoay cả đời trong những tất bật mang tính đối cực, nhị nguyên, cái lý lẽ hai-mặt-của một-đồng-tiền: Sáng-Tối. Vui-Buồn. Sướng-Khổ. Thăng-Trầm. Giàu-Nghèo. No-Đói. Trẻ-Già. Khóc-Cười. Sống-Chết…

Nhưng có một điều tôi hiểu rõ, một cách chắc chắn, là không khi nào tôi có thể ở mãi trong một mặt của đời sống. Tôi không thể có bình an mãi được vì đời sống vốn đầy dẫy những bất an giăng bủa chung quanh. Tôi không thể sống khỏe mãi được vì hàng triệu vi khuẩn gây đủ thứ bệnh tật tìm đủ mọi cơ hội để xâm nhâp các cơ quan chức năng của cơ thể tôi. Và không chóng thì chầy thì tôi sẽ chết vì lẽ đơn giản tôi không thể sống mãi được. Vậy thì tại sao tôi phải sống co rúm trong sợ hãi vì mãi lo bám víu một mặt nào đó của cái đồng-tiền-hai-mặt?

Cũng như trong bóng tối mênh mông của đêm trên biển động tôi tìm thấy hy vọng từ những giọt nước của Trời. Và sau đó là ánh sáng và bình lặng của Biển lớn.

Cũng như lúc này, ở đây,  trong trắng lạnh của tuyết giá một ngày cuối năm âm lịch tôi nhìn thấy con chim anh vũ đỏ từ đâu bay lượn về đáp xuống trước sân nhà bình thản  ngắm tuyết rơi.

Ơ hay! Nếu tôi không biết gì về cái lẽ chuyển vận vô hạn, vô cùng của Trời Đất, của Sống và Chết, thì không có lý do gì tôi phải sống trong lo sợ và bám víu. Buông Xả tôi sẽ Nắm Bắt được Cái Đẹp của màu đỏ con chim Anh Vũ trên màu trắng của Tuyết.

Còn gì cần thiết phải nghĩ ngợi lôi thôi?

Nguyễn Quang Dũng

tháng 2/2021

Cá chậu chim lồng

Đào Hiếu Thảo/Th2

Trại lao động khổ sai tại K1 Gia Trung, Long Thành

Cố Thủ tướng Anh Quốc Winston Churchill đã nói về chế độ tư bản và chủ thuyết cộng sản như sau: “Tư bản là tạo điều kiện cho mọi người giàu có, nhưng không bằng nhau, còn Cộng sản là đưa mọi người tới chỗ nghèo khó như nhau!”

Cuộc “đổi đời” ở Miền Nam Việt Nam vào ngày 30 tháng 4 đen năm 1975 đã minh chứng rõ rệt điều ấy, ra đường phố thấy toàn dân đi xe đạp, xăng dầu khan hiếm, các cây xăng tư nhân bị đóng cửa, giá cả thì tăng đến chóng mặt,  trên khắp nẻo đường Saigon mọc lên những điểm bán xăng lẻ, trong những chai một lít hay 75 cl.

Khách mua xăng/dầu toàn là cán binh VC, “bộ đội nón cối”, “những người chủ mới” của đất nước, không biết từ đâu và bằng cách nào họ đã nhanh chóng sở hữu đủ loại xe gắn máy Honda, Yamaha, Suzuki và tai nạn lưu thông xảy ra như cơm bữa.  Từ rừng núi, đường mòn, mật khu, tràn về ngập Saigon, bộ đội Hồ Tặc nào có biết luật đi đường trong xã hội văn minh, tiến bộ là gì?

Dân chúng Saigon kể với nhau những chuyện không thể nín cười như: “Đang luồn lách trên đường phố, lọng cọng vì chưa biết chạy xe gắn máy, một lính Bắc Việt “bộ đội” đụng phải bà lão đang băng qua đường, làm bà té nhào. Tên bộ đội gắt-Tôi cố tránh né không muốn va xe vào người bà, bà có biết không?- Bà lão thản nhiên đáp -Tôi cũng cố tránh né các cậu từ năm 54 đến giờ, chẳng may phải gặp lại, thế cậu có biết không hả?-”.

Trong xã hội mới, dân tình còn chưa hết âu lo, băn khoăn, sợ sệt “chính quyền cách mạng”, một cái chánh quyền chuyên quản lý con người bằng súng đạn, hơi cay, kiểm soát cái bao tử thì không ai bảo ai, mọi người đều tự mặc  những bộ quần áo cũ, rách rưới cho ra vẻ dân lao động để tránh bị nhà cầm quyền CS liệt kê vào thành phần tư sản, mại bản, bị gán cho là “giai cấp bóc lột, ăn trên ngồi trước, làm giàu trên xương máu dân lành” và rồi, sớm muộn gì cũng bị họ tìm cách trấn lột tận xương tủy.

Bao nhiêu quần áo còn tươm tất hoặc mới, đồ đạc và máy móc trong nhà đều lần lượt theo nhau ra các chợ trời, những món hàng này được “bộ đội” đặc biệt chiếu cố, vơ vét và chuyên chở hết mọi “chiến lợi phẩm” ra ngoài Bắc bằng đủ mọi phương tiện. Ngoài đường chỉ còn thấy người ta mặc những bộ áo quần màu sậm, nâu, xám hay toàn đen trắng như để tang cho một đất nước bị bức tử, bổng dưng biến mất, bị xoá bỏ, cũng như quyền làm người ngày càng bị VC công khai tước đoạt.

Ngày qua ngày, tôi không tài nào tìm được một công việc dù nhỏ nhoi, dù phải lao động chân tay để đổi ra chút ít cơm gạo, buôn bán thì không vốn liếng và cũng chưa bao giờ biết mua bán ra sao, hơn nữa những anh em quân nhân chế độ cũ như tôi luôn bị an ninh phường khóm bám sát, hạch hỏi, theo dõi.

Để có tiền sống cầm hơi, cứ vài ba hôm tôi lại soạn ít đồ đạc cũ từ đôi giày đến chiếc nhẫn đưa ra chợ trời tiêu thụ. Anh em bạn gọi đó là nghề “chà đồ nhôm” tức chôm đồ nhà đi bán.  Món cuối cùng tôi phải rời xa là gia sản quý nhất mà tôi cố cầm cự, đành bán chiếc xe Vespa Spring cũ với giá rẻ mạt kiếm chút tiền cho gia đình cầm cự qua ngày.

Một hôm trong lúc đang đi bộ trên vỉa hè, bỗng có hai bộ đội rất trẻ, mỗi người đeo một khẩu AK 47,  chạy theo và hỏi tôi có đồng hồ Nhật muốn bán không? Đang đeo chiếc đồng hồ Seiko còn khá mới, chưa tính bán ngay, nhưng vì có người hỏi mua nên tôi muốn thử thời vận xem có được giá không. Đến hàng cà phê ở góc phố, hai bộ đội nói họ thích mua đồng hồ ngoại gởi về Hà Nội làm quà, họ nói như nằm lòng là đang tìm đồng hồ “không người lái, hai cửa sổ, 12 trụ đèn, không thấm nước” có nghĩa là tự động có ngày, tháng, có chấm lân tinh, sáng vào ban đêm.

Họ trầm trồ, mân mê, nhìn chăm bẩm, lúc lắc cái đồng hồ Seiko của tôi, thấy đã đạt đúng sở thích mà họ ước ao. Có lẽ đây là lần đầu tiên trong đời hai cán binh cộng sản này cầm được trong tay chiếc đồng hồ mà dân chúng trong Nam có thể sắm bất cứ lúc nào mình cần.

Khi nói chuyện giá cả, hai tay bộ đội dốc hết túi, đếm bạc lớn, bạc nhỏ tính ra được trên 5 ngàn tiền Hồ, mà thời giá chiếc Seiko phải gấp ba, bốn lần như thế. Họ nài nỉ quá, họ nói đồng lương bộ đội rất kém, phải chiến đấu gian lao, sinh hoạt hạn hẹp, cho nên cuối cùng tôi xiêu lòng, tháo Seiko ra, nhận nắm tiền ít ỏi, dù sao cũng mua được chút ít thực phẩm trên đường về nhà.

Cầm nắm tiền Hồ trong tay, nhìn lại mới thấy giấy in phẩm chất rất xoàng, dễ nhầu nát, dễ rách, hình vẽ thô sơ, toàn là những chân dung “Hồ Chủ Tịt”, nào là bác Hồ nghe đài hình nghiêng, bác Hồ xem tivi chụp thẳng. Người dân Saigon xem những tờ giấy bạc đó không khác nào toa thuốc bọc dầu Nhị Thiên Đường, mà những đường nét và màu sắc trong toa còn có phần hấp dẫn hơn tiền Hồ.

Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, Uỷ Ban Quân Quản Saigon-Chợ Lớn-Gia Định ra lệnh đổi tiền theo tỷ lệ một đổi một,  giữa tiền cũ của Việt Nam Cộng Hoà và tiền của chính quyền mới Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà (Cộng Sản Bắc Việt).

Vào tháng 6 năm 1975, sau khi chúng tôi đã ra trình diện và đang bị nhốt trong ngục tù, họ lại khẩn ban hành lệnh đổi tiền tại Vùng Giải Phóng tức là từ vĩ tuyến 17 trở vào tận Cà Mau, các loại tiền đang lưu hành mất hết hiệu lực. Mỗi cá nhân có tên trong hộ khẩu, từ 18 tuổi trở lên chỉ được đổi mỗi người 200 đồng tiền mới phát hành. Trước ngày đổi tiền thì có lệnh giới nghiêm 24 giờ trên 24, trong 2 ngày (48 tiếng  đồng hồ), không ai được ra khỏi nhà (để đổi chác, chạy chọt, đầu cơ) mọi vi phạm đều bị nghiêm trị. Sau khi giới nghiêm giải toả mọi người bắt đầu được phép mang tiền ra đổi, số tiền mà mỗi cá nhân dự trữ lâu nay vượt quá 200 đồng tiền mới, trở thành những tấm giấy lộn, vậy là nhà nước đã cướp đoạt tiền của dân một cách trắng trợn và công khai. Chưa một quốc gia nào trên thế giới, ngoại trừ cộng sản Việt Nam lại cho áp dụng biện pháp đổi tiền phi lý như vậy, một cách “bóc lột con người tận xương tuỷ”. Câu nói “cộng sản biến mọi người thành nghèo như nhau” trong hoàn cảnh này quả thật là chính xác, chẳng sai trật chút nào.

Chắc nhiều người còn nhớ, sau khi Bức Tường Ô Nhục Bá Linh sụp đổ hoàn toàn, hai nước Đông và Tây Đức thống nhất vào tháng 11 năm 1989, tiền Mark tức đồng Đức Kim bên Cộng Sản Đông Đức chỉ bằng một phần sáu đồng Đức Kim phía Dân Chủ Tây Đức. Nhưng chính phủ Cộng Hòa Liên Bang Đức quyết định nâng giá trị đồng tiền của Đông Đức lên ngang hàng với tiền của Tây Đức, có nghĩa là tài sản, vốn liếng của người dân từng sinh sống dưới chế độ cộng sản được nhân lên gấp sáu lần. Thời ấy, 72 triệu dân Tự Do, Tây Đức đồng ý dùng biện pháp kinh tế, tài chánh để thống nhất đất nước trong hoà bình, thịnh vượng với 16 triệu dân Cộng Sản Đông Đức dù họ còn thấp kém về mọi mặt sau gần một phần tư thế kỷ sống trong chính quyền Cộng Sản Đức dưới sự kềm kẹp, thống trị bằng bạo lực của nhà độc tài Erik Honecker.

Chỉ vài năm sau đời sống của người dân Đông Đức được cải tiến, phát triển nhanh chóng, hàng loạt xí nghiệp, hãng xưởng, nhà máy sản xuất được chuyển từ Tây sang Đông,  xã hội Đông Bá Linh chẳng bao lâu trở nên trù phú, phồn thịnh.

Còn chuyện “Saigon Giải Phóng”, đảng và nhà nước cũng hô hào thống nhất, Nam Bắc quy về một mối, không còn sự phân biệt giữa chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà với chính phủ Cộng Hoà Miền Nam Việt Nam (tên gọi của Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam).

Lúc tiến vào Saigon, các chiến xa, xe tải Molotova đều treo cờ Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam, nửa trên màu xanh dương, nửa dưới màu đỏ, chính giữa có ngôi sao vàng. Bộ đội cũng mang trên nón cối của họ huy hiệu của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, nhưng chỉ ít hôm sau, cờ của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam đột nhiên biến mất, thay vào đó là lá cờ đỏ sao vàng xuất hiện đều khắp, nhà nhà phải tự mua và treo ở ngay mặt tiền, để “ăn mừng chiến thắng thần thánh”.

Vào tuần lễ cuối tháng 5, năm 1975, radio, tivi, báo chí phổ biến lệnh trình diện tập thể đối với tất cả các hạ sĩ quan, binh sĩ chế độ Việt Nam Cộng Hòa từ cấp binh nhì đến Chuẩn uý, nơi tập họp là trụ sở quận, phường, khóm, để tham gia lớp học tập gọi là “bồi dưỡng chính trị”, kéo dài 3 hôm. Sau khi hoàn tất khoá học các anh em được cấp giấy chứng nhận và tự do ra về làm ăn, sinh sống. Ai không tuân thủ lệnh triệu tập sẽ bị trừng phạt nghiêm khắc.

Nhớ lại Tết Mậu Thân 1968, sau khi cộng quân xâm chiếm khu vực Thừa Thiên-Huế, công chức, quân nhân của chánh quyền Saigon cũng có lệnh phải ra trình diện với “Cách Mạng”, nhưng sau đó mới biết đã có trên 10 ngàn người dân vô tội bị giết hại, chôn sống và lấp dưới những nấm mồ tập thể, khắp cố đô Huế và một số tỉnh thành khác.

Các anh em hạ sĩ quan, binh sĩ Việt Nam Cộng Hòa tham gia lớp học chính trị kể lại là họ được cán bộ cộng sản tiếp đón niềm nở, không khí buổi sinh hoạt vui vẻ, mọi người thấy yên tâm, bớt ái ngại vì thấy kẻ chiến thắng kêu gọi xoá bỏ hận thù, hoà hợp, hoà giải, hàn gắn vết thương chiến tranh, xây dựng đất nước hùng mạnh.

Sau khoá học chính trị kéo dài 3 hôm tổ chức ngay tại địa phương các anh em hạ sĩ quan, binh sĩ chế độ VNCH được tự do ra về. Chính quyền “thành Hồ” toan tính gì đây? Họ thường rêu rao là “Đánh kẻ chạy đi, không ai đánh kẻ quay trở lại”, việc thả hết các anh em hạ sĩ quan, binh sĩ về là chính sách “khoan dung, độ lượng, nhân đạo” hay chỉ là mánh khoé bịp bợm, thả con tép riu, bắt con cá mập? để đưa anh em chúng tôi vào cảnh “cá chậu, chim lồng” lâu dài?

Nhớ đến câu nói bất hủ của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu: “Đừng  nghe những gì cộng sản nói mà hãy nhìn kỹ những gì cộng sản làm”.  Phân vân, mình có tin được vào những lời hứa hẹn, kêu gọi, khuyến dụ của chính quyền cộng sản hay không?

Chế độ chuyên chính vô sản có bao giờ chấp nhận quyền tư hữu, chấp nhận lề lối quản lý kinh tế của tư bản mà họ cho là “người bóc lột người”, toàn dân Miền Nam Việt Nam đã bắt đầu phải đi vào phương thức làm ăn tập thể, hoàn toàn do nhà nước chỉ đạo, định đoạt và điều hành.

Giai cấp tư bản và tiểu tư sản bao gồm những công thương kỹ nghệ gia toàn Miền Nam cũng phải trình diện, học tập chính trị để biết cách thức làm ăn mới mà với họ chính là “đi vào cửa tử” hay “chết dần chết mòn”, vì mọi phương tiện sinh sống của họ đều bị đảng và nhà nước tước đoạt sạch từ những ngày đầu tháng 5  năm 1975.

Không quen với công việc lao động tay chân nay lại bị ép buộc vào sinh hoạt tập thể những người lâu nay chỉ biết sống bằng nghề buôn bán, bây giờ phải làm thợ, làm công nhân trong các hợp tác xã, nhà máy, hãng xưởng quốc doanh với đồng lương cầm hơi, họ cảm thấy cuộc sống của mình đang “đi vào ngõ cụt”. Tin tức truyền khẩu cho nhau nghe là đã có một số thương gia giàu có, tiền rừng, bạc bể phải đi tìm cái chết để tự giải thoát.  Bên cạnh đó, người ta rỉ tai nhau là chỗ này, chỗ kia có những tổ chức bí mật đưa người ra khơi, trốn chạy cộng sản, nhưng cần phải chi rất nhiều vàng làm lộ phí.

