Ngày Của Cha– FATHER’S DAY – Chủ Nhật 18/6/2017

Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu chính là đạo con

Hải Bằng  HDB

*
Trên toàn quốc Hoa Kỳ, ngày vinh danh người cha là ngày Chủ Nhật của tuần lễ thứ 3 trong tháng Sáu.  
Tại sao vinh danh người cha?  Ai là người có ý nghĩ đầu tiên về Ngày Của Cha?  Con cái cũng như người phối ngẫu, nên làm gì để Ngày Của Cha có ý nghĩa đậm đà hơn hết?
 
Cô Sonora Dodd gốc ở Washington là người đầu tiên có ý nghĩ vận động cha Ngày Của Cha khi cô lắng nghe lời thuyết giảng về Ngày của Mẹ vào năm 1909 và cô tự hỏi tại sao lại không có một ngày tương tự cho người cha?
   Nguyên cha của cô là ông William Smart, một cựu chiến binh của Cuộc Nội Chiến Nam Bắc Mỹ, đã ở vậy nuôi con khi vợ của ông qua đời lúc bà sinh hạ người con thứ sáu trong một trại miền quê ở miền đông Washington.  Khi trưởng thành, cô Sonora cảm thông sâu xa về lòng vị tha của cha trong hoàn cảnh gà trống nuôi con.  Cô nghĩ cha cô đã phải là người hết lòng tận tụy và hy sinh tất cả cho hạnh phúc của các con.  Cha cô qua đời vào tháng Sáu, vì vậy cô chọn cử hành Ngày Của Cha đầu tiên tại Spokane, Washington vào ngày 19 tháng 6, 1910.  Và cuộc vận động cho Ngày Của Cha bắt đầu từ năm đó.
   
Ngày vinh danh người cha được nhìn nhận muộn màng so với ngày vinh danh người mẹ. 
Ngày Của Mẹ được nhìn nhận vào năm 1914, còn Ngày Của Cha được Tổng Thống Lyndon Johnson ký nhìn nhận vào năm 1968 tuy Tổng Thống Calvin Coolidge đã ủng hộ ý kiến nhìn nhận Ngày Của Cha từ năm 1924.  Có lẽ vì người Mỹ thường quá bận rộn nên việc này phải chờ lâu mới dược giải quyết chăng?
*
Nhân loại hầu hết khởi sự cuộc sống theo chế độ mẫu hệ, nghĩa là, con cái chỉ biết có mẹ mà không biết tới cha là ai.  Chẳng bao lâu sau đó, với trí khôn bén nhậy hơn, cả người nam và người nữ cùng cảm thấy sự gắn bó yêu thương đặc biệt với nhau bắt đầu nẩy nở và người nữ cần có sự che chở trung thành của người nam nên dần dần chế độ mẫu hệ chấm dứt nhường chỗ cho chế độ phụ hệ ra đời và cuộc sống có phân công rõ rệt: đàn ông lo săn bắt, đàn bà hái quả và trông nom con cái.  Từ đó, địa vị đầu đàn của người đàn ông càng ngày càng được củng cố thêm.
 
Chế độ phụ hệ hình thành là một bước tiến dài trong cuộc sống của nhân loại.  Con cái được bảo vệ và chăm lo đầy đủ và chu đáo hơn.  Trách nhiệm của người đàn ông, người cha nặng nề hơn, tình yêu thương trong bầy từ đó nẩy nở, gắn bó hơn, và cuộc sống trở nên vui tươi hơn.  Do đó có câu tục ngữ “đàn ông làm nhà, đàn bà tạo tổ ấm” (man makes a house, woman makes a home).   
 
Tình cha con cũng như tình mẹ con là thiêng liêng phát xuất từ máu mủ nên trong lương tâm của cha mẹ cũng như con cái đều có tiếng gọi thiết tha của yêu thương và của nhu cầu tìm đến nhau để chia xẻ.  Do đó, cha mẹ nào cũng hết lòng lo cho con, nhưng mỗi người chăm sóc và tỏ tình yêu thương một khác.  Người mẹ ngọt ngào và khéo léo hơn trong việc cho con ăn uống; người cha ít ngọt ngào nhưng khôn ngoan hơn trong việc dạy bảo con.  Con cái sẽ không thể nào quên được những tình thương trọn vẹn của cả cha lẫn mẹ.  Lúc còn trẻ dại, chúng cảm thấy cha mẹ là nơi nương tựa, là lá chắn, là quê hương của chúng. 
*
Người Việt chúng ta có tục thờ cúng tổ tiên, ông bà để tỏ lòng nhớ ơn.  Ca dao có câu:
Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu chính là đạo con
 
Ðạo Phật và Ðạo Khổng sau này du nhập nước ta giúp những tình cảm thiêng liêng và những giá trị đạo đức xã hội căn bản được phát huy sâu rộng hơn.  Ðây là một vài tư tưởng của cổ nhân đáng suy ngẫm. 
 
Khổng Tử nêu lên đạo làm cha: “Cha mẹ nuôi con mà không dạy là không yêu con.  Dạy mà không nghiêm cũng là không yêu con vậy.  Cho nên nuôi con thì phải dạy; dạy thì phải nghiêm; nghiêm thì phải siêng; siêng thì tất làm nên được.” 
 
Như vậy, phải nên hiểu nghiêm là gì?  Có lẽ nên hiểu nghiêm là nghiêm cả với chính mình chứ không chỉ nghiêm với con.  Nghiêm với chính mình tức là mình phải làm gương tốt trước.  Cũng trong ý nghĩa đó, người Mỹ có câu “Ðừng lo con cái không nghe lời mà hãy coi chừng chúng đang nhìn những điều mình làm.”  
 
Tư Mã Ôn nói: “Nuôi con không dạy là lỗi của người cha.  Dạy dỗ không nghiêm là lỗi của thày học.  Cha dạy, thày nghiêm mà học hỏi không nên người là lỗi của người con.”
Mạnh Tử nói: “Người xưa dạy con đổi cho nhau, vì chỗ cha con không trách thiện.  Trách thiện thì xa nhau. Xa nhau thì không gì bất tường hơn.”
Lã Vinh nói: “Trong không cha, anh hiền; ngoài không thầy, bạn tốt mà nên người được thì ít có lắm vậy.” 
Tóm lại, người cha được coi là chủ gia đình và có trách nhiệm dạy con.  Dạy con thì phải nghiêm bao hàm ý nghĩa là chính mình phải nêu gương đạo đức như “Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín”, chứ không phải là nghiêm khắc với con.  Những giá trị đạo đức này, người Mỹ đều nhìn nhận và phát huy chặt chẽ. 
*
Nhà thơ Khiết Châu Nguyễn Huy Hùng ở Cali (cựu Đại Tá Sĩ Quan Truyền Tin/QLVNCH) có bài thơ Ngày Của Cha như sau: 
 
Ngày của Cha: Father’s Day
 
Ðất Mỹ có ngày để nhớ cha
Hàng năm, tháng Sáu, trẻ bên già
Chia nhau chiếc bánh mừng thương bố
Sương gió, bụi đời xám nếp da
Ðất Mỹ có ngày để nhớ cha
Vì dân, vì nước phải bôn ba
Ðêm ngày gian khổ không sờn chí
Tóc bạc, răng long vẫn diệt tà
 
Ðất Mỹ có ngày để nhớ cha
Canh khuya thao thức vọng quê nhà
Chiến binh hoài bão còn giang dở
Vững chí đường dài chẳng ngại xa
 
Ðất Mỹ có ngày để nhớ cha
Gương trong: Thành, Tín, Lễ, Trung, Hòa
Ðuốc ngời: Hiếu, Nghĩa, Nhân, Liêm, Dũng
Con cháu nhờ ơn phước Bố Già
*
Người Mỹ cũng đề cao vai trò người cha và con cái nên phải vinh danh người cha
Có những câu đáng suy ngẫm như sau: 
 
·         Cha tôi là ai; điều đó không quan trọng.  Ðiều quan trọng tôi nhớ cha tôi là ai. (Anne Sexton)
·         Một người cha hơn cả trăm thầy giáo (tục ngữ Anh)
·         Con ngoan biết làm cha vui (A wise son maketh a glad father, Old Testament)
·         Người con nào biết vinh danh cha sẽ sống thọ (he that honoureth his father shall have a long life)
·         Một nhu cầu lúc còn nhỏ thật vô cùng cần thiết cho tôi là sự che chở của một người cha (Sigmund Freud).
 
Có mười điều răn đối với một người cha Mỹ là: 
 
1.    Cố gắng làm gương tốt (Strive to be a good example)
2.    Yêu thương con cái (Love your children)
3.    Yêu vợ (Love your wife)
4.    Có sáng tạo (Be creative)
5.    Dạy con cái biết tách rời bạn (Raise your children to leave you)
6.    Dành thì giờ vui với con cái (Spend time with your children)
7.    Nói chuyện với con cái (Communicate with your children)
8.    Kỷ luật các con đúng mức (Discipline your children properly)
9.    Phát triển óc hài hước (Develop a sense of humor)
10. Thích thú được là người cha (Enjoy being a father)
          Ðối với sự tận tụy của người cha như vậy, con cái phải đền đáp lại như thế nào cho phải lẽ?
 
Các nhà hiền triết thuở trước bày tỏ những ý đáng suy ngẫm như sau:
  
Thiên Khúc Lễ viết:
          Hễ làm con thì khi đi phải cho cha mẹ biết; lúc về phải cho cha mẹ hay; chơi phải có chỗ; nói năng chớ bảo cha mẹ là già. [góp ý]
         
Khổng Tử nói:
          Cha còn sống, xem khí cha; cha mất, xem nết cha.  Ba năm không thay đổi đạo cha, khá gọi là hiếu.
          Tuổi cha mẹ không thể không biết.  Biết để mà mừng và biết để mà lo.
         
Thái Công nói:
          Mình hiếu với cha mẹ, con mình cũng sẽ hiếu với mình.  Còn mình không hiếu, hỏi sao con hiếu được.  Hiếu thuận sinh con hiếu thuận; ngỗ nghịch sinh con ngỗ nghịch.  Chẳng tin, hãy xem nước mái nhà: giọt trước nhỏ sao, giọt sau nhỏ vậy.
  
Tăng Tử nói:
          Cha mẹ yêu thì mừng và không quên ơn.  Cha mẹ ghét thì mệt mà không oán.  Cha mẹ có lỗi thì can mà không làm phật ý. [góp ý]
  
Mạnh Tử kể 5 tội bất hiếu:
          (1) Chân tay lười biếng không làm nuôi cha mẹ.  (2) Say mê cờ bạc, rượu trà, không nghĩ đến cha mẹ.  (3) Ham tiền của, chỉ lo cho vợ con, chẳng đoái hoài tới cha mẹ.  (4) Làm cho vui tai, sướng mắt và mang nhục cho cha mẹ.  (5) Ham sức mạnh, thích đánh nhau để cha mẹ liên lụy.
  
Tăng Tử nói:
          Hiếu là nết đứng đầu trăm nết.  Hiếu cảm đến trời thì gió mưa hòa thuận.  Hiếu cảm đến đất thì cây cỏ tốt tươi.  Hiếu cảm đến người thì phúc, lộc, thịnh vượng.
*
          Thời buổi nay ở Mỹ, cha mẹ thường không phải nhờ vả vào con cái nhiều như trước mà chỉ mong con cái biết nghĩ đến mình: 
 
Một Tấm Lòng
Tôi chẳng cần chi – chỉ tấm lòng
Tấm lòng ưu ái nghĩ về nhau
Dòng thư thăm biết cha còn khỏe?
Cú điện hỏi xem mẹ có đau?
Quân tử xa xôi luôn nhớ bạn
Tiểu nhân kề cận vẫn quên bầu
Thần giao cách cảm vô biên giới
Quên mất, nhớ còn, rất nhiệm mầu
Hải Bằng HDB

Những Ca Khúc Về Cha

Vũ Quang Miên Trường

 

Ca khúc về Cha được ưa thích nhất có lẽ là “Papa” của Paul Anka.

Bài hát kể về một người đàn ông có vợ mất sớm nhưng vẫn ở vậy nuôi con tới khôn lớn . Đến khi già, người cha khuyến khích con ra đi xây dựng tương lai thay vì phải làm nghĩa vụ nuôi nấng ông . Với giai điệu trầm buồn dù tiết điệu nhanh, “Papa” luôn làm người nghe xúc động vì tình yêu và sự hy sinh của người cha .

Một bài hát khác cho Cha là “Song For Dad” của Keith Urban

Người con trai khi lớn khôn rồi, nghĩ lại, mới thấy thấm thía tình yêu của cha đối với gia đình dù khi nhỏ anh thường trách cha quá nghiêm khắc .

A Song For Dad – Keith Urban
http://www.azlyrics.com/lyrics/keithurban/songfordad.html
Với người Việt, các bài hát về Cha rất ít so với các bài hát về Mẹ .

Những ai yêu mến nghệ thuật Cải Lương hẳn không quên tuồng hát “Tiếng Hạc Trong Trăng” của soạn giả Loan Châu  diễn tả tình phụ tử cao quý .

Vở hát này đã làm nổi danh hai tên tuổi Thành Được và Thanh Nga .

Xuyên Lan là con của tướng cướp Thy Đằng bị thất lạc từ nhỏ, nên khi phát hiện được Xuyên Lan là con của mình thì Thy Đằng đã hy sinh đôi mắt.

Bài vọng cổ “Tìm Cha Nơi Đâu” diễn tả nỗi thương nhớ sâu xa của người con mất cha.

Tình Cha trong tôn giáo luôn là tình yêu bao la, sâu đậm .

Linh mục Tiến Linh có những bài hát về tình Cha cao vời của Đức Jesu Kitô

Đức Phật là người cha bao dung nhất, nhưng Người không chỉ đem lại tình thương mà còn đưa ánh sáng của sự minh triết như trong ca khúc “Phật Đang Trong Ta”.

Tình Cha luôn luôn hiện diện dù ở bất cứ phương trời nào Tây hay Đông .

Nhưng với Việt Nam, mảnh đất đầy bất ổn, người Cha phải chịu cực khổ hơn, vất vả hơn , như được mô tả trong ca khúc “Cha” , đặc biệt được phổ theo thể nhạc Rap .

Làn da cháy nắng, vai còng nhấp nhô,

cuống đôi chân, ông đạp qua bao phố phường.

Giọt mồ hôi rơi, cho con lớn khôn, bữa cơm no,

chiếc áo mới đến trường.

Đứa con nào đâu thèm nghĩ suy,

ngày qua chỉ trách cha cơ hàn,…

Vũ Quang Miên Trường

Chiếc Ba Lô Để Lại

Nguyễn Văn Sâm

1.

Sau cơn mưa, đường ngập linh láng như biển. Chiếc xe 14 chỗ ngồi của chúng tôi vừa lội vừa thở phì phò, xém tắt thở nhiều lần mới thoát được vùng ‘biển hồ’ Minh Phụng để quẹo vô đường 3 Tháng Hai. Khúc nầy tương đối ít ngập, chỉ tới nửa bánh, xe cộ vì vậy cũng nhiều hơn. Nước không còn tạt vũ bão ra hai bên hông như trước mà phóng ra với vẽ hiền thục dễ thương. Sau thời gian đụt mưa thiên hạ gấp về, nhiều anh vọt lẹ, lắm khi xẹt qua đầu xe lớn đương ngon trớn mà coi như không, khiến anh tài xế lâu lâu lại chắc lưỡi lắc đầu.

Bỗng nhiên có tiếng thắng mạnh.Mọi người bị giựt ngược, tỉnh ngủ. Tài xế mím môi, la lớn:

‘Khiến!’

Rồi anh xuống giọng như nói với mình:

‘Không mau chưn mau cẳng thì bà hú nó rồi!’

Hành khách trong xe nhớn nhác ngó nhau. Hai ba người đàn bà đưa tay vuốt ngực.

Chiếc xe gia tốc, chồm tới, cố gắng bắt kịp người thanh niên phóng bạt mạng kia. Đèn đường bật lên đỏ. Cả hai đậu song song chờ. Tài xế quay cửa kiếng xuống, chồm đầu ra ngoài, phun nước miếng cái phẹt xuống đường, nói lớn với kẻ làm anh giựt mình hồi nảy:

‘Mầy đứng lại cho tao lạy mầy mấy cái chớ mầy chạy kiểu đó chắc tao chết vì đứng tim. Mầy tội nghiệp tao với chớ! Tao đâu có muốn vô tù đâu!’

Người thanh niên nhăn răng cười rồi chỉ chờ đèn đường bên kia vừa bật qua màu vàng là phóng thẳng bất kể những chiếc chót của làn lưu thông ngược chiều chưa qua hết khoảng đường trước mặt.

Tôi cười thầm. Anh tài xế nầy nói chuyện có văn hóa giao thông ghê. Chẳng bù với tháng trước tôi ngồi trên xe buýt, cũng trường hợp tương tợ, tên nhóc tì phụ xế kiêm bán vé đã ló đầu ra ĐM lia chia rồi tuyên bố một câu xanh dờn:

‘Mấy muốn tự tử thì về nhà mà tự tử, ngon thì vô đồn công an mà tự tử. Mầy nên nhớ mạng mầy chỉ có ba chục triệu thôi không hơn đâu.’

Không khí im lặng nảy giờ trở nên sôi động bằng những lời bàn tán chung quanh chuyện chạy ẩu của xe nầy xe kia. Anh tài xế nói lớn:

‘Làm nghề nầy thấy cái chết của thiên hạ quá thường nên nhàm luôn, trở thành vô cảm trước máu me. Chết vì chạy ẩu xị, chết vì do xe lớn lấn đường, do tài xế mệt mỏi, xỉn xay, ngáo đá, hay do đường xá xấu hư làm lạc tay lái… Muôn ngàn lý do, kề tới mai chưa hêt!.’

Tôi lên tiếng cho vui:

‘Chết vì tài xế mua bằng nữa đó cha nội. Học ba xí ba tú, lái chưa rành, mót tiền quá chạy đi mua bằng, lên xe ngồi điều khiển mà không hiểu luật lại vụng về nên thường làm chết thiên hạ rồi bỏ xe lẫn trốn…. chuyện nầy xảy ra hà rầm.’

Anh tài xế dễ thương tuy nghe nói đụng chạm tới giới của mình nhưng vẫn làm thinh.

Tiếng ai đó, giọng của người đứng tuổi:

‘Thét rồi hết muốn ra đường. Sợ quá! Những cái chết nát thây không báo trước. Còn hơn là ngày xưa đi hành quân hay nhảy toán. Đời sống bây giờ thiệt là bất an!’

Không khí trong xe tới đây thì lắng xuống, ai nấy theo đuổi tư tưởng mình.

Khi xe quẹo vô đường Nguyễn Kim thì người bạn tôi nói vọng ra sau:

‘Nếu chừng mờ mờ sang đi tới đây, góc Nhật Tảo và Nguyễn Kim nầy, dưới gốc cây dầu bự chảng bên tay trái, thì sẽ gặp một người đàn ông còm cõi đứng phụ vợ bán bánh giò. Đó là người bạn lính trước đây cùng đơn vị của tôi ở Pleiku. Anh ta tên Thanh, bị lựu nổ mất nửa bàn tay mặt, đương chờ giải ngũ thì đứt phim. Lãnh lịch hết gần chục có đầu. Nay gặp lại bạn bè xưa nhiều khi anh làm lơ hay ngồi cho có mặt, thường ngó mông lung. Lạ lắm!’

Tôi ngạc nhiên hỏi lại vì cái chép miệng sau khi xuống giọng của bạn:

‘Chục có đầu sao không đi H.O. mà ở lại cho cực thân.’

‘Vậy đó!’

Tôi không biết gì thêm từ hai tiếng trả lời gọn lỏn kiểu miền Tây của bạn nhưng biết chắc chắn rằng người đàn ông phụ vợ bán bánh kia là người đặc biệt. Và tôi thấy mình cần phải tìm hiểu anh ta.

Vậy mà sau gần cả tháng tôi mới làm thân được với Thanh. Cũng nên kể ra đây lần gặp gỡ của tôi với Thanh.

2.

Sáu giờ sang trời còn lờ mờ nhưng thành phố đã thức. Những người lớn tuổi đi bán giấy số bắt đầu đổ xô ra đường. Mấy chiếc xe bán thức ăn nầy nọ đã được đẩy ra vị trí và đốt lò. Tôi thay quần sọt ra đi tới chỗ người bạn tôi chỉ hôm nọ và ngồi xuống một cái ghế nhỏ không thể nhỏ hơn để kế bên hai xửng bánh bao bánh giò của cặp vợ chồng nầy. Người vợ luôn tay lấy bánh bỏ vô bao xốp trao cho khác với nụ cười giao tế. Người chồng lãnh nhiệm vụ thâu tiền. Nụ cười cũng có trao đổi với khách nhưng hơi gượng gạo. Tiếng cám ơn luôn luôn thốt ra mỗi khi anh hoàn thành một dịch vụ.

Ngồi câu giờ cố ăn hết một cái bánh bao và một cái bánh giò nóng, tôi liếc chừng chừng quan sát con người đặc biệt kia.

Hình như anh ta cũng bắt thóp được ý định của tôi nên thỉnh thoảng đưa mắt ngó. Tôi phóng ra con bài ngoại giao bằng nụ cười và cả cái nheo mắt nhưng anh cố tình làm lơ. Ăn xong ý chừng đã ngồi hơi lâu tôi mua thêm một cặp bánh nữa và đưa cho anh tờ giấy nửa triệu, với câu nói nhỏ:

‘Anh khỏi thối, mình xin phép được chia sẻ với anh.’

Tôi nhận được câu trả lời lạnh băng như là người đối thoại cố tình làm cho mình tức giận:

‘Chúng tôi buôn bán, không ăn xin! Anh cầm tiền thối.’

Tôi vớt vát:

‘Mình cùng cảnh ngộ ngày trước’, tôi thấy mình hay ho tận mạng khi đem ra xài mấy chữ nầy, vừa nói vừa ren rén ngó mau về bàn tay phân nửa của anh ám hiệu rằng cùng là cựu quân nhân.‘Bây giờ khá hơn anh nên xin chia sẻ. Anh nhận để mua quà cho các cháu.’

Người bán hàng đẩy mạnh tay tôi ra với số tiền thối lại, quyết liệt:

‘Chúng tôi không có con. Xin lỗi anh. Anh cầm. Tôi còn phải thối tiền các khách khác.’

Thế mà tôi vẫn kiên nhẫn lập lại lời yêu cầu nầy hai lần tới sau đó nữa. Lần thứ ba thì anh chắc lưỡi, bỏ tiền thối vô xấp tiền anh cầm. Chắc là lần nầy nhờ tôi nhắc tên người bạn chung. Tôi ngồi nán lại để anh dãn khách, nói vài ba câu vô thưởng vô phạt rồi ra về. Hai bên nói chuyện tâm tình bên mấy ly trà nóng một cách tự nhiên những lần sau đó…

3.

Tôi ra trường với lon Thiếu Úy lúc 24 tuổi, tình nguyện vô binh chủng cọp ba đầu rằn.Thời chiến chinh, mỗi người làm hết bổn phận mình trong chức vụ mà xã hội phân công, cách nầy hay cách khác, đó là điều bắt buộc. Cam đảm hay hèn nhát gì cũng không bằng hên xui: bà độ hay bà xô vô chỗ tử. Phải giữ vững tinh thần, lương thiện và không nghĩ đến cái chết mới sống đúng nghĩa người trai. Hơn một năm sau khi ra trường tôi về tiểu đoàn sau khi lên Trung Úy.

Những lúc rảnh rỗi, ngó lại anh em dưới quyền trong đơn vị, so sánh với cuộc sống lạc điệu của hậu phương, tôi cũng văng tục thầm. Mẹ ơi, hậu phương làm mình giận muốn nổi cơn điên. Cho nên binh sĩ dưới quyền, tôi thương hết biết. Nhiều đứa đi phép về trễ vài ba ngày tôi cũng nạt nộ để tụi nó không lờn nhưng báo cáo hay làm gì đó nặng hơn thì không.

Cầm đầu phải làm gương, tôi xông vô nguy hiểm coi như đạn có bổn phận tránh mình. Cũng làm thơ hào hùng kiểu Hồ trường: Ta xông pha hề, trận mạc. Coi tử sinh hề, cỏ rác dưới chân. Thỉnh thoảng hớp ngụm rượu của đàn em rồi sảng khoái ngâm nga tử sinh hề, cỏ rác… vui đời lính, thương đồng đội, quên mình đương ở tuổi cần có bên mình một bóng hồng…

Trong trận Hạ Lào năm đó, Tiểu đoàn tụi tôi bị tụi nó cầm chưn. Được bỏ thêm để giải vây cho đồng đội, nhưng chúng tôi bị lún. Chúng pháo kích ngày đêm nhưng tấn công lần nào cũng bị tiêu diệt trọn. Bên mình cũng hao bộn do mỗi lần một ít. Tôi được lịnh là sáng mai lúc trời hơi tan sương mù thì trực thăng bốc, ưu tiên thương binh.

Vậy mà chuyện đau lòng xảy ra đêm đó.

Thằng Tánh trung sĩ thường trực, đệ tử ruột của tôi bị nạn. Cái thằng cũng trí thức lắm, nó rớt Tú Tài nên đi Trung sĩ. Khuya tôi đương thiu thiu ngủ sau ba ngày trắng dờ con mắt thì nghe báo cáo Tánh bị đạn nặng lắm. Tôi nói nó ngủ trong hầm mà bị đạn cái củ c. gì. Nãy giờ có trái nào nổ gần đâu.

Thiệt ra thì khuya thằng con bò ra ngoài đi tiểu. Miểng nhỏ pháo kích từ đâu bay ra cắt đứt mạch máu chủ ở háng.

Tôi tới thì anh em đương xúm bên nó, lo lắng. Quân y cố hết sức cầm máu. Thằng Tánh thấy tôi thì mắt sáng lên nói thiệt lẹ, rõ ràng:

‘Em không sao đâu Trung Úy. Chuyện nhỏ! Sẵn dịp lên trực thăng về thăm vợ luôn. Con vợ em đương có bầu ba tháng. Chắc nó cũng nhớ em.’

Tôi đuổi mấy đứa không có phận sự ra chỗ khác. An ủi nó. Nó cứ lập đi lập lại hoài điệp khúc ‘không sao đâu là không sao đâu’. Bác sĩ Quân Y ngó tôi với cặp mắt buồn, nói thiệt nhỏ trong khi thằng Tánh vẫn nói không sao đâu:

‘Không xong, máu ra nhiều quá, vết thương lớn không bịt được.’

Nó thấy mặt tôi buồn chắc là hiểu được điều chúng tôi trao đổi nên trở giọng:

‘Em lạnh quá Trung Úy! Có bề gì thì Trung Úy mang ba-lô em về cho bà xã em. Bả tên Trinh, địa chỉ ở trong đó. Tiền lương tháng nầy với phần còn lại từ trước cũng mấy ngàn. Nó cấn thai được ba tháng. Trung Úy giúp đỡ nó với con em giùm. Tụi em đồng ý đặt tên con là Trần Trinh Thảo Tánh. T tứ thừa đó Trung Úy. Cái tên tụi em nghĩ nát óc mới đặt được đó Trung Úy.’

Thằng Thạch Buôn, từ xa diễu dở bằng mấy tiếng ‘Nôm luôn! Hốt hụi chót!’ Tôi đứng rột dậy, lên cò súng quát lớn: ‘Mầy nói lại một lần nữa đi!’

Thạch Buôn lạy như tế sao rồi chuồn thẳng.

Tôi cởi áo trận đắp cho Tánh. Nó run lập cập than lạnh liên hồi. Hai tay tôi nắm hai bàn tay lạnh ngắt của nó nói: Không sao đâu để anh đem ba-lô về cho. Mà chắc không cần nữa, em lo được chuyện đó. Dễ mà! Nó nhắm mắt thì thào: ‘Coi tử sinh cỏ rác dưới chân…’ Tôi vuốt mắt nó, đứng dậy chùi nước mắt của mình. Chúng tôi ở kế nhau cũng hơn một năm. Mến tay mến chưn. Nó đoán biết ý của tôi, không bao giờ làm trái, cũng không sa đà trong chuyện cờ bạc, gái gú mỗi khi ra thị xã…

Đạn trung liên của địch bắn liên hồi nhưng chiếc trực thăng bốc quân điêu luyện luồn lách cũng hạ xuống an toàn. Chừng chục thương binh được di chuyển lên sàn phi cơ lẹ làng không thể tưởng. Viên Trung Úy trách nhiệm ra lịnh cho những ai lên trước lên sau sắp hàng thứ tự. Cuối cùng khi phi cơ vừa nhấc mình lên thì cũng là lúc ông chạy ra cố gắng cho phần mình.

Cái ba lô nặng làm ông chạy chậm, gió phần phật từ cánh quạt gần như đuổi ông ra xa. Cuối cùng trong lúc gần hụt thì hai tay giơ lên của ông được hai binh sĩ nào đó trên phi cơ chụp dính.

Phi cơ bốc lên cao, khỏi ngọn cây. Đạn bắn chéo chéo bên tai và gió thổi vù vù. Viên Trung Úy thấy mình càng lúc càng tuột ra khỏi tay người nắm. Cái chết đã cận kề. Bỗng nhiên ông thấy mình được nắm vững, thân mình ông với cái ba lô trên vai treo tòn teng song song với càng trực thăng. Một người thương binh nào đó đã cố nhoài mình ra nắm được hai cái quai đeo của ba lô. Chắc chắn.

Mọi người reo hò khi viên Trung Úy được kéo lọt vô sàn. Bên ngoài đạn vẫn vẽ những lằn đỏ cong cong. Tiếng người phi công nói:

‘Anh may mắn cùng mình, những trường hợp như vừa rồi một trăm phần trăm là rớt xuống.’

Viên Trung Úy lột ba lô ra, cúi xuống vỗ vỗ, nói trong sự ngạc nhiên của những người không biết chuyện Trung sĩ Tánh:

‘Cám ơn em đã cứu anh, anh sẽ làm tròn lời hứa…chắc chắn như đinh đóng cột.’

Tôi không thể nào chịu nổi cảnh người vợ khóc chồng. Cô ta ngã xuống như cái bị rách ai đó liệng xuống đất, đầu úp lên cái ba-lô, hai tay ôm choàng như ôm người tình.

Đau lòng như xé ruột tôi muốn bỏ đi nhưng nhà cô ta đơn chiếc quá, chỉ có một mẹ già, bà đương đứng xơ rớ với cặp mắt đỏ hoe, không biết thương cho số phần con cháu mình hay thương thằng rể vắn số. Chừng một giờ sau tôi kiếu, đi chập chạng như về từ đám tang người em ruột thịt của mình, không còn nhớ mình lang thang ngoài đường đã bao lâu.

4.

Tôi trở lại căn nhà đó chừng năm lần nữa mỗi khi về phép. Lần nào cũng vậy, tôi cố tình ngồi lại trong thời gian thiệt ngắn. Tôi sợ tình cảm trai gái nẩy nở. Mọi chuyện rồi không biết sẽ về đâu. Đúng hay sai. Con bé T tứ thừa học càng ngày càng giỏi. Mẹ bé cho biết cha bé ngày trước đùa là nếu anh hy sinh thì bất cứ giá nào em cũng xin cho bé vô trường Quốc Gia Nghĩa Tử. Tôi có đến đó hỏi thì được biết phải chờ cho bé xong Tiểu Học mới được. Trường chỉ bắt đầu bằng lớp Sáu thôi.

Rồi tôi bị thương ở bàn tay nầy. Chưa kịp báo tin cho ai thì phải đi gỡ lịch. Trong thời gian dài tôi tập sinh tồn bằng cách quên hết mọi chuyện bên ngoài, nhắm mắt trước những bất công và vô lý, tập quên mình là ai.

Khi được thả ra thì biết bao nhiêu chuyện đổi thay đã ụp xuống vùng đất thua trận. Nhà cô ta đã đổi chủ hai ba lần. Không ai biết cái gia đình ba người đàn bà ba thế hệ đó trôi dạt về đâu. Ai  cô thế mà ở yên được với chánh sách dãn dân vô lý trong thập niên đầu họ từ rừng chui ra?