Chính quyền mới cũng ban hành hàng loạt quy định (rất ngược ngạo, vô lý) trong đó có việc ngăn cấm dân chúng không được tiếp xúc với người nước ngoài với bất cứ lý do gì, mọi cuộc gặp gỡ bị xem là trái phép, lén cung cấp thông tin hoặc làm “gián điệp cho ngoại bang” là những “thế lực phản động, thù nghịch với Cách Mạng”. Việc dạy và học ngoại ngữ cũng bị triệt để ngăn cấm, các loại nhạc của  Saigon trước đây bị cấm phổ biến, họ cho “Nhạc Vàng” là nhạc bệnh hoạn, uỷ mị, ru ngủ.  Cấm hát, cấm nghe, sách báo, văn hoá phẩm của Miền Nam bị tịch thu và thiêu huỷ đồng loạt, bị phê bình là do ảnh hưởng của tư tưởng Mỹ Nguỵ không phù hợp với “đạo đức thế hệ Hồ Chí Minh?. Đám đông trên ba người không được tụ họp nơi công cộng nếu không xin phép trước, điều này có nghĩa là tại các giáo đường, đình chùa, thánh thất, hội quán, người dân không được tự ý đến cầu kinh, lễ bái, các vị lãnh đạo tinh thần không được phép cử hành những nghi thức tôn giáo mà cần phải có ý kiến của chính quyền sở tại.

Người ta vẫn thường nói rằng chế độ cộng sản Miền Bắc chủ trương “ngu dân” nay sự thật phơi bày, dân chúng Miền Nam ai nấy đều “sáng mắt” khi phải sống dưới “gông cùm cộng sản” và chứng kiến những gì xảy ra quanh mình mỗi ngày, từ khi cả nước bị nhuộm một màu đỏ của máu.

“Bao giờ sấm trước có mưa, bao giờ cộng sản mà ưa dân mình” là câu nói truyền khẩu mà bà con rao truyền cho nhau nghe, một khi thấy rõ dã tâm của phương Bắc chiếm đoạt trọn vẹn Miền Nam, thống trị cả nước bằng sắt máu, bằng súng đạn, để tiến thẳng đến chủ nghĩa Xã Hội Chủ Nghĩa mà người cộng sản cho là “ưu việt”, là tuyệt vời.

Việc Uỷ ban Quân quản kêu gọi các anh em hạ sĩ quan, binh sĩ của chế độ Saigon trình diện, tham dự các khoá “bồi dưỡng chính trị Mác-Lê” kéo dài 3 hôm, tổ chức ngay tại phường khóm, rồi sau đó cho tất cả ra về được dư luận bàn tán không ngớt,  có người xem đó là một cách đối xử tử tế, rộng lượng, cũng không ít người nghĩ đó chỉ là những màn dàn dựng chứa đựng thâm ý nhằm thực hiện kế “điệu hổ ly sơn”, thi thố các chiêu độc hại đối với những người bại trận.

Đến đầu tháng 6 năm 1975, báo chí, radio, tivi Saigon Giải Phóng ra rả những thông báo yêu cầu tất cả sĩ quan từ cấp Thiếu tá đến cấp Trung tướng thuộc Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà phải ra trình diện để được hưởng sự khoan hồng và tham gia khoá học tập chính trị, mỗi người cần mang theo quần áo, đồ dùng cá nhân và tiền mặt đủ dùng trong một tháng. Bất cứ ai không tuân hành lệnh này sẽ bị Cách Mạng xử phạt thích đáng. Thông cáo cũng nhắc lại rằng tất cả anh em hạ sĩ quan, binh sĩ của chế độ Saigon được gọi tập trung đi học tập chính trị, nhưng sau đó toàn bộ được tự do ra về và làm ăn sinh sống yên ổn ở địa phương.

Thời hạn trình diện là hai ngày 14 và 15 tháng 6 năm 1975, tại các địa điểm tập trung, tuỳ theo nơi mình cư trú, là những trường đại học, trung học, tiểu học. Các cơ sở giáo dục này đang đóng cửa vì lúc ấy là thời gian sinh viên, học sinh nghỉ hè.

Theo lời kể của các thân nhân thì khi đến trình diện tại những cơ sở giáo dục được chỉ định, các sĩ quan cấp tướng và cấp tá được bộ đội tiếp đón tử tế. Buổi trưa có nhân viên thuộc những nhà hàng nổi tiếng ở Saigon, từng là nơi tổ chức tiệc cưới, mang cơm nước thịnh soạn đến phục vụ tận nơi. Bà con Saigon lại bàn bạc cho rằng mấy ông tướng, ông tá được chăm sóc chu đáo, ân cần như thế thì học tập chỉ một tháng trời, đâu có gì nhọc nhằn, gay go mà phải lo lắng quá đáng.

Nhưng bước qua sáng ngày 16 tháng 6 năm 1975 thì tất cả các vị trí tiếp nhận sĩ quan cấp tướng và cấp tá của Miền Nam đều vắng lặng, không còn một bóng người, không biết họ được di chuyển đi đâu trong đêm tối?

Dân chúng Saigon hoài nghi chủ trương của chính quyền mới, họ thắc mắc tại sao người cộng sản chỉ ra tay trong đêm tối. Trong thời kỳ chiến tranh du kích quân cộng sản cũng chỉ hiện về trong đêm tối, thu thuế, ám sát, giết hại quan chức, đặt mìn, phá cầu, cắt đường, đắp mô…

Sau khi bắt gọn toàn bộ sĩ quan cấp tướng và cấp tá thuộc Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, cho tất cả vào rọ một cách khoa học (bịp bợm, láo khoét), chính quyền cộng sản chuẩn bị kế hoạch “hốt hết, thà bắt lầm còn hơn bỏ sót” sĩ quan cấp Thiếu uý đến Đại uý của miền Nam mà quân số có thể lên tới hàng trăm ngàn người.

Mười hôm sau khi các sĩ quan cấp tướng và cấp tá của Miền Nam lên đường vào trại tập trung, Uỷ Ban Quân Quản ra lệnh cho các sĩ quan cấp uý trình diện đi học tập. Cấp Đại uý trình diện vào hai ngày 23 và 24 tháng 6 năm 1975, cấp Trung uý và Thiếu uý trình diện vào hai ngày 25 và 26 tháng 6 năm 1975. Địa điểm tập họp vẫn là những cơ sở giáo dục trong phạm vi Saigon-Chợ Lớn-Gia Định, mỗi người phải mang theo ít tiền, quần áo, thức ăn, đồ dùng đủ cho 10 ngày.

Đã từng đọc qua nhiều sách báo, nghiên cứu, thuyết trình về chủ nghĩa cộng sản quốc tế và cộng sản Việt Nam, tôi nghi ngờ là rồi đây tương lai của những “tù, hàng, bại binh” theo cách gọi của Cách Mạng sẽ không bình an, vô sự như họ thường rêu rao, tuyên truyền, khuyến dụ.

Theo tinh thần thông tư yêu cầu các sĩ quan cấp uý ra trình diện, tôi phải có mặt trong các ngày 23 và 24 tháng 6 năm 1975, dành cho cấp Đại uý, nhà tôi thuộc Quận 10, Saigon nên địa điểm tập trung là trường trung học Trần Hoàng Quân.

Tôi chuẩn bị ít quần áo cũ, mùng mền, gọn nhẹ, vét món tiền mọn dành dụm còn lại, tính ra chỉ đủ dùng trong vòng 10 hôm, vì hai con tôi, cháu trai,  Khiêm mới 19 tháng và con gái út, cháu Trâm vừa được 6 tháng, cần tiền mua sữa hơn. Tôi tin rằng “Trời sinh voi, sinh cỏ”, ai sao mình vậy, thua trận, đầu hàng, rơi vào tay địch thì kẻ thắng cho sống mình nhờ, mà họ buộc phải chết thì đành chịu thôi, có than vãn mấy cũng vô ích.

Tôi đến trình diện bộ đội Bắc Việt sáng ngày 24 tháng 6 năm 1975 vì muốn được sống tự do, quây quần với gia đình thêm một ngày nữa.  Nào biết, bước chân đi lần ấy biền biệt sáu năm sau mới may mắn quay về, tôi nói may mắn vì có rất nhiều bạn lính, bạn tù đã mãi mãi không về nữa.  Họ đã nằm xuống trong những ngục tù cộng sản ở hai miền Nam-Bắc, không một người thân, không một nắm mồ!

Hôm 24 tháng 6, 1975 buổi trưa trước khi lãnh phần ăn, mọi người phải ra sân tập họp, ngồi  dưới đất, phơi nắng, nghe cán bộ giảng về những nội quy, điều lệnh phải nghiêm chỉnh chấp hành, nói chung là cái “thòng lọng” cứ siết chặt dần, cho đến khi người ta bị ngộp thở, gục ngã.