Nhiều khi ngủ tôi chiêm bao thấy lại cảnh thằng Tánh nói ‘Em lạnh quá’ rồi i ỉ ngâm nga ‘Coi tử sanh hề, cỏ rác dưới chân. Cảnh nầy đan chéo với cảnh cái bàn thờ đơn sơ có tấm hình nó cười, dưới chưn bàn thờ là người đàn bà tóc tai rũ rượi ngồi khóc, kế bên bàn thờ là cái ghế cao cẳng có đặt đứng cái ba lô của nó. Cái ba lô đã cứu mạng tôi. Cái ba lô tượng trưng cho tình yêu của nó và gợi cho mặc cảm của tôi về sự không làm tròn lời hứa. Tôi thấy mình như có lỗi với Tánh và với con bé T tứ thừa.

Đó cũng là một lý do khiến tôi không góp đơn ra đi theo dạng H. O. Lý do khác là tôi muốn chứng kiến tận mắt coi người ta đọa đày đất nước nầy tới nước nào. Tôi không phải là người được đào tạo để làm theo cách thế của bất kỳ ai khác dầu cho họ là đám đông khôn khéo tới mức nào, tôi có hệ thống giá trị của riêng mình. Và tôi theo nó tận cùng…

Nguyễn Văn Sâm

(San Diego, CA, 30-04-2017)

Hình Ảnh Luật Pháp Trong Những Vần Thơ

Nguyễn Văn Thành

Theo các nhà sử luật danh tiếng tỷ như Lord Birkett hay Louis Blom-Cooper, nét nổi bật nhất của thẩm phán Anh đã đi tiên phong, từ nhiều thế kỷ trước đây, đưa văn thơ vào pháp luật qua nhiều ngả như xây dựng một lý thuyết hay đặt ra các nguyên tắc pháp lý để áp dụng vào các vụ tranh tụng thuộc luật pháp Anh Cát Lợi thường được gọi Luật Hồng Mao (Anglo-Saxon). Trái lại, ở lục địa tỷ như Pháp, Bỉ, Hòa Lan, Ðức lại chịu ảnh hưởng của luật La-Hy (Greco-Roman), ta thấy thủ tục pháp lý đặt ra các khuôn mẫu phải tuân theo mỗi khi có quyết định của Tòa. Trong khi đó, thẩm phán Anh không bị gò bó vào các thể thức rập khuôn cứng ngắc, đã có nhiều cơ hội rất thích hợp đưa ra các ý kiến pháp lý, phê bình những lý thuyết, đề ra những nguyên tắc hoặc bàn cãi về phong tục tập quán liên hệ tới thông luật (common law) với ngôn ngữ chọn lọc kỹ càng trong một văn phong pháp lý tuyệt diệu đã đóng góp nhiều công trình giá trị làm phong phú sách báo khảo luật. Ðó là những Pháp Lý Tập San đủ thể loại được coi như không những là kho tàng vĩ đại của luật pháp mà còn là kho tàng đồ sộ của văn học vậy (The Law Reports are not only a great treasury of law but they are a great treasury of literature- Luật Pháp như Văn Học – The Law as Literature – do Louis Blom-Cooper biên soạn).

Nét Đặc Trưng

Về thi ca liên quan tới pháp luật, ta thấy các nhà phê bình văn học và sử luật đều đồng thuận như sau: “Hầu hết các bài thơ đề cập tới chủ đề pháp lý chứa đựng nội dung rất ghê sợ. Không giống như văn xuôi, thật vô cùng khó khăn sưu tầm được những bài thơ kể câu chuyện truyền cảm với lối viết hết sức lôi cuốn đưa ta bay bổng lên cao để tạm vượt thoát khỏi cuộc sống hiện tại”.
Chúng tôi không đi sâu vào các lý thuyết hay quan niệm hoặc khuynh hướng phân tích sự tương đồng và khác biệt giữa luật pháp và văn học. Trong bài này, người viết sẽ nêu lên vài nét đặc trưng của thi ca pháp lý về sự phê phán nói trên, thể hiện qua ba bài thơ tiêu biểu dưới đây:

1- INVICTUS

Theo tiếng La Tinh, invictus có nghĩa không bị bại hay không thể chinh phục được.
Thi sĩ Anh William Ernest Henley mở mắt chào đời ngày 23 tháng 8 năm 1849 tại Gloucester và qua đời ngày 11 tháng 7 năm 1903 tại Woking, gần Luân Ðôn. Thời thơ ấu Henley mắc bệnh lao và sau đó bị cưa cụt một chân. Trong thời gian hai năm ở Bệnh viện tại Edinburg (1873-1875), thi sĩ đã viết bài thơ Invictus về những ngày trải qua tại bệnh xá, nói lên sự khát khao về cuộc sống, và nỗ lực chống lại căn bệnh nan y.
Ðó là bài thơ được nhiều người ưa thích nhất vào thời bấy giờ mà tử tội Mạc Vệ (Timothy McVeigh) đã chép tay trao cho người gác ngục thất Liên Bang Terre Haute, Indiana để đưa cho báo chí và truyền thông phổ biến thay cho lời nói cuối cùng của y, trước khi bị chích ba mũi thuốc độc, để về bên kia thế giới.
Mạc Vệ can tội đặt bom phá hủy Tòa Nhà Liên Bang Alfred P. Murray ngày 19.4.1995 ở Oklahoma làm thiệt mạng 168 người trong đó có 19 trẻ em. Y không hề ăn năn hối hận, cho đến lúc tới giờ hành quyết, tử tội Mạc Vệ vẫn mở mắt trừng trừng nhìn lên trần nhà như hãy còn oán hận chính phủ liên bang đã ra lệnh cho nhân viên thuộc Cục Ðiều Tra Liên Bang FBI tấn công vào trụ sở của giáo phái Branch Davidian ở Waco, Texas, giết chết 70 người vừa trẻ em và đàn bà. Ðó là nguyên nhân vụ trả thù đặt bom ở Oklahoma khiến cho Mạc Vệ bị hành quyết lúc 7 giờ 15 phút ngày thứ hai 11.6.2001 tại ngục thất liên bang Terre Haute, Indiana (tham khảo bài “Án tử hình” của cựu thẩm phán quân sự Nguyễn Ðình Trí, bút hiệu Kinh Huy).

Theo giáo sư Marian Hoctor, bài thơ Invictus phản ảnh chủ nghĩa khắc kỷ (stoicism) mà tác giả muốn nói lên vào thời đó. Còn Mạc Vệ muốn mượn lời thơ của người để nói lên sự chống đối chính phủ liên bang Hoa Kỳ được tiết lộ trong lá thư của y gửi cho báo the Observer qua bản tin của đài BBC. Tác giả Kinh Huy đã trích 4 câu thơ trong số 16 câu trong bài Invictus do nhà thơ Henley làm năm 1875:
“Ðầu ta đẫm máu nhưng không gục
Ngoài nơi đầy hận thù và nước mắt
Ta là chủ soái vận mệnh ta
Ta là giáo chủ linh hồn ta”
(My head is bloody, but unbowed
Beyond this place of wrath and tears
I am the master of my fate
I am the captain of my soul)

INVICTUS

William Ernest Henley

“Out of the night that covers me,
Black as a Pit from pole to pole,
I thank whatever gods may be
For my unconquerable soul.
In the fell clutch of circumstance
I have not winced nor cried aloud,
Under the bludgeonings of chance
My head is bloody, but unbowed.
Beyond this place of wrath and tears
Looms but the horror of the shade,
And yet the menace of the years Finds,
And shall find me, unfraid.
It matters not how strait the gate,
How charged with punishments the scroll,
I am the master of my fate:
I am the captain of my soul.”

BẤT BẠI
Ra tự màn đêm che tôi, phủ khắp,
Ðen như than cực bắc đến cực nam,
Tôi cảm tạ các thần-linh cùng khắp
Ðã cho tôi hồn bất khả chinh an.
Dù thời thế hay cuộc đời khắc-nghiệt
Ghì tắc thở, tôi vẫn chẳng hé môi than,
Và may rủi mà có như đập riết,
Ðầu máu me tôi vẫn cứ ngang tàng.
Sau nơi này đầy phẫn nộ, lệ rơi,
Cùng lắm là tởm ghê nơi Diêm-xứ
Mặc đe dọa của tuổi đời tôi cứ
Vẫn thấy tôi chẳng biết sợ, còn xơi.
Cửa vào Thiên-đường dù như rất hẹp,
Tội-trạng kia cũng có thể đầy bồ
Tôi vẫn là chủ tôi nguyên trọn kiếp,
Là xếp hồn tôi bẻ lái vào hư-vô.

2- FROM THE BALLAD OF READING GAOL

Oscar Wilde (Fingal O’Flahertie Wills), người Anh sinh tại Ái Nhĩ Lan năm 1854 và mất ngày 30.11.1900 tại Paris, Pháp.
Vào năm 40 tuổi, Oscar Wilde, kịch tác gia, tiểu thuyết gia, nhà thơ và người kể chuyện dí dỏm, đã đạt tới đỉnh cao chót vót của danh vọng, nổi tiếng chẳng những ở Anh, ở Ái Nhĩ Lan mà còn vượt đại dương. Nhà văn học Wilde sang Hoa Kỳ năm 1882 thuyết trình về nhiều đề tài. Tiểu sử và tác phẩm của Oscar Wilde chiếm một chỗ trang trọng (trang 218) trong tác phẩm vĩ đại lưu tại Thư Viện Quốc Hội, Washington DC (Luật Một Kho Tàng của Nghệ Thuật và Văn Học – Law A Treasury of Art and Literature – Edited by Sara Robbins).
Rủi thay, Wilde có liên hệ tình dục với người cùng phái, bị Tòa Án tại Luân Ðôn, kết án ngày 26.05.1895, phạt hai năm tù với khổ dịch về tội “kê gian” (sodomy). Luật hình Anh Quốc rất khắt khe, vào thời đó, cấm chỉ việc làm tình với người cùng phái tại phòng riêng của mình dù là thành niên hay thuận tình. Khi nghe Tòa tuyên án, Wilde đã khóc, khóc cho mối tình mà không dám nói rõ tên ở thế kỷ này hay khóc cho những ngày tháng dài lê thê trong ngục tù?
Phạm nhân Wilde khai phá sản trong vụ kiện tai tiếng nhất được gọi The Queensberry Case, một trong một trăm vụ án lớn nhất trên thế giới, về sự giao du thân mật với Lord Alfred Douglas, 22 tuổi, thứ nam của Hầu Tước Qeensberry. Cả hai người, Wilde và Douglas, không bao giờ có cơ hội gặp lại nhau nữa kể từ ngày Wilde bị truy tố ra Tòa và bị kết án.
Trong thời gian trên, bị áp lực của Hầu Tước Queensberry và các cuộc tranh cãi lớn giữa cha con, Douglas phải sống lưu vong tại Ý nhưng đã viết xong bài thơ mang tựa đề “Hai Mối Tình”. Còn Wilde, có lẽ lời nói cuối cùng về cuộc đời ngắn ngủi và bi thảm nằm trong sáu câu thơ chót mà đương sự hoàn tất, trước khi lìa đời, coi như lời kết “Bài Ca Nhà Tù Rét-Ðinh”, muốn nói lên nỗi tuyệt vọng không còn được đoàn tụ với Alfred Douglas nữa.
Sau khi thụ án xong hai năm, ra khỏi tù, Wilde cảm thấy bơ vơ không có nơi dung thân tại Anh nên di chuyển sang Âu Châu tự buộc mình sống cuộc đời lưu vong và cuối cùng quyết định định cư tại Paris, Pháp quốc.
Sống trong tủi nhục và nghèo khổ, Wilde mắc bệnh viêm màng óc, từ giã cõi đời năm 46 tuổi tại Paris, để lại nhiều tác phẩm nổi tiếng tỷ như The Importance of Being Earnest and An Ideal Husband.

THE BALLAD OF READING GAOL
(Trích 6 câu)
Oscar Wilde
I know not whether Laws be right,
Or whether Laws be wrong;
All that we know who lie in gaol
Is that the wall is strong;
And that each day is like a year,
A year whose days are long

BÀI CA NHÀ TÙ RÉT- ĐINH
Tôi chẳng biết luật thế-gian có đúng
Hay là sai;
Tôi chỉ biết là ở trong nhà tù túng
Tường thật dầy
Nên mỗi ngày dài bằng cả năm
Lê thê rụng

3- LAW LIKE LOVE

Thi sĩ Auden (Wystan Hugh) sinh năm 1907 tại Yorkshire, Anh Quốc, sau nhập tịch Hoa Kỳ, tạ thế năm 1973 tại Vienne. Tác phẩm nổi tiếng nhất của thi sĩ Anh Auden là bài thơ Luật Như Tình. Nhiều tác phẩm văn xuôi lớn tỷ như Luật Pháp trong Văn Học hay Luật Pháp như Văn Học đã chọn đăng ngay trang đầu sách, một bài thơ duy nhất, đó là bài Luật Như Tình. Sau nhiều năm sưu tầm tại các thư viện, người viết chưa tìm thấy được bài thơ nào có nội dung và văn phong như bài thơ nói trên.

LAW LIKE LOVE
W. H. Auden

Law, say the gardeners, is the sun,
Law is the one
All gardeners obey
Tomorrow, yesterday, today.
Law is the wisdom of the old
The impotent grandfathers shrilly scold;
The grandchildren put out a treble tongue,
Law is the senses of the young.
Law, says the priest with a priestly look,
Expounding to an unpriestly people,
Law is the words in my priestly book,
Law is my pulpit and my steeple.
Law, says the judge as he looks down his nose,
Speaking clearly and most severely,
Law is as I’ve told you before,
Law is as you know I suppose,
Law is but let me explain it once more,
Law is The Law.
Yet law-abiding scholars write;
Law is neither wrong nor right,
Law is only crimes
Punished by places and by times,
Law is the clothes men wear
Anytime, anywhere,
Law is Good-morning and Good-night.
Others say, Law is our Fate;
Others say, Law is our State;
Others say, others say
Law is no more
Law has gone away.
And always the loud angry crowd
Very angry and very loud
Law is We,
And always the soft idiot softly Me.
If we, dear, know we know no more
Than they about the law,
If I no more than you
Know what we should and should not do
Except that all agree
Gladly or miserably
That the law is
And that all know this,
If therefore thinking it absurd
To identify Law with some other word,
Unlike so many men
I cannot say Law is again,
No more than they can we suppress
The universal wish to guess
Or slip out of our own position
Into an unconcerned condition.
Although I can at least confine
Your vanity and mine
To stating timidly
A timid similarity,
We shall boast anyway:
Like love I say.
Like love we don’t know where or why
Like love we can’t compel or fly
Like love we often weep
Like love we seldom keep.

LUẬT NHƯ TÌNH
W. H. Auden

Luật là mặt trời, dân làm vườn bảo vậy
Luật là luật
Mà bất cứ ai làm vườn cũng phải tuân theo
Hôm nay, ngày mai cũng như trong quá khứ.
Luật chính là trí tuệ của người xưa
Mà các ông già bất lực cau có mắng;
Mà đàn cháu con thè lè lưỡi ra the thé,
Luật chính là cái lý của tuổi trẻ.
Luật, vị tu sĩ với bộ mặt thầy tu phán,
Khi ông giảng luật cho bọn dân vô luật, không tu
Luật là những lời trong kinh sách của ta,
Luật là bục giảng cũng như tháp chuông ta.
Luật, ông quan tòa nhìn dọc mũi mình ngó xuống,
Giọng rành rành và cũng rất nghiêm minh,
Luật là như ta đã từng dạy trước đây,
Luật là như ta nghĩ các ngươi phải biết,
Luật là… nhưng thôi, hãy để ta giảng thêm cho lần nữa,
Luật là… LUẬT!
Vậy mà các học giả trọng luật viết:
Luật chẳng thị mà cũng chẳng phi,
Luật chỉ là những tội tình
Mà có nơi có thời xem là đáng phạt,
Luật là áo quần mà người ta mặc
Bất cứ đâu, bất cứ lúc nào,
Luật là Chào buổi sáng và Ngủ yên đêm.
Lại có người cho rằng Luật là Ðịnh Mệnh;
Hay theo người khác, Luật là Nhà Nước;
Rồi lại có kẻ, lại có kẻ nói
Luật làm gì còn nữa
Luật đã biến từ lâu.
Và luôn luôn đám đông giận dỗi la ó
Giận thật giận và cũng rất ồn ào
Luật đích thị là Chúng Ta đây,
Và luôn luôn còn thằng ngu nhỏ nhẹ: Tui nữa chớ!
Nếu như chúng ta, bạn hỡi, biết là ta ngốc nghếch
Chẳng biết gì hơn người về luật,
Nếu tôi cũng chẳng biết gì hơn em
Và điều ta nên hay chẳng nên làm
Ngoại trừ mỗi một điều là mọi người đồng ý
Dù muốn dù không
Là luật có thật
Và ai cũng biết điều này,
Do đó nên nếu ta cho luật là phi lý
Ðể cho Luật đồng nghĩa với lời nào khác,
Thì khác cả mọi người
Ta không còn nói được Luật là có thật nữa,
Không hơn gì họ ta khó mà đè nén
Ðiều mong ước phổ cập là đoán định
Hay tìm cách lách ra khỏi vị trí
Của chúng ta để vào một mảnh đất vô ưu.
Thế cho nên dù ít ra ta có thể giới hạn
Nhốt cái vênh vang của em lẫn ta
Ðể rụt rè mà nói
Một điều nhỏ nhẹ giống nhau,
Một điều ta cứ sẽ vênh vang:
Như tình yêu là Luật, ta phán.
Như tình yêu, ta chẳng biết vì sao hay ở đâu nó đến
Như tình yêu, chẳng buộc được mà cũng không thả được cho nó bay
Như tình yêu, ta đôi khi cũng khóc
Như tình yêu mà ta ít khi giữ trọn.
(Trích từ trong The Law as Literature, do Louis Blom-Cooper biên tập. Nguyễn Ngọc Bích dịch)

TẠM KẾT

Ba bài thơ trình bày ở trên, đặc biệt bài “Luật Như Tình” dù cho rằng chỉ có giá trị hoàn toàn về mặt giải trí mà thôi, đều nằm trong đường hướng của các nhà khảo luật đề ra nhắm mục đích rút ngắn khoảng cách khá xa giữa các nhà chuyên môn hay không chuyên môn về khoa luật học. Do đó, cần phải phổ biến rộng rãi những tài liệu quý nằm trong kho Pháp Lý Tập San, qua các tác phẩm có giá trị đề cập tới chủ đề pháp lý của các nhà văn và nhà thơ tên tuổi trên thế giới.

Trích: “LUẬT PHÁP VÀ VĂN HỌC NGHỆ THUẬT” Của soạn giả: TP. Nguyễn Văn Thành.

Thư số 67b gởi Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam.

Phạm Bá Hoa

Trước khi vào chuyện.

Song song với các cơ quan hành chánh Hoa Kỳ và Australia công nhận quốc kỳ truyền thống Việt Nam chúng tôi trong Thư số 66b. Lá quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ chúng tôi cũng xuất hiện nhiều nơi trên thế giới trong những trường hợp khác nhau nhưng ý nghĩa vẫn là một: “Cùng dựng lại quốc kỳ truyền thống Việt Nam bằng những cách khác nhau trong Thư số 67a. Sau lá quốc kỳ truyền thống,  Thư số 67b này sẽ giúp Các Anh nhìn thấy sức mạnh tinh thần cũng là sức mạnh chính trị của Cộng Đồng Việt Nam chúng tôi, khi nhìn vào tội ác kinh hoàng của các nhóm lãnh đạo Việt Cộng từ sau tháng 4/1975 đến cuối thế kỷ 20, ngang qua những Tượng Đài Tượng Niệm Thuyền Nhân & Bia Tưởng Niệm Thuyền Nhân đã chết trong rừng sâu và trên biển cả, khi chấp nhận vượt lên sự chết để tìm sự sống cho chính mình và cho những thế hệ tương lai, dù sự sống rất mong manh trên hành trình chạy trốn! Nguyên nhân duy nhất, là: “Không thể sống dưới sự cai trị của lãnh đạo Việt Cộng với bản chất độc tài toàn trị, cộng thêm lòng thù hận, lại kèm theo lòng tham vô hạn của họ”.

Các Anh hãy nhớ rằng, chưa bao giờ trên thế giới có sự kiện người dân từ các quốc gia Dân Chủ Tự Do chạy sang các quốc gia cộng sản độc tài xin tị nạn chính trị, chỉ có người dân từ các quốc gia cộng sản độc tài ào ạt chạy sang các quốc gia Dân Chủ Tự Do xin tị nạn chính trị. Riêng tại Việt Nam:

Thứ nhất. Trong vòng 300 ngày từ khi Hiệp Định Đình Chiến 20/7/1954 có hiệu lực, đã có 868.672 người từ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ào ạt chạy vào nước Việt Nam Cộng Hòa dân chủ tự do tị nạn. Từ năm 1954 đến năm 1956, có thêm 102.861 người trốn khỏi phần đất cộng sản vào phần đất tự do Việt Nam Cộng Hòa chúng tôi tị nạn. Cộng chung là 971.533 người. Đó là cuộc bỏ phiếu bằng chân lần 1 “bầu chọn” chế độ Dân Chủ Tự Do.

Thứ hai. Trong những ngày hỗn loạn cuối tháng 4 năm 1975, khoảng 150.000 người di tản  sang Hoa Kỳ tị nạn. Tiếp theo là tài liệu của Cao Ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc công bố năm 2000, theo đó thì trong vòng 20 năm kể từ sau khi Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa đánh chiếm Việt Nam Cộng Hòa ngày 30/4/1975, đã có 839.200 người vượt biên vượt biển đến tị nạn chính trị tại 91 quốc gia tự do khắp Đông Tây Nam Bắc địa cầu, và Liên Hiệp Quốc ước lượng khoảng 400.000 đến 500.000 người đã chết mất xác trên biển và trong rừng, trên đường chạy trốn cộng sản! Lại cuộc bỏ phiếu bằng chân lần 2 “bầu chọn” chế độ Dân Chủ Tự Do.

Và xin hiểu rằng, nhóm chữ “quốc kỳ truyền thống” hay quốc kỳ Việt Nam” hay “quốc kỳ chúng tôi” trong Thư này là quốc kỳ Việt Nam nền vàng ba sọc đỏ.

Phần một. Tượng Đài Tưởng Niệm Thuyền Nhân

Tượng Đài Tưởng Niệm Thuyền Nhân, là biểu tượng góp phần lưu giữ chứng tích tội ác của lãnh đạo Việt Cộng tại hải ngoại, và khi triệt tiêu chế độ cộng sản (Việt Cộng) thì dân tộc Việt sẽ xây dựng nhiều tượng đài khác nhau, tiêu biểu nhiều góc cạnh tội ác khác nhau của họ trên quê hương Việt Nam.

  1. Tượng đài tại Ottawa, Canada.

Ngày 30/4/1995, Liên Hội Người Việt Tị Nạn tại Canada, đã long trọng khánh thành tượng đài Tưởng Niệm Thuyền Nhân Việt Nam tại Ottawa, với sự tham dự của rất đông đồng hương và nhiều nhân vật chánh quyền tại thủ đô Ottawa. Ngay sau bức tượng đồng Người Mẹ Bồng Con Thơ đang chạy trốn cộng sản, là những dòng chữ tưởng niệm, với bản đồ Việt Nam được bao tròn với nền vàng ba sọc đỏ.

Đại sứ Việt Cộng tại Canada đã phản đối mạnh mẽ ngay từ lúc Liên Hội Người Việt Canada bắt đầu. Đến những ngày trước khi Tượng Đài được khánh thành, họ vẫn liên tục vận động với Liên Hội Người Việt và Uỷ Ban Thực Hiện Tượng Đài, để xóa bỏ hình bản đồ Việt Nam được bao tròn bởi nền vàng ba sọc đỏ, đến những dòng chữ tưởng niệm, nhưng khi Tiến Sĩ Lê Duy Cấn yêu cầu viết thành văn những yêu cầu đó thì ông mới có yếu tố thảo luận, thì họ im lặng. Nghĩa là những viên chức trong tòa đại sứ Việt Cộng chỉ nói miệng chớ không dám dùng văn thư. Phía Ủy Ban Thực Hiện hoàn toàn giữ nguyên tất cả những gì ghi trong dự án. Liên Hội Người Việt và Ủy Ban Thực Hiện Tượng Đài, đã thắng một cách vẻ vang, trong khi Việt Cộng cố gắng vận động với chánh phủ Canada nhưng họ đã thất bại từ đầu đến cuối. Và sự kiện này đã dẫn đến tình trạng lạnh nhạt trong bang giao giữa Canada với Việt Cộng trong một thời gian.

  1. Tượng đài tại Melbourne, Australia.

Sau hơn hai năm vận động và thực hiện, ngày 21/6/2008, ”Văn Khố Thuyền Nhân Việt Nam” tổ chức lễ khánh thành “Đài Tưởng Niệm Chiến Sĩ & Thuyền Nhân Việt Nam”  tại công viên Jensen, Melbourne, tiểu bang Victoria, Australia. Vì không có bài viết nên nhìn vào những tấm hình ước lượng khoảng 300 đồng hương và áng chừng 30 quan khách Australia tham dự. Cũng nhìn vào hình, tượng đài có hai cánh gắn liền nhau như tượng trưng hai cánh buồm đặt trên nền có dạng chiếc ghe. Chi phí 70.000 Úc kim do đồng hương đóng góp (tôi có xin thêm tin tức, nhưng không nhận được gì thêm).

  1. Tượng đài tại Montréal, Canada.

Ngày 21/6/2008, Hội Bảo Vệ Di Sản Việt Nam và Ủy Ban Xây Dựng Tượng Đài đã tổ chức lễ khánh thành “Đài Tưởng Niệm Chiến Sĩ & Tưởng Niệm Thuyền Nhân Việt Nam” tại Montréal, Canada, với khoảng 400 đồng hương và đại diện các cơ quan thuộc thành phố Montreal cùng quan khách tham dự. Bắt đầu với nghi thức rước quốc quân kỳ Việt Nam và quốc kỳ Canada. Sau lời tường trình của ông Ngô Anh Võ, Chủ Tịch Hội Bảo Vệ Di Sản Việt Nam kiêm Trưởng Ban Xây Dựng Tượng Đài, Hòa Thượng Thích Tâm Châu và Đức Ông Pierre Vlanchard Giáo Phận Montreal, cùng kéo tấm vải phủ bên trên thì “Tượng Đài Tưởng Niệm Chiến Sĩ & Thuyền Nhân” từ từ hiện ra với sự xúc động của đồng hương hòa trong tiếng vỗ tay kéo dài của mọi người có mặt, làm cho rừng cờ vàng trên những cánh tay luôn luôn lay động. Tượng đài gồm 3 phần liền nhau: Bên trái là quốc kỳ Việt Nam, chính giữa là một Chiến Sĩ cầm súng với thế ngồi phảng phất Tượng Thương Tiếc Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa, và phần bên phải có hình chiếc thuyền bé bỏng giữa biển khơi! Thời gian thực hiện tượng đài là 18 tháng kề từ buổi họp quyết định thực hiện công trình, với chi phí ước tính 75.000 gia-kim do đồng hương chung góp, nhưng khi hoàn tất lên đến 100.000 gia kim.

  1. Tượng đài tại Hamburg, Germany.

Ngày 12/09/2009, khoảng 1.200 người trong Cộng Đồng Việt Nam tị nạn cộng sản từ Pháp, Hòa Lan, Na Uy, Đan Mạch, và từ nhiều thành phố trên lãnh thổ Cộng Hòa Liên Bang Đức đổ về hải cảng Hamburg, dự lễ khánh thành tượng đài tưởng niệm Thuyền Nhân. Trong số đông quan khách Đức, có: Bộ Trưởng Nội Vụ Liên Bang Wolfgang Schauble, ông Franz Muentefering, Chủ Tịch đảng đối lập. Ông chủ tịch đảng Dân Chủ Xã Hội Đức. Đại diện của ông Arnold Vaatz, phó chủ tịch nhóm Dân Biểu hạ viện liên bang. Ông Barmberger, Bộ Trưởng Tư Pháp tiểu bang Rheinland Pfalz. Bà Prof.Dr.Karin von Welck, Bộ Trưởng Văn Hóa tiểu bang Hamburg. Ông Freimut Duve, nguyên đặc trách viên cho Tự Do Truyền Thông. Đặc biệt, Bộ Trưởng Kinh Tế & Lao Động & Giao Thông tiểu bang Niedersachsen là người Đức gốc Việt, tiến sĩ Philipp Roesler, đại diện cho Thống Đốc tiểu bang, đã đọc diễn văn trong buổi lễ trang trọng này (Tháng sau đó, ông được cử giữ chức Bộ Trưởng Y Tế Đức Quốc).

Theo ông Nguyễn Hữu Huân, Hội Trưởng Hội Xây Dựng Tượng Đài, khởi sự từ 3 năm trước, nhưng  gặp khó khăn từ cơ quan chánh quyền buộc phải thay đổi hình thức tượng đài. Sau những lần vận động với các viên chức và trình bày những cố gắng tối đa của Cộng Đồng tị nạn, đã được chánh phủ Đức chấp thuận dự án nguyên thủy. Về tài chánh do Cộng Đồng tị nạn tại Đức chung góp, còn có danh sách ân nhân bên ngoài  Đức quốc, đặc biệt là nhóm thân hữu từ Hoa Kỳ do nhà văn Đào Vũ Anh Hùng đại diện chung góp. Ông Huân tâm sự: “Tôi rất cảm động về sự ủng hộ của nhiều nhà chính trị người Đức. Đây là công sức do tất cả bà con đóng góp. Rất nhiều bà con lái xe từ xa đến đây chiều hôm qua.

Tượng đài là quyển sách bằng đồng đặt trên trụ đá hoa cương trong khuôn viên rnột khu vườn nhỏ 7m x 5m tại hải cảng Hamburg (Ueberseebruecken). Bà Thủ Tướng Angela Merkel có thư vinh danh hoạt động của Ủy Ban Cap Anamur. “Tưởng niệm các đồng hương tị nạn cộng sản đã bỏ mình trên đường tìm tự do” là một phần trong nội dung Việt ngữ trên trang sách đang mở ra, viết bằng tiếng Việt, tiềng Đức, và tiềng Anh. Hàng chữ nổi tri ân Tiến Sĩ Rupert Neudeck, người sáng lập chương trình Cap Anamur và thuê 3 chiếc tàu vận tải từ tháng 09/1979 đến tháng 07/1987, đã vớt được 11.300 Thuyền Nhân Việt Nam và được chánh phủ Đức tiếp nhận định cư (trích e-mail từ địa chỉ <lochuong65…> ngày 16/09/2009).

Điều đáng chú ý là các viên chức cùng tên đại sứ Việt Cộng tại Berlin, Germany, nhân danh nhà ngoại giao đại diện cho chánh phủ của chúng, áp lực với Thống Đốc tiểu bang Hamburg đục bỏ nhóm chữ “tị nạn cộng sản” trên quyển sách bằng đồng. Nhờ có Tiến Sĩ Neudeck -ân nhân của Thuyền Nhân Việt Nam- can thiệp mạnh nên Việt Cộng thất bại hoàn toàn (trích e-mail ngày 25/10/2009 của Alpha Lê Thanh Tùng từ Germany).

  1. ợng đài tại Nam California, Hoa Kỳ.

Theo thông tín viên Hà Giang của đài RFA, với sự hiện diện của hơn 1.000 đồng hương và một số viên chức chánh quyền địa phương, tượng đài Tưởng Niệm Thuyền Nhân được khánh thành trọng thể ngày 25/04/2009 trong khuôn viên nghĩa trang Westminster, Nam California. Theo ông Jeff Gibson, Chủ Tịch Hội Đồng Quản Trị Nghĩa Trang, khu đất dành cho tượng đài trị giá hơn 1.000.000 mỹ kim để bày tỏ lòng quí mến Cộng Đồng Việt Nam tại đây. Trước đó, Hội Đồng thành phố Westminster đã ra “Nghị Quyết 4228 công nhận tượng đài Tưởng Niệm Thuyền Nhân là biểu tượng tự do của Cộng Đồng Việt Nam và tưởng nhớ những người đã bỏ mình trên biển”.