Sau màn phơi nắng sơ khởi, mỗi người được phát một phần cơm, lon nước ngọt do các nhà hàng Tàu trong vùng thủ đô Saigon cung cấp. Cơm trưa xong là màn kê khai lý lịch, mỗi người phải xếp hàng, gặp cán bộ hỏi han một số chi tiết về mình.

Anh bạn xếp hàng khai báo lý lịch trước tôi kể lại rằng, bộ đội cộng sản hỏi anh thuộc đơn vị nào, anh đáp: “Lữ Đoàn Dù”, tên cán bộ viết xuống: “Nữ Đoàn Dù”! …

Đến phiên tôi, họ hỏi tên tuổi, cấp bậc, chức vụ, tôi khai: 28 tuổi, cấp bậc Đại uý Hiện dịch, chức vụ Chánh Văn Phòng Tham Mưu Trưởng Không Quân, trình độ học vấn, trên đại học…Bộ đội cộng sản nhìn mặt tôi và nói “Gớm! lên cho nhanh để đi giết người ấy”, các bạn đứng gần cười ồ lên, tay cán binh cộng sản không hiểu vì sao, cho tôi thông qua và gọi người kế tiếp.

Sau buổi cơm chiều, mọi người lo tìm chỗ nghỉ tạm qua đêm, rồi sẽ tính tới nữa. Nhiều anh bạn đi trình diện tay không, cho rằng nếu chỉ học tập có 10 ngày thì mang theo hành lý làm gì, một bộ quần áo mặc vào người, một bộ khác để thay đổi là quá đủ.

Đang ngồi, nằm la liệt dưới đất, mọi người bị tiếng còi inh ỏi đánh thức  lúc 12 giờ khuya, bảo phải tập họp gấp, đội ngũ chỉnh tề, chuẩn bị “cơ động hành quân”? Hết bắn nhau rồi, còn “hành quân” cái quái gì nữa? Sau này mời hiểu lệnh ấy có nghĩa là mọi người sắp di chuyển, lên đường đến vị trí khác.

Bên ngoài trời mưa tầm tả, giông gió liên hồi, tiếng máy nổ của đoàn xe vận tải vang rền. Chúng tôi thu dọn hành trang và ra tập họp ngoài sân, lúc ấy mưa như trút nước, từng nhóm 30 người xếp hàng chờ lên xe Molotova, mui vải bịt bùng. Lúc luống cuống leo lên xe, tôi bị trượt chân, trèo lên tuột xuống mấy lần, nên bị một tên bộ đội la mắng và dọng cho một báng súng AK 47 vào bả vai, đó là một đòn thù đầu tiên trong kiếp sống tù tội.

Tiếng còi, tiếng thét vang dội, thúc hối mọi người phóng nhanh lên xe, ai còn chần chờ, khó xoay trở vì mang theo túi hành lý kềnh càng thì bị bộ đội lấy báng súng nện sau lưng, quát tháo, xô đẩy, nhồi nhét cho đủ số người, rồi sập mui xuống, tối mù, ngộp thở.

Sao đêm hôm ấy trời lại mưa ngập nước, sấm chớp, giông tố kéo tới trên vùng Saigon, phải chăng đây là dấu hiệu cho thấy kiếp sống tù đày “cá chậu chim lồng” sẽ vô cùng cay đắng, khắc nghiệt, khổ ải triền miên ?

Xin thành kính tưởng niệm vong linh các bậc tiền bối, chiến hữu, đồng cảnh đã vĩnh viễn nằm lại trong chốn ngục tù cộng sản, cầu nguyện cho oan hồn của quý cô chú bác, quý anh, quý chị được siêu thoát Cõi Vĩnh Hằng.

Viết nhân tưởng niệm Ngày Quốc Hận 30 tháng tư năm thứ 45 (1975-2020) và để nhớ lại những ngày, tháng tù đày qua các trại lao động khổ sai: Hóc Môn, Long Giao, Hoàng Liên Sơn, Bắc Thái, Nghệ Tĩnh.

Đào Hiếu Thảo/ KBC 3011            

Thập Tử Nhất Sinh

Đỗ Dung

Đầu Tháng Giêng 2020, cơn đại dịch Coronavirus bắt đầu được thế giới biết đến từ thành phố Vũ Hán xa xôi bên Tầu, tin tức qua mạng khiến mọi người kinh hoàng. Số người chết tăng đến mức độ khủng khiếp và Vũ Hán trở thành “thành phố Ma”, vắng lặng, hoang vu đến rợn người.

Tại Hoa Kỳ, mãi đến khi mức độ lây nhiễm Coronavirus gia tăng một cách kinh khủng, Tổng Thống Trump mới tuyên bố tình trạng khẩn cấp trên toàn lãnh thổ. Tôi đang mang trong người căn bệnh hiếm, Primary Pulmonary Hypertension, mũi lúc nào cũng phải mang ống thở Oxygen nên các em và các bạn gọi điện thoại tới tấp nhắc nhở tôi phải tuyệt đối tự cách ly, các con cũng “ra lệnh” mẹ phải ở yên trong nhà vì mẹ là miếng mồi ngon của con virus. Mẹ gặp Cô Vy là … mẹ tiêu!

Khi Bắc Cali bắt đầu khoanh vùng và có lệnh cách ly từng quận hạt thì ông xã tôi cũng “shelter- in- place” luôn, không sang nhà con để chơi với các cháu nữa.

Chúng tôi hoạch định chương trình cho những ngày cấm cung. Trước hết phải giữ gìn sức khỏe, giữ tâm hồn thảnh thơi, ăn uống lành mạnh để tăng sức đề kháng. Hai ông bà già mỗi sáng ra vườn dọn dẹp, cắt tỉa hoa lá rồi làm vài động tác thể thao và tập thở. Tuy không gặp mặt, nhưng các con cháu vẫn thăm hỏi hàng ngày.  Qua “Facetime” được nhìn con cháu cũng đỡ nhớ. Có hôm các cháu nội ríu rít khoe đang dọn bữa điểm tâm cho cả nhà, các cháu ngoại thì mời ông bà cùng đi “virtual picnic” trên ngọn đồi sau nhà với cha mẹ chúng.

Tuần lễ đầu tiên, chúng tôi bắt đầu thu dọn nhà để xe, tìm ra mấy thùng ảnh ngày xưa, thế là bao nhiêu kỷ niệm cũ ùa về, hai vợ chồng già ngồi phân loại những hình ảnh của các con, các cháu ra ba hộp cho ba gia đình rồi sẽ giao cho chúng nó giữ làm kỷ niệm.

Đầu Tháng Năm, đang là giữa muà Xuân, cỏ cây reo vui dưới nắng, các loại hoa bắt đầu khoe sắc đem sức sống tươi vui đến cho muôn loài. Nằm ngoài vườn, nhìn lên bầu trời xanh trên cao ngẫm nghĩ về nạn đại dịch.  Suy nghĩ mông lung tôi cảm tưởng như có một mục đích tâm linh đằng sau những sự việc đang xẩy ra.  Phải chăng có một thông điệp sâu sắc nào đó của Thượng Đế muốn cảnh tỉnh loài người?

Con vi khuẩn nhỏ bé này đang làm đảo điên cả thế giới, nó len lỏi vào các ngõ ngách bất kể rào cản, nó tấn công tất cả mọi người không phân biệt giàu nghèo, không phân biệt giai cấp sang trọng hay cùng đinh.  Nó bất kể chủng tộc, văn hoá, tôn giáo.  Mọi người đều bình đẳng! Và nó có thể thăm viếng bất cứ ai!

Con virus này thật khủng khiếp, nó cô lập cả thế giới, mọi quốc gia đã lập nên những rào cản. Mọi người tự động xa cách nhau, những người thân yêu cũng chỉ nhìn nhau từ xa mà chẳng dám đến gần.  Thượng Đế gửi con siêu vi này đến để chia rẽ con người hay khiến con người nghĩ lại để thương yêu, đùm bọc nhau hơn?  Rõ ràng là không được gặp mới thấy nhớ, có mất đi mới thấy quý chứ bình thường thì người ta không biết trân trọng những gì mình đang có.  Cứ thế, tôi miên man suy nghĩ, hay phải chăng đây là sự trừng phạt của Thượng Đế vì con người đã liên miên tàn phá trái đất làm đau lòng Mẹ Thiên Nhiên, nào là sa thải những chất độc hại, rác rến làm ô nhiễm không khí, ô nhiễm biển khơi, nào là phá rừng, phá núi bừa bãi… Thêm nữa con người gần như muốn đoạt hết quyền năng của tạo hoá, vượt cả quyền hạn của hoá công.  Ngày nay gần như cái gì nhân loại cũng làm được, ngay cả khả năng sáng tạo ra con người, biến đổi gene di truyền của tất cả các chủng loại, hay định đoạt ngày sinh, ngày tử…

Sau nạn dịch này thế giới sẽ đi về đâu? Biến đổi trở nên đốt đẹp hơn hay ngày tận thế đã gần kề vì vô phương cứu chữa?  Tất cả sẽ bị xóa đi để mọi sự sẽ khởi đầu với những con người Nhân Chi Sơ Tính Bản Thiện!