Tượng đài gồm 4 người trong một gia đình trên chiếc thuyền mong manh do điêu khắc gia Võ Hồng Kiệt thực hiện, đặt trên mặt hồ nước nhân tạo. Người Vợ với nét tuyệt vọng, quỳ gối, tay ôm đứa con thiêm thiếp, tay kia như đang tìm nơi bám víu trên khoảng không, trong khi người Chồng vừa cuối nhìn Vợ con vừa đưa tay đỡ lưng Mẹ già đang mệt lã, mặt ngửa lên không trung với đôi mắt nhắm nghiền như đang cầu nguyện. Chung quanh cụm tượng đồng là 54 phiến đá tượng trưng 54 chiếc thuyền đã tan biến trong lòng biển. Bề mặt các phiến đá có khắc tên hơn 6.000 nạn nhân, những người “trốn cộng sản độc tài bằng cách vượt biển tìm dân chủ tự do” đã chết trên biển cả mênh mông! (Tên các nạn nhân do thân nhân cung cấp).

Theo Ban Tổ Chức lễ khánh thành, tượng đài này là một công trình do nhà thơ nhà báo Thái Tú Hạp & Ái Cầm, tiêu biểu một gia đình Thuyền Nhân đã sống sót khi cái chết kề cận! Theo lời ông Hạp, sau khi ra khỏi trại tập trung của cộng sản vào năm 1980, ông đưa gia đình vượt biển. Khi tàu chạy gần đảo Hải Nam  bị cơn bão dữ dội đánh giạt vào một đảo hoang và tàu bị bễ, 13 người chết trong số hơn 200 người trên tàu. Với hình ảnh đó, ông bà Thái Tú Hạp và một số bạn đồng hành tâm nguyện, không bao giờ quên những người đã nằm lại nơi đây cũng như những nơi khác trên đường tìm tự do.

6 Tượng đài tại Pháp.

Ngày 12/9/2010, Cộng Đồng Việt Nam tị nạn cộng sản tại Pháp đã khánh thành Tượng Đài “Niềm Ước Mơ Của Mẹ” tại Bussy Saint Georges, một thành phố cách Paris khoảng 30 cây số, dưới sự chủ toạ của ông Hugues Rondeau, Thị Trưởng thành phố Bussy Saint Goerges, và bà Nghị Sĩ Chantal Brunel, vùng Seine et Marne. Vị trị chính xác của tượng đài là ngã tư  trong trung tâm thành phố, có tên gọi là Rond Point de Saigon – Bùng Binh Sài Gòn-  Khoảng 300 bà con trong Cộng Đồng và quan khách người Pháp tham dự.

Tượng “Niềm Ước Mơ Của Mẹ”, là hình ảnh Người Mẹ với tà áo dài lộng gió, hai tay bồng con đưa lên cao với ý nghĩa  hướng về tương lai trong ánh sáng tự do, được nhà điêu khắc Vũ Ðình Lâm thực hiện, mang dáng vấp sự tích văn hóa Việt Nam. Bệ tượng đài có ghi dòng chữ trên trụ đá hoa cương::

En Hommage A La France,

Terre d’Asile Pays des Droits de l’Homme

En Mémoire Des Boat People Vietnamiens Depuis 1975
Được anh Chủ Tịch Tổng Hội Sinh Viên Paris, tạm dịch:

Ghi Ơn Nước Pháp, Xứ Đón Nhận Người Tị Nạn

Quốc Gia Của Nhân Quyền,

Tưởng Nhớ Các Thuyền Nhân Việt Nam Tử Nạn Từ 1975

  1. Tượng đài tại Brisbane, Australia.

Ngày 2/12/2012, khoảng 450 quan khách và đồng hương Việt Nam tị nạn cộng sản tham dự khánh thành tượng đài Tưởng Niệm Thuyền Nhân tại công viên Captain Burke, Kangaroo Point, Brisbane, Queensland, Australia. Trong số quan khách có 1 Thượng Nghị Sĩ, 1 Dân Biểu liên bang, 1 Dân Biểu tiểu bang, Thị Trưởng thành phố Brisbane, và 4 Nghị Viên. Theo Bác sĩ Bùi Trọng Cường, Chủ Tịch Cộng Đồng Queensland, thì công trình này dự trù từ năm 2005 và phải vượt nhiều khó khăn mãi đến hôm nay mới đạt mục đích. Nữ Nghị Viên Helen Abrahams, là người hỗ trợ mạnh mẽ nhất, và nơi đặt tượng đài cũng do ông đề nghị và xin phép.

Ông Nguyễn Kim Đỉnh, Trưởng Ban Xây Dựng Tượng Đài, tóm lược về diễn tiến cùng những khó khăn trong công tác xây dựng. Buổi lễ khánh thành rất trang trọng và thật ý nghĩa với lời phát biểu của những vị khách đã ít nhiều  góp phần vào sự kiện hôm nay (trích e-mail từ địa chỉ BạchPhượng NguyễnThị ngày 2/12/2012).

  1. Tượng đài tại Olso, thủ đô Norway.

Ngày 13/6/2015 lúc 3 giờ chiều, Ủy Ban Xây Dựng Tượng Đài tổ chức lễ trao tặng “Tượng Đài Hoa Biển” cho chánh phủ và người dân Norway, nhất là  những vị Thuyền Trưởng đã từng vớt và giúp đỡ Thuyền Nhân Việt Nam. Tượng Đài Hoa Biển, do nhà điêu khắc Thor Sandborg thực hiện bằng loại thép đặc biệt, đặt trên chân đế giàn khoan dầu ngay trên mặt biển, trong khuôn viên Viện Bảo Tàng Hàng Hải Norway. Ông Đô Trưởng Olso FabianStang đến bằng chiếc xe đạp, bất chấp thư khiếu nại của tòa đại sứ Việt Cộng, ông tươi cười bước lên sân khấu trong tiếng vỗ tay của hơn 500 người tham dự. Sau khi chào quốc kỳ Norway và quốc kỳ Việt Nam nền vàng ba sọc đỏ, ông Đô Trưởng chánh thức nhận Tượng Đài Hoa Biển do Cộng Đồng Việt Nam tặng, ông đọc lời cầu nguyện và ném một cành hồng về hướng Tượng Đài Hoa Biển, để tưởng nhớ đến nhưng vong linh Thuyền Nhân đã không thể đến bến bờ Tự Do! Tiếp theo là cảnh mưa hoa xuống biển vô cùng xúc động! Cuối cùng, ông Nguyễn Đức Hóa, thay mặt Ủy Ban Xây Dựng Tượng Đài, cám ơn đại diện các Hội Đoàn từ khắp nơi trến đất nước Norway, và từ Australia, Pháp, và Bỉ, đến tham dự. Buổi lễ chấm dứt lúc gần 4 giờ chiều

Trước đó -ngày 20/5/2015- Lê Thị Tuyết Mai, Đại sứ Việt Cộng tại Norway, gởi thư đến Thị Trưởng thủ đô Olso và các thành phố lớn của Norway, với lời lẽ không ngoại giao chút nào, và chẳng có chút thuyết phục nào cả:  (1) Phản đối dùng chữ “cộng sản” trong hàng chữ Việt trên bia Tượng Đài, vì chữ “cộng sản” hàm ý chính trị. (2) Thuyền Nhân trốn khỏi Việt Nam là trái phép để tìm cơ hội kinh tế, chớ chánh phủ chưa bao giờ đối xử tồi tệ với họ. Vậy là họ đã thất bại như đã từng thầt bại tại nhiều nơi khác. (trích trong e-mail <minh4639@yahoo.com> ngày 24/7/2015)

Phần hai. Bia tưởng niệm Thuyền Nhân

Bia Tưởng Niệm Thuyền Nhân, là biểu tượng góp phần lưu giữ chứng tích tội ác của lãnh đạo Việt Cộng tại hải ngoại, và khi triệt tiêu chế độ cộng sản (Việt Cộng) thì dân tộc Việt sẽ xây dựng nhiều Bia Tưởng Niệm khác nhau, tiêu biểu những góc cạnh tội ác khác nhau của họ trên quê hương Việt Nam

  1. Bia tưởng niệm trên đảo Galang và đảo Bidon.

Tháng 3 năm 2005, khoảng 150 đồng hương trong Cộng Đồng Việt Nam tị nạn cộng sản từ Australia, Canada, Hoa Kỳ, và Thụy Sĩ, cùng hội ngộ tại Malaysia và Indonesia để thăm lại khoảng 300 ngôi mộ của những thân nhân hoặc bạn đồng hành đã vượt thoát chế độ cộng sản độc tài trên hành trình tìm tự do, nhưng đã nằm lại nơi đây! Cũng để cùng nhau dựng hai bia trên đảo Galang (Indonesia) bằng bê tông cốt sắt. Cao 1 thước, ngang 0.7 thước, và dầy 0.03 thước.

Bia màu trắng là “Bia Tri Ân” với dòng chữ: “In appreciation of the efforts of UNHCR, the Red Cross & Indonesian Red Crescent Society and other world relief organizations, the Indonesian Government and people as well as countries of first asylum and resettlement. We also express our gratitude to the thousands of individuals who worked hard in helping the Vietnamese refugees. OVERSEAS VIETNAMESE COMMUNITIES, 2005”. Tri ân những nỗ lực của Cao Ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc, của Hồng Thập Tự và Hội Hồng Nguyện Nam Dương, cùng các tổ chức cứu trợ quốc tế khác, chánh phủ và nhân dân Nam Dương cũng như các quốc gia tạm dung và các quốc gia định cư. Chúng tôi cũng tri ân hằng ngàn người đã làm việc tận lực để giúp đỡ người tị nạn Việt Nam. CỘNG ĐỒNG VIỆT NAM HẢI NGOẠI, 2005.

Bia màu đen là “Bia Tưởng Niệm” với dòng chữ: “In commemoration of the hundreds of thousands of Vietnamese people who perished on the way to Freedom 1975-1996. Though they died of hunger or thirst, of being raped, of exhaustion or of any other case, we pray that they may now enjoy lasting peace. Their sacrifice will never be forgotten. OVERSEAS VIETNAMESE COMMUNITIES, 2005”. Tưởng niệm hằng trăm ngàn người Việt Nam đã bỏ mình trên đường tìm tự do 1975-1996. Dù Họ chết vì đói khát, vì bị hãm hiếp, vì kiệt sức, hay vì bất cứ lý do nào khác, chúng ta hãy cùng cầu nguyện để Họ được an nghỉ cõi vĩnh hằng. Sự hi sinh của Họ sẽ không bao giờ bị lãng quên. CỘNG ĐỒNG VIỆT NAM HẢI NGOẠI, 2005.(trích bài của ông Nguyễn Duy An, 2008)

Một bia khác trên đảo Bidon (Malaysia) có kích thước: ngang 1.0 thước và cao 3.0 thước, do công ty Bold Express của Singapore làm trung gian và công ty Bida thực hiện.

Theo báo Jakarta Post ngày 20/6/2005 tại thủ đô Indonesia, ông Trần Đức Lương, Chủ Tịch nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, đã yêu cầu Tổng Thống Indonesia (ông Susilo) khẩn cấp phá bỏ bia tưởng niệm trên đảo Pulau Galang vì đã xúc phạm đến Việt Nam. Nhân viên bảo trì công viên, ông Mursidi nói với phóng viên rằng: “Lệnh phá bỏ bia tưởng niệm phải thực hiện ngay tức khắc, đến mức phải dựng mái lều dưới cơn mưa trong đêm tối, để làm công việc đục bỏ phần có những hàng chữ trên bia.” Còn Anne Oh, người điều hợp công ty Bold Express cho biết: “Chánh phủ cộng sản Việt Nam không chỉ đòi phá bỏ bia tưởng niệm tại Galang, mà họ còn đòi phá bỏ bia trên đảo Bidong bên Malaysia nữa”.

Hành động của lãnh đạo Việt Cộng chứng tỏ họ rất sợ những chứng tích nói lên tội ác của họ, dù chứng tích đó thể hiện qua những hình tượng nào ở bất cứ nơi đâu, nhưng cả cái Bộ Chính Trị của Việt Cộng, không bao giờ và cũng không thể nào phá bỏ được những chứng tích tội ác của họ trong mỗi người Việt Nam không cộng sản. Hơn thế nữa, mỗi người Việt Nam tị nạn cộng sản là “tấm bia sống” tố giác vô vàn tội ác của nhóm lãnh đạo Việt Cộng!

  1. Bia tưởng niệm tại Genève, Thụy Sĩ.

Nguồn tin từ e-mail Diễn Đàn Nước Việt do Thanh Thảo tường trình. Ngày 9/2/2006, Cộng Đồng Viêt Nam ở Thụy Sĩ đã tập trung về thành phố Grand Saconnex, Genève, dự lễ khánh thành Bia Tưởng Niệm Thuyền Nhân. Buổi lễ dưới quyền chủ tọa của bà Elizabeth Boehler, Thị Trưởng thành phố Grand  Saconnex, và là Phó Chủ Tịch đảng Parti Radical thành phố Genève. Bia Tưởng Niệm đặt trong khuôn viên Campagne du Château Pictet, một khung cảnh thanh tịnh, yên lành.

Nhà báo Thierry Oppikofer, Chủ Tịch Ủy Ban Thụy Sĩ – Việt Nam, đã ca ngợi sự hỗ trợ mạnh mẽ của ông Michel Rossetti cựu Thị Trưởng thành phố Genève, và ông Pierre Marti, cựu Chủ Tịch Hội Đồng thành phố Genève. Ông Trần Hữu Kinh, Chủ Tịch Hội Cựu Quân Nhân Việt Nam Cộng Hòa, thay mặt Cộng Đồng Việt Nam cảm tạ chánh quyền thành phố Genève đã nhiệt tình giúp đỡ Thuyền Nhân Việt Nam tị nạn cộng sản. Sự kiện đặt Bia Tưởng Niệm hôm nay, thể hiện lòng nhân ái của chánh quyền và nhân dân Thụy Sĩ đối với Cộng Đồng Việt Nam. Bà Thị Trưởng Elizabeth Boehler, bày tỏ lòng ngưỡng mộ những sự hi sinh của những người Việt Nam can đảm trên đường tìm tự do.

Sau phần nghi lễ, bà Thị Trưởng cùng ông Chủ Tịch Hội Cựu Quân Nhân Việt Nam, kéo tấm màn phủ tấm Bia Tưởng Niệm. Do sự kiện Bia Tưởng Niệm tại Insonesia và Malaysia bị  phá bỏ theo yêu cầu của lãnh đạo Việt Cộng, nên Bia Tưởng Niệm này giữ theo hình thức của hai bia đó. Bia tưởng niệm và cây tùng được đặt trên một khung sỏi theo khung hình chiếc ghe. Những viên sỏi lớn tượng trưng cho sóng biển, tấm bia tượng trưng cho cánh buồm, cây tùng tượng trưng cho cột buồm. Cây tùng còn tượng trưng cho những người trẻ Việt Nam và Thụy Sĩ có gốc rễ ở nước này, sẽ mãi mãi không quên những người đã chết vì lý tưởng tự do, và thảm trạng này là khởi điểm của sự hình thành Cộng Đồng Việt Nam tại Thụy Sĩ.

Bia làm bằng đá cẩm thạch đen, một bên là Anh ngữ “In memory of the exodus of the Boat People through out the world 1975-2005. The Vietnamese refugees are grateful to Switzerland and to the host countries. We are happy  to live in a space of peace, freedom, and democracy. Vietnam, land of our ancestors, will forever be in our heart”. Và một bên là Pháp ngữ“En souvenir de l’ exode des boat-people dans la monde 1975-2006. Les réfugie’s Vietnamiens remercient Liège, la Belgique, et les pays d’accueil. Nous sommes heureux de vivre dans cet espace de paix, de liberté, et démocratie. Le Vietnam, pays de nos ancêtres, restera à jamais dans nos coeurs”. Được dịch ra Việt ngữ như sau: “Tưởng niệm cuộc ra đi của những Thuyền Nhân trên thế giới 1975 – 2005. Người Việt tị nạn chân thành cám ơn Thụy Sĩ và các nước tiếp cư, đã giúp cho chúng tôi được sống hạnh phúc trong hòa bình, tự do, và dân chủ. Chúng tôi sẽ mãi mãi không quên quê hương Việt Nam, mãnh đất ngàn đời của Tổ Tiên để lại”.

Viên chức tòa lãnh sự Việt Cộng tại đây đã can thiệp với chánh quyền Thụy Sĩ và thành phố Genève, nhưng tất cả sự can thiệp đều thất bại. Bia Tưởng Niệm này cách tòa lãnh sự của chúng chỉ 2 cây số, là cái gai trước mắt chúng nhưng chúng bó tay.

Sau lễ khánh thành, Bia Tưởng Niệm là món quà của Cộng Đồng Việt Nam tị nạn tặng cho thành phố Genève, và do Hội Đồng thành phố quản trị (trích e-mail AirQ136817@aol.com).

  1. Bia tưởng niệm tại Liège, Bỉ.

Nguồn tin từ e-mail của <Nguyen le Nhan Quyen>. Ngày 30/6/2006, Cộng Đồng Việt Nam tị nạn tại Bỉ đã tập trung tại Công Viên D’Avroy, thành phố Liège, tham dự lễ khánh thành Bia Đá Tưởng Niệm Thuyền Nhân. Công Viên D’ Avroy là nơi có “Monument de la Résistance” kỷ niệm những người Tây Ban Nha tị nạn Franco. Buổi lễ do thành phố Liège và Cộng Đồng Việt Nam tại Bỉ phối hợp tổ chức. Sau phần nghi lễ, ông Michel Firket Phó Thị Trưởng thành phố Liège, và ông Lê Hữu Đào Chủ Tịch Cộng Đồng Việt Nam, cùng kéo quốc kỳ Việt Nam nền vàng ba sọc đỏ phủ tấm Bia Tưởng Niệm.

Tổng quát thì Bia Tưởng Niệm này tương tự như Bia Tưởng Niệm ở thành phố Genève (Thụy Sĩ) đã khánh thành ngày 9/2/2006. Trên bia đá là chiếc thuyền đầy ấp người đang chông chênh trên sóng biển, với dòng chữ Pháp như sau: “En souvenir de l’ exode des boat-people dans la monde 1975-2006. Les réfugie’s Vietnamiens remercient Liège, la Belgique, et les pays d’accueil. Nous sommes heureux de vivre dans cet espace de paix, de liberté, et démocratie. Le Vietnam, pays de nos ancêtres, restera à jamais dans nos coeurs”. Sau đó, ông Paul Allard, thuyền trưởng tàu dầu Maaskroon, đã xúc động khi tường thuật sự kiện ông và thủ thủy đoàn đã vớt được 61 “Thuyền Nhân Việt Nam” trên chiếc tàu mong manh.

Cũng như nhiều nơi khác, cơ quan ngoại giao của Việt Cộng tại Bỉ đã can thiệp với Bộ Ngoại Giao và thành phố Liège, nhưng họ đã thất bại như đã thất bại tại Genève (Thụy Sĩ), tại Ottawa (Canada), tại Đức, tại Westminster (California, Hoa Kỳ), ..v..v…

  1. Bia tưởng niệm tại Hamburg, Đức quốc.

Lúc 12 giờ trưa ngày 14/10/2006, Ban Tổ Chức đã cử hành lễ khánh thành Bia Tưởng Niệm Thuyền Nhân tại nghĩa trang Oejendorf thành phố Hamburg, Cộng Hòa Liên Bang Đức. Hơn 200 quan khách Việt-Đức với sự có mặt của các vị Linh mục Andreas, Mục sư Nguyễn Văn Hiếu, các Sư cô Tuệ Đàm Hương, Tuệ Đàm Châu, Tuệ Đàm Giác, cùng đại diện các tổ chức  Đức và Việt: Các ông Carsten Siegfried, ông Braubach, ông Rehkopf, bà Winter, bà quả phụ Wangnik của Thuyền Trưởng Cap Anamur, ông Schwenke, ông Bekrater, ông Bùi Hoàng Thủy, ông Đặng Hữu Hào,  bà Nguyễn Thị Kiều Hạnh, ông Phạm Công Hoàng, ông Nguyễn Thanh Văn, ông Trần Văn Các, ông Đinh Kim Tân, và đài truyền hình NDR.

Sau nghi thức chào quốc kỳ Đức-Việt và phút mặc niệm, ông Quách Anh Trường, Chủ Tịch Hội Người Việt Nam tị nạn cộng sản tại Hamburg chào mừng quan khách, trình bày ý nghĩa Bia Tưởng Niệm Thuyền Nhân vì cộng sản tàn bạo độc ác mà bỏ mình trên biển cả, đồng thời cám ơn chánh phủ và nhân dân Đức cưu mang đùm bọc, vừa lưu lại chứng tích cho tuổi trẻ Việt Nam sinh sống nơi đây hiểu được nguyên nhân họ có mặt trên đất nước này. Sau nghi thức cắt băng khánh thành là nghi thức cầu nguyện của tôn giáo.

Ông Bà Ngũ Thời Trọng, được xem là người khai sinh công trình này, nhắc đến Ban Quản Trị Nghĩa trang Ohlsdorf và Oejendorf đã tặng 36 thước vuông đất trị giá 27.000 Euro. Nghệ nhân Hoàng Nhật Lục tác giả của tượng đài và điêu khắc trong 6 tuần lễ. Không thể không nhắc đến công sức của cựu Đại Tá Bùi Văn Mạnh và gia đình ông, và nhiều nhiều nữa. (trích e-mail buitrungturc87@yahoo.fr ngày 4 Nov 2006).

  1. Bia tưởng niệm tại San Jose, Hoa Kỳ.

Xóm chài Hải Nhuận, ven biển tỉnh Thừa Thiên với dân số khoảng 6.000 người, đã góp phần nhỏ nhoi vào con số khoảng 1.000.000 người Việt vượt biên đến định cư tại các quốc gia tự do, sau khi “để lại trên biển” khoảng 250.000 người. “Gia đình Hải Nhuận” nói chung, đang sống quây quần các thị xã Freemond, Hayward, phía bắc của San Jose, trong khi người dân đầu trên xóm dưới của Hải Nhuận định cự nhiều nơi trên thế giới, những vẫn giữ liên lạc thân tình với nhau, và xem Hải Nhuận San Jose như một trung tâm tại hải ngoại, và người phụ trách nhịp cầu liên lạc là ông Trương Công Thành, đã cùng gia đình 5 người vượt biển năm 1986. Câu chuyện Hải Nhuận trở thành bức tranh thu nhỏ của Cộng Đồng Người Việt hải ngoại. Vào thế kỷ 21, thế hệ thứ hai của Hải Nhuận đã trưởng thành tại các quốc gia tự do. Có những gia đình đoàn tụ. Có Boat People Hải Nhuận về kết hôn với người làng Hải Nhuận rồi đem nhau qua vùng đất tự do và có cả người Hải Nhuận qua du học được đón tiếp bởi người dân Hải Nhuận khắp thế giới. Cho đến 1 ngày…

Là ngày mà ông Trương công Thành và bà con Hải Nhuận muốn xây một mộ bia tưởng niệm cho chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa, và thuyền nhân Hải Nhuận. Bà con có tấm lòng nhưng không nhiều kinh nghiệm. Nghề chài thì thông thạo, vượt biên thì có kinh nghiệm, nhưng việc dựng bia tưởng niệm thì còn phải học hỏi rất nhiều. Nhóm Đại Diện Hải Nhuận đến với văn phòng nhà quàn xin đất để dựng bia trong nghĩa trang. Tài liệu phác họa là bia đá đen chữ trắng có 2 cánh buồm như ghe thuyền Hải Nhuận. Có cờ Việt Nam nền vàng 3 sọc đỏ. Có tên tất cả thuyền nhân Hải Nhuận đã hy sinh. Thảo luận về cách thực hiện, và cuối cùng được Ban Quản Trị Nghĩa Trang bèn đồng ý bán cho Hải Nhuận 1 khu đất ngay cổng chính. Hải Nhuận San Jose gởi tài liệu về Hải Nhuận trong nước làm Bia Tưởng Niệm, có cờ vàng ba sọc đỏ, có họ tên người Hải Nhuận đã chết, và có dòng chữ tưởng niệm chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa đã hy sinh. Hải Nhuận trong nước cũng như Hải Nhuận hải ngoại đều phập phồng vì sợ Việt Cộng phát giác thì nguy to. Nhưng rồi tấm Bia Tưởng Niệm  lặng lẽ đến với Hải Nhuận San Jose trong niềm vui chung của Hải Nhuận khắp nơi..

Ngày 23/8/2015, buổi lễ khánh thành với hơn 200 người Hải Nhuận gồm hai ba thế hệ từ các nơi cùng đến San Jose tham dự. Nghi thức tôn giáo và nghi thức quân sự được thực hiện một cách trang trọng. Sự đoàn kết của thuyền nhân Hải Nhuận trên thế giới là tấm gương sáng. Tình quê hương của Hải Nhuận vượt Thái bình Dương là câu chuyện cần được kể lại. Điều quan trọng hơn hết là trong lòng người dân Hải Nhuận từ trong nước ra đến thế giới đều nhớ ngọn cờ vàng. Cờ của tự do. Tấm bia của họ hoàn tất trong nước gửi ra dựng tại hải ngoại, thực là một câu chuyện kỳ thú cần được biết đến. Rất có thể là lịch sử thuyền nhân suốt 20 năm khởi đi từ 1975 đến 1995, chưa có cộng đồng tị nạn nào quây quần dưới danh nghĩa một  làng mà thực hiện được công trình ý nghĩa như vậy. (trích bài viết của nhà văn Giao Chỉ Vũ Văn Lộc. San Jose, California)

Phần kết

Các Anh hãy nhìn lại lịch sử thế giới, hầu như chưa có trường hợp nào tên của một quốc gia không tồn tại mà quốc kỳ của tên quốc gia đó vẫn tồn tại một cách mạnh mẽ, tại những nơi có Cộng Đồng Việt Nam tị nạn cộng sản trên thế giới, như quốc kỳ truyền thống Việt Nam nền vàng ba sọc đỏ.

Với những Tượng Đài Tưởng Niệm Thuyền Nhân và những Bia Tưởng Niệm Thuyền Nhân, là chứng tích mạnh mẽ về tội ác kinh hoàng của các nhóm lãnh đạo Việt Cộng, sau khi nhuộm đỏ toàn cõi Việt Nam hồi tháng 4/1975, đã đẩy người dân váo tình cảnh phải vượt lên sự chết đề tìm sự sống! Sau nhiều cuộc phỏng vấn tại các trại tạm cư, thì Cao Ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc kết luận rằng “Cứ mỗi hai người đến bến bờ tự do thì một người chết mất xác!”  Chính vì vậy mà những vị lãnh đạo tại các địa phương, chẳng những sẳn lòng cung cấp địa điểm mà còn hỗ trợ tài chánh để chúng tôi thực hiện những Tượng Đài hoặc Bia Tưởng Niệm Thuyền Nhân Việt Nam.

Các Anh đừng quên rằng, tác giả Stéphane Courtois, trong quyển “Livre Noir du Communisme” (Sách đen về chủ nghĩa cộng sản), có đoạn: “… Vượt trên mức độ tội ác cá nhân, các chế độ cộng sản củng cố quyền hành bằng cách nâng việc tàn sát quần chúng lên hàng chính sách cai trị…. Sau đó, sự đàn áp thường ngày, sự kiểm duyệt mọi trao đổi tin tức, kiểm soát xuất nhập biên giới, trục xuất người ly khai… những ký ức về khủng bố tiếp tục đặt người dân trong tình trạng sợ hãi. Các quốc gia cộng sản đều trong qui luật này”.

Cũng đừng quên rằng,  Đức Đạt Lại Lạt Ma, nhà lãnh đạo tinh thần của Tây Tạng nói rằng: “Người cộng sản làm cách mạng không phải đem lại hạnh phúc cho người dân, mà họ làm cách mạng để buộc người dân đem hạnh phúc lại cho họ”.

Và hãy nhớ, “Tự do không phải là điều đáng sợ, mà là nền tảng cho sự thịnh vượng của đất nước. Không có dân chủ, không thể có sự trỗi dậy và phát triển bền vững. Và chính chúng ta phải tranh đấu, vì Dân Chủ Tự Do không phải là quà tặng.

Phạm Bá Hoa

Houston, tháng 5 năm 2017.

*******

 

Niềm Đau Vô Tận

thơ cao nguyên

 

mai - ba mươi
bữa nay - hai chín
ta đếm thời gian
câm nín
ngược dòng !

nay - hai chín
bữa qua - hai tám
ta nghe không gian
vỡ rạn
vết thù găm !

ta nhớ Tháng Tư
còn rõ hơn ngày
mẹ sinh ta ra
làm người mặt đất
vừa lọt lòng
đã khóc
lầm than !

ta nhớ Tháng Tư
còn dài hơn
cuộc đời đang có
nghe vết máu rơi
gõ xuống mặt đời
khốn khó
trăm năm !

ta ư ?
một kẻ Việt Nam
ngồi đếm thời gian
chạy ngược
trên không gian
thiếu trước
hụt sau
mà niềm đau
đã sâu vô tận !

Cao Nguyên

tháng 4 năm 2017

Người Bắt Rắn

Hà Bỉnh Trung

Câu chuyện tôi kể sau đây đã xảy ra tại tỉnh lỵ Phúc Yên 60 năm về trước. Ðó là một tỉnh nhỏ chỉ gồm có hai phủ là Ða Phúc và Yên Lãng, và hai huyện là Ðông Anh và Kim Anh. Tỉnh lỵ cách Hà Nội 43 cây số. Sau năm 1945, nó đã được sát nhập với tỉnh Vĩnh Yên và mang tên là Vĩnh Phúc. Không lâu, chính tỉnh Vĩnh Yên sau đó lại hợp với tỉnh Phú Thọ và trở thành Vĩnh Phú. Không biết cái tỉnh lỵ Phúc Yên của tôi ngày xưa nay nằm trong ranh giới thành phố Hà Nội, hay đã thuộc về Vĩnh Phú?

     Những người thuộc thế hệ chúng tôi phần lớn đều đi học rất trễ. Người thì khai tâm bằng chữ nho hai ba năm mới vào Tiểu học Pháp Việt, người thì ở nhà giúp việc gia đình đến ngoài 10 tuổi mới cắp sách đi trường. Cho nên học trò thời ấy đa số đều lớn, 15, 16 tuổi mới học đến lớp Nhất. Thậm chí có người đã có vợ nữa.

     Nhà chúng tôi ở phố Dinh Tuần Phủ nên hôm nào đi học cũng phải qua con đường «rặng me» thẳng lên đến gần dốc nhà giây thép (tức là Bưu điện bây giờ). Con đường này chỉ ngắn độ vài trăm thước, hai bên là đồng trống và dọc lề đường có những cây me thật lớn, cành lá xum xuê mọc chùm lên nhau thành như một cái mái. Mùa hè, hoa nở đỏ rực trông rất đẹp mắt, gió từ cánh đồng lướt qua mát rượi. Nhưng đến mùa đông thì trái lại, đi qua quãng đường này là một cực hình đối với dân nghèo thiếu áo ấm.

     Tỉnh nhỏ chẳng có gì để giải trí, ngày nghỉ chúng tôi chỉ có cách thuê xe đạp chạy quanh xóm nhà, hoặc ra cánh đồng trống thả diều thi đua với chúng bạn. Buổi trưa nắng ra vườn bắt chuồn chuồn cho cắn rốn (để chóng biết bơi lội), bắt bươm bướm ép vào sách, bắt châu chấu để nuôi chim yến, chim sáo, hoặc tinh nghịch hơn, lấy súng cao su bắn chim sẻ. Ngoài ra, trong dịp nghỉ hè, cứ vào khoảng một giờ trưa, ngày nào chúng tôi cũng ra cửa để chờ đón anh Nhu. Nhu là người bán kẹo kéo, vừa đi vừa lắc chuông thay tiếng rao hàng. Thấy chúng tôi là anh cứ luôn mồm hát:

«Kẹo kéo vừa dẻo vừa ngon

Bà gọi con bà ra mà quay số»

     Trẻ con quanh xóm bu lại. Anh luôn tay kéo dài miếng kẹo ra, rồi gấp lại, rồi lại kéo ra nhiều lần cho đến khi nhỏ tơi ra như sợi cước. Nhu rất khéo chiều khách hàng nhỏ tuổi của anh. Anh thay đổi mặt hàng mỗi ngày, khi thì ô mai chanh, ruốc bò khô, kẹo bạc hà, khi thì lại bày trò quay xổ số lấy kẹo bánh. Nhu khoảng độ 30 tuổi, người nhỏ bé gầy guộc, da xạm nắng. Có lẽ hai anh em tôi là khách hàng «xộp» nhất, nên đối với chúng tôi anh đã đối xử thật đặc biệt. Nhiều khi mua kẹo, anh hay cho thêm và nói:

     – Ðây biếu hai cậu thêm mỗi cậu một hộp ô mai trần bì lấy may. Trong này có hình vẽ các nhân vật Tam Quốc đấy, mở ra mà coi.