Càng suy ngẫm tôi càng thấy thấm thía và có những lúc tôi ngồi nhìn lại mình và cố gắng tìm ra những bài học cho chính bản thân và gia đình. Trước nạn dịch này, trong hoàn cảnh cách ly của mình tôi phải làm gì!

Một buổi chiều sau khi thăm vườn tôi thấy những cây tía tô, kinh giới mọc lên từ những hột năm trước theo gió bay đi lung tung nay đã cao gần bằng ngón tay út, tôi lấy  một thùng plastic thật to dùng để dọn nhà khi trước, nhờ ông chồng tôi đục mấy lỗ dưới đáy để thoát nước, đổ đầy một thùng đất mới, đi gom nhặt mấy cây rau thơm, kinh giới, tía tô con mọc rải rác bên cạnh những gốc cây lớn để cấy sang chậu mới này.  Sau khi vào nhà rửa tay nghỉ ngơi thì tôi chợt lên cơn sốt, người nóng hầm hập nhưng vẫn cảm thấy lạnh run và môi miệng thì khô đắng.  Gọi cho cháu út kế bên, cháu ở liền vách với chúng tôi trong một căn “duplex”, hai nhà hoàn toàn riêng biệt chỉ chung mảnh vườn sau.  Cháu nói mẹ lấy Tylenol uống và uống thật nhiều nước.  Cháu chạy sang nhà anh nó, lấy nhiệt kế về để bố đo thân nhiệt cho mẹ.  Dù cảm giác nóng hừng hực nhưng thân nhiệt chưa quá 100 độ F nên cháu nói mẹ cứ nghỉ ngơi, không cần phải đi nhà thương, rồi cháu chạy đi mua nước cam, yaourt, trái cây tươi như táo, nho, lê,  lau chùi cẩn thận để ở chiếc bàn ở vườn sau, xong xuôi mới gọi điện cho bố biết để ra đem cất vào tủ lạnh.

Hàng năm, cứ mỗi khi hoa nở rộ là tôi hay bị allergy, có khi ngắc ngư cả tháng mới hết ho hắng, mệt mỏi, uể oải. Năm nay tôi chắc cũng vậy thôi nên dù đang dịch bệnh tôi không nghĩ là có thể nhiễm con vi khuẩn Covid-19 vì tôi đã cẩn thận cách ly rất kỹ. Các con cháu tôi còn lo giữ kỹ hơn, ngay cháu ở sát bên cạnh cũng không hề bước sang nhà mẹ. Đúng dịp này cô bạn thân VD gọi điện thoại  để nói chuyện chơi.  Nghe tôi kể, VD hốt hoảng nói nhà có lá xông thì đun nước xông ngay đi, ông xã của VD cũng đang bị như vậy vì tuần trước ông có đi chợ Costco.  Tôi chắc VD lo tôi bị nhiễm Covid-19 nên mới cuống lên như thế.  Nghe VD nhắc, nhà tôi ra vườn hái đủ các thứ lá, chanh, bưởi, quất, xả, rosemary, một bịch tía tô trong tủ lạnh cũng bỏ vào nồi luôn.  Như chợt nhớ ra, VD gọi nhắc tiếp cho thêm gừng và nhỏ vào nồi vài giọt dầu nóng.  Không biết làm sao MC biết tôi sắp xông cũng gọi tới nhắc nếu nhà có sẵn hồi nấu phở thì cho thêm khoảng chục cánh hồi vào.  Tôi nằm đắp chăn rên hừ hừ trong khi nhà tôi lo đun nồi lá xông, ông cũng lục trong tủ tìm được một nắm hồi cho tuốt vào nồi luôn. Tội nghiệp ông chồng tôi, chả bao giờ đụng tới bếp mà quýnh lên cũng nấu được cho vợ một nồi lá xông thơm phức.

Ông bưng nồi nước xông ra để ngay giữa phòng khách rồi dìu tôi để tôi ngồi ngay trước nồi nước xông còn đang đậy nắp, đưa tôi lọ dầu Bảo Tâm An rồi lấy tấm chăn dạ trùm kín người tôi. Mở hé nắp nồi từ từ, tôi nhỏ mấy giọt dầu, hơi nóng xông lên và tôi hít vào thật sâu, luồng khí nóng xuyên qua mũi đi vào buồng phổi rồi lan ra khắp châu thân. Mồ hôi nhỏ từng giọt ướt hết quần áo.  Tôi cứ ngồi hít thở như thế cho đến khi hơi nóng nguội dần rồi quấn cả chăn đứng lên, vào nhà tắm lấy khăn mặt thấm nước ấm lau mình cho khô rồi thay quần áo đi ngủ.

Ngủ yên được vài tiếng, tôi thức dậy,  cảm thấy trong người như khỏe khoắn hơn nhưng vòng quanh thắt lưng thấy nhói đau, từ hai bên hông trở xuống đau rêm và hai chân dường như không có sức.  Ăn qua loa, ngồi nghỉ một lúc, tiện còn nồi nước lá xông nhà tôi đun sôi lại, tôi xông thêm lần nữa rồi vào giường.  Thằng Út gọi sang nhắc mẹ uống một ly nước cam, ăn một hũ yaourt rồi hãy đi ngủ.

Từ mấy năm nay vợ chồng tôi ngủ hai phòng riêng vì nhà tôi đi ngủ sớm, tôi thường thức khuya.  Tôi thích đọc sách trước khi ngủ còn nhà tôi lại không thể ngủ được khi có một chút ánh sáng nên thôi thì đành “Không gì quý hơn độc lập tự do!”.  Đôi ta chung mái nhưng không chung phòng.  Thật là khỏe re!  Nhưng nay vì tôi bịnh nên nhà tôi nhất định ôm gối qua nằm chung vì sợ rằng ban đêm lỡ có chuyện gì tôi gọi mà ông không biết.

Thiu thiu một lát tôi thấy người khô ran, bụng óc ách muốn đi nhà vệ sinh, tôi quơ tay lấy cây đèn pin để ở đầu giường rồi lần mò vào nhà tắm.  Cũng may nhà tắm ở sát bên. Thế là như vòi chẩy, tôi bị té re, vừa tiêu vừa tiểu.  Lần mò về giường tôi uống hết gần nửa chai nước một lúc vì trong người quá háo. Nhìn sang bên cạnh nhà tôi nằm ngủ bình yên, chắc cả ngày lo lắng nên ông mệt.  Cứ thế, độ mỗi một giờ tôi phải dậy một lần để vào nhà tắm rồi uống nước, rồi lại vào nhà tắm cho đến sáu giờ sáng tôi mới ngủ thiếp đi một giấc dài hơn hai tiếng. Thức dậy thấy ông chồng nằm bên cạnh đã tỉnh ngủ nhưng còn nằm nướng đang nhìn tôi.  Người khô queo, miệng đắng nghét. Nhà tôi bưng vào một ly sữa nóng, tôi uống mà tỉnh cả người, có thể cả đêm mất nước nhiều và bụng cũng cảm thấy đói.

Ăn sáng xong tôi nằm ngay ở sô pha ngoài phòng khách xem TV, nồi lá xông còn tốt nên tôi đã xông thêm lần nữa, sau khi xông xong người khỏe khoắn hơn nhưng toàn thân vẫn còn đau nhức.  Riêng vùng quanh thắt lưng đau rêm và hai cẳng chân thì đau buốt. Nhà tôi ngồi bên xoa bóp hai cẳng chân và thỉnh thoảng đấm lưng cho tôi.  Tôi chập chờn nửa ngủ nửa thức, có những lúc tôi cũng ngủ thiếp đi. Qua buổi trưa tôi lại lên cơn sốt, người nóng hừng hực nhưng vẫn có cảm giác lạnh buốt ở bên trong. Cứ như thế mấy ngày liền cứ chiều là lên cơn sốt và cứ sốt thì uống một viên Tylenol 650 mg và mỗi ngày uống gần hết một bình nước cam.

Sau khoảng một tuần lễ như thế, tôi mất sức rất nhiều nên tối hôm đó sau khi xông, tôi ngủ được một mạch ngon lành từ 8 giờ tối đến 8 giờ sáng.  Nhờ vậy mới đỡ mệt. Sáng dậy, tôi đã ra đi dạo trong vườn và ngồi phơi nắng. Vào nhà tôi lục tủ lạnh lấy ra bịch xương bò, một vỉ thịt bò và sắp xếp hầm một nồi phở to để giành ăn mấy ngày cho lại sức.  Tưởng đã êm, không ngờ giữa đêm hôm ấy tôi bị một cơn lạnh thật khủng khiếp, người run bần bật, răng đánh lập cập.  Chưa bao giờ tôi lạnh đến như thế: “ Bố ơi…bố ơi… mẹ lạnh quá…. mẹ lạnh quá”. Nhà tôi vùng dậy lục tủ tìm mấy túi hạt chườm để ra hâm bằng lò vi sóng.  Tôi gần như nghẹt thở, há mồm thở dồn dập mà như không có khí vào phổi, tiếng vi vu như tiếng huýt sáo và những tiếng khò khè phát từ trong cơ thể.  Người tôi co rúm lại vì lạnh.  Phúc chí tâm linh làm sao tôi hét lên.  Maý sấy tóc, máy sấy tóc.”  May là máy sấy tóc tôi để ngay đầu giường vì tôi thường tắm buổi tối trước khi đi ngủ nên phải sấy tóc cho thật khô cho đỉnh đầu khỏi lạnh.  Nhà tôi chụp ngay máy sấy tóc, bật độ nóng nhất, thổi hơi nóng từ đầu đến chân, người tôi ấm dần lên, phổi như hoạt động lại, nhà tôi lấy máy đo oxygen, máy chỉ số 54! Trời ơi!! Tôi cố hít vào thật sâu, con số nhích lên từ từ…60, 68, 70…Nhà tôi ra bếp lấy hai muỗng rượu gừng mà chúng tôi lúc nào cũng có sẵn mấy lọ trong nhà, nâng đầu tôi dậy cho tôi uống luôn một hơi, trong người ấm hẳn lên và độ oxygen đã lên 88!  Như phản xạ, tôi niệm Phật: “Nam mô cứu khổ cứu nạn Quan Thế Âm Bồ Tát, Nam Mô cứu khổ, cứu nạn, Quan Thế Âm Bồ Tát”.  Nhà tôi lấy dầu nóng xoa bóp khắp người, xoa cả hai gan bàn chân.  Nhờ thế tôi chìm vào giấc ngủ.

Sáng hôm sau, nhà tôi nắm lấy tay tôi nói qua làn nước mắt “ Mình làm tôi sợ quá,  đừng bỏ tôi, đừng bỏ tôi...”. Nhớ lại cảnh ông già hơn tám chục tuổi chạy quýnh quáng trong đêm lo cho vợ, tôi thật thương.  Mọi việc chỉ chậm lại khoảng năm phút thôi là tôi đã theo ông bà rồi.  Khi nhìn độ Oxygen xuống tới số 54 tôi đã nghĩ thôi rồi, đã đến lúc tôi phải ra đi!  Lúc đó toàn thân tôi đã như đông cứng nhưng lại như có sự nhộn nhạo ở bên trong.  Miệng tôi há thật to, cố gắng thở nhưng dường như phổi đã đình công.  Thở ra mà không hít vào, máu không có dưỡng khí đem đi khắp châu thân, nếu độ oxygen xuống nữa tôi sẽ đi vào hôn mê, có thể tôi không bao giờ dậy nữa!  May làm sao tôi nhớ ra cái máy sấy tóc, hơi nóng đã nhanh chóng khiến cơ thể tôi phục hồi.  Tôi thật sự hoang mang, chả lẽ mình bị Cô Vy chiếu cố?  Làm sao tôi bị nhiễm Cô Vy được, tôi có ra khỏi nhà đâu! Mấy tháng nay đúng là “nội bất xuất, ngoại bất nhập”.   Ngay cả khi con đi chợ cho mẹ cũng không dám vào nhà, tháo hết giấy gói bỏ vào thùng rác rồi lấy giấy clorox lau chùi mọi thứ thật kỹ để ngoài garage hay ngoài vườn, 24 tiếng sau mới cho mẹ cất các thứ vào tủ.  Các cháu nhớ ông bà thì bố mẹ chúng nó cũng chỉ chở sang nhà ông bà nhưng bắt ngồi yên trên xe không được xuống, chỉ hạ kính cửa xe, vẫy tay nói chuyện qua cửa sổ xe rồi lại đi.  Hôm sinh nhật ông thì cả ba nhà đem bánh, đem quà đứng ngoài vỉa hè, mang khẩu trang đàng hoàng.  Chúng nó còn cẩn thận để riêng cho ông bà một chiếc bánh nhỏ rồi mới cắt chia mỗi người một miếng trong chiếc bánh thứ hai, bắt ông bà ở trong nhà, khoảng cách nguyên cái nhà xe, chúng nó đứng ngoài đường hát chúc ông, ăn bánh xong là đi!

Không dám tin, nhưng mà căn bịnh của tôi nghe…từa tựa, quen quen.  Sốt, rét, khó thở, mình mẩy ê ẩm, và… tào tháo đuổi.  Thảo nào mấy tháng qua chợ nào cũng bị thiên hạ đua nhau vét sạch hết cả nước lọc và toilet paper! Biết đâu chừng bịnh này do con Virus Vũ Hán truyền vào. Thật là hiểm ác.  May nhờ Trời Phật thương tình, may nhờ bạn bè nhắc nhở, may nhờ ông xã tận tình, cho nên tôi đã vượt thoát chuyện thập tử nhất sinh trong đường tơ kẽ tóc.

Cũng chính vì thế,  tối hôm qua khi thấy trong người khỏe khoắn hơn nhiều sau gần hai tuần chống chọi với bịnh tật, tôi liền ngồi xuống đặt bút viết một hơi, viết lại câu chuyện thật lần thứ hai “sém chút nữa tiêu tùng” của tôi để chia sẻ với quý bạn đọc những kinh nghiệm tôi đã trải qua và cách thức tôi chống chọi bịnh tật như thế nào ngõ hầu có thể giúp ích được cho ai đó nếu gặp phải hoàn cảnh tương tự.

Nhìn qua khung cửa sổ, mặt trăng gần như tròn xoe, trăng 13 còn đang e ấp khẽ mỉm cười.  Năm nay nhuận hai Tháng Tư ta, còn hai ngày nữa là rằm. Không dám thức khuya, tôi thu xếp tắt máy vi tính, vào phòng, ngồi trong bóng tối thở thật đều và đặt lưng xuống giường thở tiếp một lúc thì chìm sâu vào giấc ngủ.

Sáng nay, sau một giấc ngủ dài yên bình, không mộng mị, tôi vươn vai làm vài động tác nhẹ, cảm giác thật thoải mái chứ không trì trệ, nhức mỏi như mấy hôm trước.  Nhìn đồng hồ mới hơn 6 giờ sáng, không khí còn hơi nóng, người rịn mồ hôi cho tôi cảm giác như không khí Sài Gòn ngày trước.  Nhìn sang bên cạnh, ông chồng già đang say ngủ.  Tôi rón rén ra phòng khách, kéo màn, mở cửa sổ, trời đã rạng sáng, tôi ngồi khoanh chân tập thở. Cảm tạ Trời Phật, cảm tạ tổ tiên, ông bà nội ngoại hai bên đã phù hộ, đã giữ gìn tôi ở lại cõi đời này thêm một thời gian nữa.

Suốt hai tuần lễ vừa qua, trong nhiều đêm tôi đã có những cơn mơ lạ kỳ, có đêm tôi miệt mài trong computer, cả một trang đầy hình ảnh cỏ cây hoa lá trong vườn, tôi say sưa ngồi phân loại từng loài hoa, chia ra thành những video nhỏ rồi upload vào youtube.  Có video toàn hoa quỳnh, có video đủ loại hồng  hoặc toàn những giàn hoa leo… Cảm giác mệt nhoài nhưng rất thích thú vì nỗi đam mê.  Sáng ra vào computer chả thấy dấu vết gì, hoá ra là… mơ.  Một đêm tôi mơ như đang đi lạc vào giữa một đám người nhỏ bé đen đúa, họ như vây quanh níu kéo tôi, bỗng nhiên có một người đàn bà mặc áo dài tơ mầu vàng óng đẩy dạt mọi người ra, kéo tôi chạy thoát khỏi đám đông đó… và rồi có một đêm tôi đã như xem một cuốn phim của suốt cả cuộc đời, từ ngày anh em tôi di cư vào nam cùng bà nội, bố mẹ và cậu Thắng.  Có những lúc hình ảnh thoáng qua thật nhanh, tôi với LP và VD trong sân trường tiểu học Chợ Quán, bố mẹ, anh chị em, bạn thuở Trưng Vương… Tiếp theo là những ngày sau 75 ào ạt hiện về và rồi cuối cùng tôi thấy tôi ngồi trên chiếc thuyền con một mình bơ vơ giữa đại dương bao la trong đêm tối đen mịt mùng.  Lạnh quá, tôi choàng tỉnh.