     Thực vậy, trong mỗi hộp (nhỏ bằng bao diêm quẹt) đều có một tấm hình vẽ Quan Vũ, Trương Liêu hoặc Lưu Bị, Tào Tháo vân vân…, thành ra anh Nhu đã gián tiếp quảng cáo chiêu hàng, khiến chúng tôi cứ phải mua mỗi ngày một hai hộp ô mai trần bì, để lấy ảnh góp lại cho đủ bộ danh nhân thời Tam Quốc.

     Thời gian trôi thực mau. Nghỉ hè đã hết và mùa thu bắt đầu. Tuy nhiên ngày chủ nhật chúng tôi vẫn có ý chờ anh Nhu, nhưng không thấy anh tới nữa.

     Qua mùa gặt tháng tám, cánh đồng chung quanh tỉnh lỵ đã khô dần. Qua đầu tháng mười một trời đã bắt đầu trở lạnh.

     Hôm đó, chúng tôi đang phóng xe đạp xuống con đường dốc cạnh dinh Tuần Phủ, thì thấy anh Nhu vác trên vai một cây gậy ở đầu có treo lủng lẳng một cái rọ bằng tre, tay cầm một cái móc sắt dài độ 8 tấc, lững thững đi ra phía ruộng. Mừng quá, chúng tôi lên tiếng gọi:

     – Anh Nhu! lâu quá không thấy anh. Anh đi đâu thế này?

     Nhu tươi cười:

     – Chào hai cậu. Tôi đi bắt rắn.

     – Thế anh không bán kẹo nữa hay sao? Em tôi hỏi.

     – Tôi chỉ bán kẹo vào mùa hè thôi. Nghề chính của tôi là đi bắt rắn.

     Tôi hỏi:
– Bắt rắn ở đâu, anh Nhu?
– Ở ngoài ruộng kia kìa. Chỗ nào có thì bắt.
– Cho tụi em đi theo anh, xem bắt rắn được không?

     Nhu cười khà:
– Ðược chứ! muốn đi thì đi.

Mừng quá, tôi vội bảo anh:
– Ðể tụi em đi trả xe đạp đã. Gần đây thôi. Anh chờ em nhé.

Nhu gật đầu:
– Ðược rồi. Tôi chờ các cậu ở đây. Lẹ lên nghe!

Một lát sau, ba chúng tôi đã đi sâu vào đồng nội. Ðất ruộng nứt nẻ, khô cứng. Ðó đây còn lác đác những cuống rạ chưa cắt hết. Cỏ bên bờ ruộng hơi vàng úa. Băng qua một ngọn đồi trọc, chúng tôi đi xuống gần một lạch nước cạn. Nhu đứng lại, chỉ vào một cái lỗ nhỏ độ chừng 5 phân tây đường kính. Anh nói:
– Kia rồi. Thế nào cũng có một con đang ngủ.
– Sao anh biết nó ngủ?
– Mùa đông, trời lạnh. Phần lớn các sinh vật đều trốn lạnh ở trong hang, trong ổ. Nhu trả lời.
– Anh bắt rắn về làm gì, anh Nhu?

Nhu cười nhẹ:
– Chắc các cậu không hay đi Hà Nội nên không biết. Ở hiệu ăn Tàu như Mỹ Kinh hàng buồm, và Siêu Nhiên hàng bông họ bán thịt rắn về mùa này thiếu gì.
– Thiệt hả?
– Nó có món thịt rắn nấu với thịt mèo, và một vài vị thuốc Bắc, đặt tên là «long hổ hội», ý muốn nói con rắn là rồng, con mèo là hổ. Lại còn món nấu ba loại rắn lẫn với nhau gọi là «tam xà đại hội».

Tôi nêu thắc mắc:
– Ăn có ngon không anh Nhu? Lỡ có nọc độc thì sao?

Nhu cười xòa:
– Làm gì có nọc độc nữa. Nọc rắn nó chỉ có ở trong một cái túi, gọi là hạch có lẽ đúng hơn, nằm ở cạnh hàm rắn. Khi nó mổ ai thì hai cái nanh của nó chích vào máu nạn nhân. Khi làm thịt, người ta phải bỏ hết phần đầu đi. Thịt nó ăn cũng tương tự như lươn vậy thôi, có phần dai hơn một chút.
– Ăn thế cũng đâu có lợi gì? Mình vẫn cảm thấy e dè khi nghĩ đến con rắn. Thiên hạ nhiều người cũng liều thật!

Nhu tròn mắt nói:
– Ấy, ăn bổ lắm chứ. Các cậu không thấy người ta ngâm rượu để bán hay sao?

Thấy chúng tôi lắc đầu, Nhu tiếp:
– Chiều nay về, tôi đưa hai cậu lại hiệu thuốc ông lang Phục các cậu sẽ thấy.

Vừa nói, anh Nhu vừa lấy cái móc sắt luồn vào ổ rắn. Anh xoay tay một vòng và nhanh nhẹn kéo cái móc ra. Một con rắn khá dài nằm đờ ngay miệng lỗ. Nhu lấy tay trái nắm đầu con rắn, bóp cho nó há miệng ra, rồi tay phải anh cầm con dao nhỏ cạo cạo vào nanh rắn. Xong anh bỏ ngay con rắn vào trong rọ tre đậy nắp lại.
– Rắn hổ mang đó. Ai vô phúc bị nó mổ là chỉ mươi phút sau hết cựa.

Tôi vội hỏi:
– Thế lỡ anh bị nó đớp thì sao?

Nhu cười:
– Mình có thuốc trừ chứ.

Vừa nói anh vừa móc túi lấy ra một cái lọ nhỏ có bột thuốc màu xám:
– Ðây này, lúc nào cũng phải sẵn sàng để phòng thân chứ.
– Thế anh bắt rắn về bán cho tiệm ăn ở Hà Nội à?

Nhu lắc đầu:
– Tôi bán hết cho ông lang Phục. Ông giữ một số để ngâm rượu làm thuốc, còn lại ông bán thịt.
– Chắc đắt tiền lắm anh nhỉ?

Nhu cười:
– Cũng phải theo giá chợ thôi. Nghề của tôi ít người học nên cũng kiếm được kha khá.

Chúng tôi cứ men bờ ruộng mà đi. Thỉnh thoảng lại băng qua một khu rừng nhỏ, lúc qua đồi. Tôi nhận thấy mỗi khi anh Nhu chỉ ổ rắn nào, nó cũng nằm ở cạnh bờ bụi, chứ không ở ngay giữa ruộng. Chúng tôi đi như thế, chỉ vào khoảng từ sáng đến xế trưa anh Nhu đã bắt được hai chục con rắn bỏ đầy rọ.

Khi về, đúng như lời hứa, anh đã đưa chúng tôi đến tiệm ông lang Phục, để giao hàng, và cho chúng tôi xem những chiếc vại lớn có nắp, đựng đầy rắn. Trông những hũ rượu bằng thủy tinh, có ngâm lẫn lộn ba con rắn và dăm vị thuốc bắc, tôi vẫn có cảm giác ghê sợ. Nếu ông lang Phục có hào phóng cho tôi nếm thử một ly, chắc tôi cũng phải cám ơn từ chối, bổ béo ra sao tôi cũng không cần biết.

Ở nhà ông lang Phục ra, anh Nhu còn cố kéo chúng tôi về nhà anh, một căn nhà nhỏ xinh xắn, ở gần rặng me, để biết chỗ anh ở, và để giới thiệu chúng tôi với vợ anh là chị Lụa.

Gặp chị, tôi rất ngạc nhiên, vì so với anh Nhu, quả thực hai vợ chồng không xứng đôi chút nào. Chồng thì đen đủi, gầy gò, xấu xí, còn vợ thì thật trắng trẻo, lẳn người, mặt mũi rất xinh đẹp. Thấy chồng về, chị cũng không vồn vã đón mừng. Gặp chúng tôi, chị cũng làm như lạnh nhạt, hời hợt. Tôi thầm nghĩ tại sao anh Nhu lại có thể kén được chị Lụa làm vợ mà có được hạnh phúc với nhau.

Một tháng sau. Hôm ấy đã 26 tháng Chạp. Còn bốn ngày nữa là Tết. Trường tỉnh đã đóng cửa cho học trò nghỉ. Chúng tôi lại theo anh Nhu đi bắt rắn. Khi lên hết ngọn đồi, anh ôm vai tôi kể chuyện:
– Này cậu, bữa nọ, tôi suýt bị nguy. Ai lại trước khi đi, tôi thay áo, rồi lơ đãng quên khuấy lọ thuốc trừ nọc trong túi không đem theo. Ðên khi nhớ ra mới hết hồn, phải quay về ngay. May mà không gặp con rắn nào, chứ không là chết. Từ đấy bữa nào ra cửa tôi cũng phải kiểm lại món ấy trước hết. Ðây này, lọ thuốc mới lấy ở tiệm ông lang Phục sáng nay. Tốt ghê lắm cậu ạ! Chỉ cần rắc một chút bột lên vết rắn đớp hai phút sau là hết bầm tím. Làm nghề này tôi đã bị hai lần rắn mổ rồi đấy.

Tôi vội hỏi:
– Tại sao anh cứ chộp đầu rắn bằng tay không cho nguy hiểm? Tại sao anh không lấy bao bố cắt ra làm bao tay, có phải đỡ hơn không?

Nhu cười:
– Cậu nói có lý. Nhưng đeo bao tay nó vướng lắm. Hơn nữa, mình cũng ỷ y có thuốc hiệu nghiệm thành ra thấy không cần.

Không biết có phải tại anh Nhu linh cảm bữa nay anh sẽ gặp xui hay không, mà chỉ 30 phút sau khi nói chuyện, anh bị một con rắn hổ khá lớn mổ vào cổ tay bên phải hai vết răng rớm máu. Tôi cũng hết vía khi con rắn vọt về phía tôi, cách khoảng chừng nửa thước chạy thoát vào trong bụi.

Anh Nhu bình tỉnh, ghé miệng hút máu độc ra nhổ đi, rối lấy lọ thuốc đổ bột vào vết thương. Thấy anh em tôi có vẻ luống cuống, anh cười nói:
– Hai cậu thấy chưa? mình vừa nói đến chuyện rắn mổ, thì y như rằng chuyện xui xảy tới. Nhưng không sao đâu, hai cậu đừng sợ, chỉ vài phút nữa là vết độc hết bầm ngay.

Thời gian trôi qua thật nặng nề. Chúng tôi vô cùng bối rối thấy vết độc ở cổ tay anh Nhu càng xưng to và tím ngắt. Hình như anh định nói điều gì, nhưng chỉ thấy há miệng ú ớ không ra tiếng. Anh nằm vật xuống quằn quại, mắt trợn ngược, xùi bọt mép và tắt thở. Chúng tôi sợ quá, đành chỉ biết chạy vội về tỉnh báo tin cho chị Lụa biết, để gọi cáng đưa xác anh Nhu về.

Tội nghiệp chị Lụa! người vợ trẻ khóc lóc thảm thiết. Chị kêu gào lăn lộn ngoài ruộng, ôm chặt anh Nhu. khiến quần áo lấm bê bết. Tội nghiệp người đàn bà trẻ đẹp xấu số, mới ra đời đã bị vùi dập, nửa đường đứt gánh.

Ông lang Phục đã giúp chị Lụa một số tiền để lo việc ma chay cho anh Nhu, gọi là đền đáp công khó của anh. Còn chúng tôi dĩ nhiên cũng đã đến nhà anh Nhu, chia buồn cùng chị Lụa và đưa đám người xấu số.

Năm sau, chúng tôi đậu bằng Tiểu học và lên Hà Nội theo học trường Sư phạm. Tôi đã 17 tuổi và em tôi 16. Nghỉ hè trở về nhà nghe thiên hạ xì xầm chị Lụa đã tằng tịu với ông lang Phục, có thể nói chị đã thành như vợ bé của ông lang giàu có rồi. Do đó, lại có lời đồn đại là ông lang đã âm mưu tráo thuốc giả trừ nọc rắn để mưu hại anh Nhu hòng cướp vợ của người bắt rắn.

Nghe chuyện, tôi chẳng thế nào tin nổi. Tôi muốn tìm biết sự thật, nên một hôm, một mình tôi ghé lại nhà anh Nhu, để thăm dò thái độ của chị Lụa. Thấy tôi, chị tỏ vẻ vui mừng như người thân lâu ngày mới gặp. Chị reo lên:
– Ô kìa, em đã về nghỉ hè rồi hả? Vào chơi đi.

Chị kéo chiếc ghế ra:
– Ngồi đây đi em. Ðể chị đi đun nước uống.

Chị vào nhà trong độ một phút, lại quay ra ngồi xuống chiếc ghế sát bên tôi. Tôi nhìn chị nói:
– Em đến thăm chị thôi, vì nhớ và thương anh ấy quá.

Lụa thản nhiên:
– Sinh nghề tử nghiệp mà em, làm sao được bây giờ?

Tôi lại nhìn chị Lụa, thấy chị thật đẹp:
– Trông chị vẫn như trước. Có phần chị…

Lụa ngắt lời:
– Chị mập ra một chút em ạ. Còn em, trông cao lớn hẳn lên nhỉ. Trông bảnh trai lắm rồi. Cao hơn chị một đầu rồi còn gì!

Vừa nói chị vừa bóp cánh tay tôi:
– Úi chà! tay em rắn chắc quá nhỉ, chắc em tập thể thao nhiều?

Tôi lí nhí đáp:
– Vâng, em phải tập thể dục và thể thao ở trường mỗi ngày.

Lụa đưa tay lên vai tôi, rồi lại sẽ vuốt sau lưng, khiến tôi cảm thấy mặt nóng bừng bừng. Tôi không có phản ứng, vì thú thật tôi cũng cảm thấy êm ái khi một bàn tay mềm mại đụng chạm vào người tôi, một thằng con trai mới lớn.

– Chị buồn lắm. Thỉnh thoảng em đến chơi thế này thật là quý hóa.

Tôi im lặng sẽ gật đầu. Chị nhìn thẳng vào mắt tôi như thôi miên, hai mắt sáng ngời, tình tứ, như ướt lệ, long lanh. Tôi cảm thấy thực yếu đuối. Tôi sắp bị sa ngã. Tôi chắc tôi sẽ bị khuất phục trước sức quyến rủ của một người đàn bà đẹp như chị Lụa nếu tình trạng này kéo dài. Nhưng, may quá, vừa lúc ấy có tiếng người gọi bên ngoài. Chị Lụa như thức tỉnh, bước ra mở cửa. Thì ra em tôi đến tìm tôi về ăn cơm. Nhờ vậy tôi đã không bị mắc vào vòng tội lỗi.

Từ hôm đó, tôi tin chắc lời đồn đại không sai. Anh Nhu đã bị ám sát, và người chủ mưu chính là ông lang Phục. Nhưng chứng cớ đâu mà buộc tội được ai? Sự thực rõ ràng là anh Nhu đã bị rắn độc mổ chết, vì liều thuốc trị nọc đã vô hiệu có chúng tôi chứng kiến. Còn chị Lụa có đồng lõa trong âm mưu đen tối này không? Không ai dám cả quyết. Nhưng riêng tôi thấy chị Lụa chỉ là một người đàn bà trắc nết, trẻ đẹp, dâm dục, thích mới lạ, thích tiền. Vậy thôi.