Ban ngày khi xem tin tức qua internet, mặc những lao xao, những chống đối chửi bới nhau giữa những người không cùng chính kiến, mặc những lời nói thô bỉ, bẩn thỉu đến tột cùng thốt ra từ những người tôi tưởng là có học và hiểu biết, chả ai thuyết phục được ai vì ai cũng khư khư cho mình là đúng, tôi chỉ biết thở dài ngao ngán.  Riêng tôi thì nhìn vào những điểm tốt đẹp, lạc quan do nạn dịch đưa đến mà vui sống.  Gia đình chúng tôi gắn bó nhau hơn, các chị em tôi vài tuần lại Zoom meeting một lần.  Ba gia đình ba đứa con tôi gần gũi, yêu thương nhau hơn bao giờ.  Không đến nhà nhau nhưng vẫn gặp mặt nhau hàng ngày trên text, trên facetime.  Từng gia đình nhỏ đã có những bữa ăn sáng, ăn tối chung một lúc chứ không mạnh ai về lúc nào ngồi ăn lúc đó như khi trước.  Ngày nào cũng như có tiệc, nhà này khoe nhà kia hôm nay ăn món gì và bầy ra những món như lẩu, sushi, bò nướng vỉ , bò nhúng giấm hay gỏi cuốn, bì cuốn… hai bà mẹ trẻ chỉ sửa soạn, sắp sẵn các thứ để trên bàn rồi mọi người tự làm lấy, cả nhà quây quần thưởng thức. Sáu đứa cháu nội ngoại sau những giờ học online lại ríu rít cười đùa với nhau. Hạnh phúc là đây!

Nhiều người lo sợ nước Mỹ sẽ tan hoang vì những biến cố xẩy đến chập chùng, hết chuyện này đến chuyện khác.  Người chống Trump, kẻ phò Trump, cả trăm ngàn người đã mất đi cuộc sống để lại bao thương tiếc, đau khổ cho người thân… Nhưng theo tôi, tôi vẫn tin rằng mọi việc rồi cũng sẽ qua đi.  Nước Mỹ sẽ lại tươi đẹp và vẫn là miền đất hứa, là thiên đàng đáng sống mà chúng ta đã may mắn được đến đây.

Nước Mỹ luôn Vĩ Đại như Tiến sĩ Mai Thanh Truyết đã viết:

Qua kinh nghiệm sống trong việc phòng chống China Virus trong những ngày “tự nguyện cô lập”, người viết thấy rất rõ là Nước Mỹ Vĩ Đại, vĩ đại không phải vì có một chánh quyền mạnh, tài nguyên dồi dào, thiên nhiên ưu đãi…mà chính vì dân trí người dân Hoa Kỳ với tâm lành, lương thiện, biết đoàn kết và chấp nhận hy sinh trước một vấn nạn chung của Đất và Nước.

Từ hình ảnh những túi thực phẩm hiện diện khắp các nẻo đường do bà con tự nguyện đóng góp và phân phối.

Từ những khẩu trang may vá đơn sơ được hàng trăm hàng ngàn bàn tay của người lao động hảo tâm may cắt nhằm hỗ trợ cho Bác sĩ, Y tá ngày đêm chiến đấu với cơn dịch không quản ngại tấm thân. 

Làm sao mà quên được tinh thần tương trợ của người dân Hoa Kỳ trong sự đoàn kết chống China virus.

Tất cả những sự vĩ đại đó nằm trong tâm hồn của hơn 325 triệu dân gồm đủ mọi sắc tộc đến từ khắp nơi trên quả địa cầu hình thành ra một Hiệp Chủng Quốc và cùng hội tụ trên mảnh đất màu mỡ của đất nước Hoa Kỳ nầy.

Chì có ở Hoa Kỳ, và chỉ có ở Hoa Kỳ chúng ta mới thấy được những hình ảnh thân thương và cảm động trên! 

Đó mới thực sự là VĨ ĐẠI.

Xin cám ơn Đất, Nước, và người dân Mỹ đã cưu mang những người con Việt trên bước đường tha hương vì quốc nạn CSBV.”

Câu chuyện này đến hôm nay, Thứ Bẩy ngày Rằm tháng Tư nhuận, năm Canh Tý (6/6/2020) tôi mới hoàn tất.  Viết xong tôi cảm thấy rất nhẹ lòng.  Nhìn ngoài trời nắng đã lên cao, nắng rất đẹp, nắng đem lại niềm vui và hy vọng cho tôi, cho mọi người trên nước Mỹ và trên toàn thế giới. Nguyện cầu cho nhân loại được bình an thoát khỏi hẳn cơn đại dịch….

Tôi đến bên bàn thờ, niệm Phật xong thì thỉnh ba tiếng chuông

Boong… boong… boong

Nhắc nhở tôi… buông, buông, buông

Tôi đã hít vào thật sâu và thở ra thật nhẹ nhàng.

Đỗ Dung

6/6/2020

Tuổi Hoàng Hôn

Đỗ Dung

Bà Phiên kéo rèm, mở tung hết các cửa sổ cho nắng sớm ùa vào phòng.  Nắng Tháng Ba vàng tươi, trong trẻo.  Đúng là Nàng Xuân đã tới, đã xua đi những u ám, xám ngắt của những ngày tháng mùa đông lạnh lẽo. Bước ra vườn sau, bà vươn vai, hít thật sâu cho không khí trong lành của buổi ban mai tràn vào đầy buồng phổi. Trời đẹp quá, mấy cây cải Nhật như đang say sưa tắm nắng, cây cối đã hồi sinh.  Những hột kinh giới, tiá tô, húng quế, húng lủi, dấp cá… rơi xuống từ mùa trước nay đã nẩy mầm cho ra những cây con bé li ti.  Những chùm nụ hồng bé tí đã ra đầy trên giàn, mấy cành Quỳnh điểm những nụ hoa xinh xinh bằng đốt ngón tay út. Nhìn qua hàng rào, rặng cây Dogwood sau nhà đơm đầy nụ trắng thanh khiết, gió nhè nhẹ, không gian thoang thoảng thơm như hương hoa Lài, hoa Ngọc Lan.

Bà Phiên đứng xoay lưng về phiá mặt trời cho mắt khỏi chói và nắng không rát mặt, bắt đầu vẫy tay tập Dịch Cân Kinh.  Bà thủng thỉnh đếm, hết một ngàn cái vẫy, bà ngồi xuống chiếc ghế bành, xoa bóp chân tay. Tiếng ông Phiên vọng ra từ sân trước: “Bà đâu? Bà đâu?”, ông chạy ra sân sau nhìn thấy bà thì hạ giọng thì thào: “Wisteria đã có hoa!”.  Thế là như lò xo bật dậy, bà liú riú theo ông ra ngắm cây Tử Đằng.

Những chồi hoa bằng ngón tay, như những chiếc đuôi chồn nhỏ chi chít bám cành, đong đưa trong nắng như đang cười trêu ghẹo bà Phiên.  Niềm vui thích êm ả, len nhẹ trong lòng khiến bà lâng lâng sung sướng.  Dạo bà mới bịnh, Quy, cô con gái, thương mẹ mua tặng bà một cái computer để bà tiếp xúc với thế giới bên ngoài cho đỡ buồn.  Những vườn hoa Tử Đằng bát ngát hiện ra trên máy khiến bà say sưa.  Bà yêu màu tím từ nhỏ, màu tím của mộng mơ. Những giải hoa tím ngát cả bầu trời đã khiến bà tương tư, bà ước ao sao trong vườn nhà có một giàn phủ đầy hoa đẹp như thế.

Năm ngoái, khi mới dọn về ngôi nhà này, một hôm khi đi Home Depot để mua thêm vài món đồ lặt vặt, hai cây Wisteria to, cao đứng ở góc vườn khiến bà ngẩn ngơ.  Xe của ông chở không vừa mà ngày thường các con phải đi làm, sao mua được đây!  Cả đêm bà nhớ cây mà ngủ không được, không biết đợi đến cuối tuần thì nó có còn ở đó hay không.

May qúa, hôm sau, Khoa, anh con trai lớn đi làm về sớm ghé thăm xem mẹ mới dọn nhà có cần gì thì giúp. Bà kể chuyện bà sợ có người mua mất cái cây yêu quý của bà thì Khoa bật cười nói ngay: “Mẹ thay quần áo đi, con về nhà lấy xe truck rồi con đến đón mẹ đi mua liền”.  Thế là bà toại nguyện.

Thằng “Củ Khoai” của bà nay đã chững trạc, trưởng thành, đã cho bà ba đứa cháu nội thật xinh và ngoan. Nhớ lại những ngày sau Ba Mươi Tháng Tư năm ấy, cô Phiên còn là một thiếu phụ trẻ, chưa đến ba mươi, gia đình cô kẹt lại, chồng cô phải đi tù cải tạo, bé Quy, con chị  “Củ Mì” hơn ba tuổi, thằng em “Củ Khoai”chưa đầy một năm, hai đứa phải lủn tủn theo mẹ đi bán chợ trời.  Buổi trưa dắt con vào hành lang thương xá Tax, trải miếng vải nhựa cho con nằm, xoa lưng cho con ngủ mà cô tức tưởi, nghẹn ngào.  Ngày trước chỉ có ăn mày mới nằm thế này, vậy mà bây giờ ba mẹ con cô có khác chi họ, cũng lây lất nằm đây. Hết giờ nghỉ trưa, thương xá mở cửa, cô lại thu vén dắt con ra lề đường trải tấm nilon để mua bán tiếp. Bà nội ốm đau, bà ngoại cũng phải bương chải kiếm sống, các dì, cậu còn phải đi học, cô chẳng thể nhờ ai, đành phải tha con theo mình.  Thằng bé ngồi ghế nhỏ đằng trước, con chị ôm lưng mẹ đằng sau và hai bên ghi đông chiếc xe đạp treo hai cái giỏ cói chất hàng hóa mua bán hàng ngày.  Cuối tuần cô mới dám để con ở nhà bà ngoại chơi vì các dì, các cậu nhỏ được nghỉ học.

Những nhọc nhằn, khốn khó rồi cũng qua đi, cũng đến ngày ông Phiên được thả về, hai vợ chồng bà qua những gian truân cũng đưa được hai con đến vùng đất hứa bình an. Sang đây bà lại có thêm cu Lam, thằng con út Trời cho. Cu Lam năm nay đã ba mươi, cu cậu chí thú làm ăn, mua căn duplex xinh xắn này cho cha mẹ ở một bên còn cậu ở một bên với một chàng room-mate cho đỡ tốn tiền nhà.

Tiếng ông Phiên đưa bà về thực tại:

       – Này bà ơi, cây hồng vàng cũng đầy nụ rồi này.

Bà săm soi, quả thật mấy chùm nụ hoa vàng đã tượng hình, mỗi nụ hoa chỉ to bằng đầu chiếc đinh ghim.  Bà trêu:

       – Mắt nhỏ mà tinh quá ta. Ông giỏi!

Ông nhún vai, nguýt bà một cái thật dài.

Bà đi thu hoạch, nguyên hái hai cây quất chưng Tết cũng được đầy một rổ, cũng phải vài trăm trái.  Ông xách vòi nước đi tưới cây. Bà vào sửa soạn món điểm tâm và làm đồ ăn để ông đem “đi làm”. Mỗi ngày ông Phiên sang nhà Khoa chơi với các cháu. Quy cũng ở gần đấy nên sau giờ học nhờ ông đón thằng cu út về ở chơi với đám con cậu Khoa. Thằng cháu ngoại lớn nhất chỉ còn hơn một năm nữa là vào đại học, thằng em kế học dưới anh hai lớp nên hai đứa có thể tự túc đi bộ về nhà. Sau bữa ăn sáng bà sửa soạn bữa ăn trưa cho các cháu rồi bà tiễn ông đi.

Nằm đu đưa trên chiếc võng trong bóng rợp của vườn sau bà thả hồn về dĩ vãng, nhớ đến nhóm bạn Trưng Vương thời áo trắng.  Những cô nữ sinh chuyên môn bát phố vào buổi trưa.  Năm Đệ Nhất học buổi sáng nhưng đôi khi phải học thêm buổi chiều nên cả lũ ở lại trường, rủ nhau đi bộ, vào hẻm Casino ăn bún chả, bánh cuốn rồi tà tà bước sang góc đường Lê Lợi – Pasteur, nơi có nước miá Viễn Đông, đu đủ bò khô, bò biá, lại còn khay phá lấu của ông Tầu, những miếng phá lấu thái miếng nhỏ vừa ăn, cắm sẵn vào những que tăm, mấy đứa đứng xúm xít vòng quanh, hào hứng lấy từng que, chấm tương ớt, bỏ vào miệng mà hít hà, sau đó cứ đếm tăm trả tiền. Vòng trở lại mé chợ Bến Thành, các cô làm thêm một ly đậu đỏ bánh lọt hay sâm bổ lượng.  Thật là ngon rên mé đìu hiu.  Bụng no căng các cô đi bộ trở lại Lê Thánh Tôn, khúc khích, rúc rích đùa giỡn với nhau trên con đường rợp mát bóng me xanh để trở về trường. Sau Tú Tài mỗi người một phương, đứa học môn này, đứa theo môn nọ, lại có cô lấy chồng, theo chồng đi xa. Rồi tiếp đến ngày đổi đời năm bảy lăm, thêm một lần tan tác.

Cứ thế liên tiếp bà nhớ lại chuyện này, chuyện nọ, chuyện những vất vả gian nan khi vượt biển rồi những khó khăn chật vật lúc đầu nơi xứ người.

Thấm thoắt mấy chục năm trôi qua, biết bao thăng trầm, bão tố. Bây giờ bà đã gần bẩy mươi, ngồi đây trong khoảng không gian tĩnh lặng tuyệt vời cuả một buổi sáng muà Xuân.  Không gian là của bà, thời gian là của bà.  Thỉnh thoảng tiếng kêu chíp chíp của những con chim nhỏ hay tiếng quàng quạc của những cánh chim đen bay chuyền cành trên cây cổ thụ bên nhà hàng xóm.

Bà đang ở tuổi hoàng hôn của cuộc đời, nắng đang từ từ tắt.  Đến một lúc bà hiểu ra lẽ vô thường của vạn vật, không có gì là trường tồn, vĩnh cửu.  Bà đã buông bỏ tất cả để vui những ngày ngắn ngủi còn lại trên cõi đời này. Với bà bây giờ còn mảnh vườn nhỏ cho bà chăm bón, vài tháng nữa cây cối sẽ vươn lên, bà sẽ vuốt ve, chuyện trò với chúng, hạnh phúc nhìn chúng từ từ lớn lên. Những buổi sáng bà sẽ đi bộ quanh vùng, thảnh thơi ngắm nhìn hoa thơm, cỏ dại, tận hưởng những phút giây êm đềm của hiện tại.  Ba đứa con của bà đã có cơ ngơi vững vàng, cuộc sống gia đình hạnh phúc, bà không phải quan tâm đến chúng nữa. Những ngày cuối tuần thỉnh thoảng bà nấu bữa ăn ngon gọi con cháu về quây quần cho bà nghe tiếng cười ríu rít trẻ thơ.  Những ngày nghỉ hè ông bà theo con cháu ra biển hay vào rừng ở những nơi hoang dã, xa lánh trần thế, sống gần thiên nhiên.  Bà sẽ cùng ông ngắm trăng trên biển, nhìn ánh trăng lao xao trên mặt nước hay thanh thản đi bộ bên nhau dọc theo bờ cát.

Hai con khỉ già hơn bốn chục năm sống có nhau, đúng là chia ngọt sẻ bùi.  Những lúc nhìn ông lụ khụ, nhìn bà già yếu bà cũng bùi ngùi nghĩ đến lúc chia tay.  Ai đi trước, ai còn ở lại với vai trò chiếc đũa lẻ. Nhưng rồi bà lại nghĩ sinh tử là chuyện đương nhiên, có ai sống hoài, ai cũng phải một lần ra đi. Lo nghĩ trước làm chi, cứ vui với những gì đang có trong tầm tay, ở đây, bây giờ, hôm nay.

Cứ nghĩ rồi bà lại tìm cách trút bỏ những bợn nhơ, vướng bận của cuộc đời, buông hết đi những bi lụy để chỉ còn cái tâm trong sáng.  Những vạt nắng chiều không trong trẻo, tinh khôi như nắng sáng nhưng ngọt như mật và rồi nắng cũng sẽ tàn, sẽ tắt  khi mặt trời xuống dần, khuất hẳn sau rặng đồi phía xa. Nhìn lên trời xanh thăm thẳm, bà Phiên yêu quá cuộc đời này.

Đỗ Dung