Thời gian vẫn trôi qua nhanh chóng. Vừa mãn tang anh Nhu vào dịp Tết, chúng tôi về thăm nhà lần này lại được nghe một tin động trời, khó hiểu: ông lang Phục và chị Lụa đã cùng chết trong một đêm hoan lạc. Hai người nằm sùi bọt mép, mắt trợn ngược, người tím bầm, vì ngộ độc. Có kẻ nói hai người đã dùng rượu rắn cho khỏe nên đã bị trúng nọc. Nhưng có người xấu miệng hơn lại nói chị Lục có thể bị trúng độc thực đấy, chứ ông lang Phục thì chắc đã chết vì chứng thượng mã phong.

Tôi nghĩ đây có thể là chuyện oan oan tương báo, hay là, biết đâu, lại không phải là chuyện rắn báo thù?

Hà Bỉnh Trung

Tưởng Niệm Văn Thi Sĩ Hà Bỉnh Trung

Nhân Ngày Giỗ Thứ Năm  (24/4/2012 - 24/4/2017)

 

TIỂU SỬ TÓM LƯỢC VỀ NHÀ THƠ, NHÀ VĂN HÀ BỈNH TRUNG

                             
                                                      
1/ Họ và tên: Hà Bỉnh Trung 
    Ngày tháng năm sinh: 15 tháng 9 năm 1922
    Các bút hiệu: Hà Bỉnh Trung, Hoa Nguyên, Hồng Bảo.

2/ Học vấn, nghề nghiệp và hội đoàn:

Dạy học: Anh văn và Pháp văn

Quân đội: Sĩ Quan trừ bị, Nha Báo Chí Phủ Quốc Trưởng và Phủ Tổng Thống VNCH.

Văn học: Viết văn, làm thơ, viết kịch thơ, làm việc tại vài tòa soạn nhật báo, tạp chí.
- Hội Nhà Văn Việt Nam (Société des Hommes de Lettres, Saigon 1963)
- Hội viên Văn Bút Việt Nam: P.E.N.Vietnam (Saigon, 1964)
- Chủ Tịch Trung Tâm Văn Bút Miền Đông Hoa Kỳ (2 nhiệm kỳ 1997-99 và 2001-2003)
- Chủ Tịch Câu Lạc Bộ Văn Học Nghệ Thuật Vùng Thủ Đô Hoa Thịnh Đốn (2001-2007)

- Hội trưởng Hội Người Việt Cao Niên Vùng Hoa Thịnh Đốn (2 nhiệm kỳ 2003-2005 và 2005-2007)
- Cố Vấn Sáng Lập Nguyệt San Kỷ Nguyên Mới

3/ Các tác phẩm đã xuất bản:

a- Truyện dài:  
- Răng Đen Ai Nhuộm Cho Mình (1952, Hà Nội)
- Những Ngả Đường (1972, Saigon)
- Chỉ Hồng (1998, Hoa Kỳ)
- Dốc Nửa Chừng (1998, Hoa Kỳ)
- Thuở Trời Đất Nổi Cơn Gió Bụi (Truyện Dài, 2004, Hoa Kỳ)

b- Truyện Ngắn:
- Theo Nhịp Dòng Đời (1993, Hoa Kỳ)
- Rừng Thiêng (1994, Hoa Kỳ)
- Hồn Thu Thảo (Dã Sử, 1998, Hoa Kỳ)
- Hoa Đào Năm Ngoái (2000, Hoa Kỳ)
- Hình Ảnh Cũ (2004, Hoa Kỳ)

c- Thơ:
- Khói Lửa (1987, Hoa Kỳ)
- Yêu Mãi Ngàn Năm (1991, Hoa Kỳ) 
- Dấu Chân Viễn Khách (1995, Hoa Kỳ)
- Cánh Thời Gian (1997, Hoa Kỳ)
- Ngàn Dặm Thương Yêu (1999, Hoa Kỳ)
- Vẫn Mãi Yêu Em (2000, Hoa Kỳ)
- Thuyền Trăng (2001, Hoa Kỳ)
- Một Ánh Sao Băng (2004, Hoa Kỳ)
- Thuở Ấy Yêu Nhau (2007, Hoa Kỳ)
- Tâm Sự (2007, Hoa Kỳ).

d- Kịch Thơ: - Kịch Thơ (1994, Hoa Kỳ)

e- Thơ Dịch:  
- Hoa Thơm (Pháp Việt đối chiếu, 1952, Hà Nội)
- Anh Hoa (Anh Việt đối chiếu, 1967, Saigon; tái bản 2005, VA, Hoa Kỳ)
- Thơ Lý Bạch (Thơ dịch Hán Việt đối chiếu, 2005, Hoa Kỳ)

f- Thơ Anh Ngữ: - Mars & Venus (2001, Hoa Kỳ).

4/ Các tác phẩm sau này:
- Fleurs d’Automne (Thơ Pháp Ngữ, 2008, Hoa Kỳ)
- In Harmony (Thơ Anh Ngữ, 2008, Hoa Kỳ)
- Nhạc Thơ Giao Cảm (2008, Hoa Kỳ).
- Tập Thơ phổ Nhạc (2008, Hoa Kỳ)
- Chuyến Bay Đêm (Truyện Ngắn)
- Những Nàng Thơ (Thơ, Tập 11)
- Tình Yêu Cuối Đời (Thơ, Tập 12)
- Văn Học Bốn Phương (Tạp Văn)
- Hồi Ký Văn Nghệ.
- Ngôn Ngữ VN. Từ Điển và Mẹo phân biệt dấu Hỏi Ngã.

5/ Các thành tích văn học hay các giải thưởng:
Tác Phẩm Anh Hoa (Thơ dịch Anh Việt đối chiếu) đoạt Giải Thưởng Văn Học, Bộ Môn Dịch Thuật, năm 1965 của Phủ Quốc Vụ Khanh Văn Hóa tại Saigon.

6/ Đã cộng tác với các báo:
Tại Hà Nội: Ngày Mai, Chính Đạo, Thời Luận, Quê Hương.
Tại Đà Lạt: Đà Lạt Tiến.
Tại Sài Gòn: Ánh Sáng, Chỉ Đạo, Thời Luận, Tự Do, Thi Văn Tao Đàn, Phụng Sự (QĐ), Tiền Tuyến (QĐ).
Tại Hoa Kỳ: Diễn Đàn Tự Do (VA), Hoa Thịnh Đốn (VA), Đời Nay (VA), Văn Nghệ (VA), Tiểu Thuyết Nguyệt San (VA), Tam Cá Nguyệt San Cỏ Thơm (VA), Nguyệt San Văn Phong (VA), Nguyệt San Kỷ Nguyên Mới (VA)

(Nhà Văn Phạm Văn Tuấn biên soạn)

 

TƯỞNG NIỆM VĂN THI SĨ HÀ BỈNH TRUNG

Kính thưa toàn thể quý vị,

Để tưởng niệm đến văn thi sĩ HÀ BỈNH TRUNG tất nhiên là chúng ta phải đề cập tới những tác phẩm của Cụ. Đây là một kho tàng rất đồ sộ. Tất cả gồm 5 tập Truyện dài, 6 tập Truyện ngắn. 12 tập Thơ sáng tác. 3 tập Thơ dịch từ tiếng Anh, Pháp, Hoa sang tiếng Việt và 2 tập thơ sáng tác bằng Anh ngữ.

Truyện dài và truyện ngắn nói chung đều mang một triết lý nhân sinh. Truyện khi thì ghi lại các biến động về chiến tranh, khi thì mô tả tình yêu đôi lứa, gia đình, lúc thì nói về quân đội, quê hương v.v… Truyện cũng bàn về luân lý và các truyền thống văn hóa cao đẹp của thời xưa cũ, đôi khi so sánh với cuộc sống tha hương hiện tại. Vì thời gian có hạn nên chúng tôi không thể trình bày chi tiết hơn cho nên chỉ xin nói về thơ.

Thơ của thi sĩ Hà Bỉnh Trung gồm hầu như đủ mọi “thể loại thơ”. Tổng cộng có lẽ cả hơn ngàn bài. Không kể những bài đăng rải rác trên các báo chí và các bài chưa được xuất bản. Người ta thường xưng tụng thi sĩ là “Nhà thơ của tình yêu.” Cũng như buổi tưởng niệm hôm nay được đặt tên là “Yêu mãi ngàn năm”. Có lẽ cũng không sai. Thi sĩ từng viết:

“Yêu đến bao giờ mới hết yêu?
Ngàn năm? nào đã được bao nhiêu?
Ngàn năm chưa đủ cho dòng máu
Chảy khắp con tim suốt mọi chiều!"…

Nổi bật là Tình yêu nam nữ:

Tình Yêu khởi đầu từ tuổi học trò.
“Hai mươi, rạo rực khi đi học,
Thấy áo em bay phía cuối đường,
Nán bước chờ em, lòng hớn hở
Để cùng trao ánh mắt yêu đương”

Với tâm hồn lãng mạn tình yêu kéo dài tới hồi trai trẻ:

"Người nằm xa lạ trong mơ
Tỏa thơm mùi tóc vàng tơ gối đầu.
Môi nào tìm lại môi nhau,
Sáng ra tỉnh giấc còn đâu dáng hồng"…

Tất nhiên sẽ có men rượu, có khói thuốc, có cả lời ca, tiếng nhạc…:

“Em mời ta chén rượu cay
Để thương nhớ mãi đêm này gặp nhau.
Môi mềm nhắp chén tê đau
Mắt đen trĩu nặng ý sầu từ ly.”…   

Có chia ly nơi bến thuyền, ga vắng, phi trường:

“Tàu đi, ga vắng một người,
Mây trôi lãng đãng chân trời nhớ nhung”…                

Có hôn nhân đôi lứa kết thúc cuộc tình đẹp:

“Ngày mai, anh đón em, em nhé!
Lộng lẫy xe hoa kết pháo hồng”…

Tình yêu kéo dài cho đến tuổi già:

“Khi yêu, yêu đến bạc đầu,
Thời gian không hẹn phai màu tóc xanh”…

Thật ra Thơ của thi sĩ Hà Bỉnh Trung không chỉ giới hạn trong vòng lãng mạng nam nữ thường tình mà còn trải rộng ra nhiều lãnh vực cao cả hơn.

Chúng ta được đọc những lời thơ nói lên Tình yêu trong gia đình:

Thi sĩ từng bày tỏ lòng kính yêu với Song Thân mình:

“Thương cha mẹ đã qua đời
Lại thương ngàn dặm xa vời nước non”…

Lòng yêu thương Con Cháu:

“Con mở mắt chào đời. Thương biết mấy!
Ngọc lưu ly màu tinh khiết trắng ngần.
Trán con sáng như khoảng trời nắng dậy
Một màu xanh không gợn chút phù vân”…

Lòng thương tưởng người Vợ hiền đã xa lìa cõi tục 8 năm trước đó:

“Tôi, một bóng sống cô đơn
Sáng, chờ đợi ánh bình minh tha thiết
Trưa, chán ngán nắng vàng tăng lửa nhiệt
Chiều lặng buồn, ra tiễn bóng hoàng hôn”…

Thi sĩ còn bộc lộ  Tình yêu đối với đồng bào:

Thương sót đồng bào ruột thịt trong Nạn đói năm 1945 thi sĩ viết:

“Suối mồ hôi tràn mặt
Mắt sâu trũng niềm đau
Thân khô như bó củi
Nâng đỡ bộ xương đầu”…

Sót thương nạn nhân Chiến tranh thi sĩ viết:

 “Vợ gánh đôi con dại,
Chồng quẩy gạo, nồi niêu,
Bỏ ruộng không, nhà trống,
Như một vùng hoang liêu”…

Và lời thơ thương cảm đời Nông dân cực khổ:

“Thương thay số phận dân lành,
Rẻ hơn cỏ rác, ai đành làm ngơ?”…

Đã từng khoác chiến y, thi sĩ bộc lộ Tình yêu đồng đội khi viết những lời thơ ai điếu:

“…Thu qua, lá đổ vàng rơi
Anh đi một giấc ngủ vùi ngàn thu!”…
…Có hai người bạn ngồi canh xác
Đêm lạnh gai người lúc nửa khuya!"”…

Tất nhiên trong thơ còn có Tình yêu quý tự do. Khi viếng tượng Nữ Thần Tự Do thi sĩ viết:

“Quê ta ngập lửa chiến tranh
Nông thôn nghèo khó, thị thành tham ô.
Xin em một chút tự do,
Gửi thương gửi nhớ về cho quê nhà.”…

Có ước vọng Yêu thương hòa bình:

“Bao giờ đất nước thanh bình lại,
Chim hót, hoa ngàn nở thắm tươi?
Bao giờ cây lại thu thành trái,
Làng mạc vang vang rộn tiếng cười?”…                                                                                     

Tràn trể tình Yêu đất nước, quê hương:

“…Hôm nay trông cảnh xứ người,
Lòng dưng dưng thấy ngậm ngùi nhớ quê,”…                                            

“…Quê hương xa cách nghìn trùng
Càng xa càng thấy vô cùng nhớ thương”…

Để rồi ước mơ quê hương tươi sáng, khắp nơi phô sắc ngọn cờ vàng:

“Nhớ thuở đầu xanh vượt núi rừng
Lòng trai mơ một giấc mơ chung
Gươm mài bóng nguyệt, nghe hồn nước
Vàng ánh cờ bay đẹp núi sông.”…

Và cũng như các thi sĩ khác ai nấy đều Yêu thiên nhiên với phong cảnh hữu tình gợi ý thơ:

“Sương thu ướt lạnh trăng thanh
Chiến y nặng trĩu màu xanh lá rừng.
Người đi, chân bước ngập ngừng
Núi cao chất ngất lưng chừng sương sa”…

Nói tóm lại, Thơ của thi sĩ Hà Bỉnh Trung đã không chỉ đề cập tới Tình Yêu nam nữ đơn thuần mà còn phô ra những tình cảm da diết chân thành đối với Gia đình, Đồng bào, Đồng đội, đề cao Tự do, ước vọng Hòa bình và lòng yêu Quê hương, Tổ quốc. Lời thơ chau chuốt, điêu luyện. Ý thơ trong sáng. Cụ Hà Bỉnh Trung suốt cả một cuộc đời cầm bút, miệt mài, chân thành, chúng tôi không dám nói Vườn Văn Thơ của Cụ Hà là một cõi Thiên Thai. Nhưng có một điều chắc chắn đó là một nơi đầy kỳ hoa dị thảo và sẽ được đón nhận nồng nhiệt vì đáp ứng đúng nhịp đập con tim của người đọc. Chẳng thế mà thơ của Cụ đã được 16 nhạc sĩ tâm đắc phổ nhạc. Chúng tôi thiết nghĩ nhà văn, nhà thơ Hà Bỉnh Trung phải được dành một chỗ xứng đáng trong Văn Học Sử của nước Việt ta.

Kính thưa toàn thể quý vị,
Thật là thiếu sót nếu chúng ta không nhắc nhở tới những giòng thơ đầy ắp Đạo Vị của thi sĩ Hà Bỉnh Trung. Thi sĩ đã cảm nhận đươc rằng sự vật trong vũ trụ đều do nhân duyên tác hợp, không có gì là có tự thể, thường hằng nên cuộc sống con người chỉ là tạm bợ. Thi sĩ viết:

“Dù bạo chúa một ngày nào cũng chết
Ai trường sinh? Ai bất tử bao giờ?”…                                          

Trong ánh Đạo vàng rực rỡ giải thoát, thi sĩ chiêm nghiệm ra cái "sắc sắc, không không" của nhà Phật:

“…Con người là của sắc không
Đảo điên giữa chốn bụi hồng chơi vơi”…                                                          …“Đế-cung, vương điện tan tành,
Sắc không còn lại bức thành nằm trơ!”…

Trong bài “Kinh Nguyện Cầu” tưởng niệm hiền thê đã khuất núi 8 năm trước đó, thi sĩ viết:

 “Kinh cầu nguyện vang vang từ bốn cõi
Tiễn người đi về đất Phật Đại Từ
Tôi lặng lẽ cúi đầu nghe tiếng nói
Những điều hay, lẽ phải của Thiền Sư”…

Cụ Hà Bỉnh Trung đã quy y Tam Bảo với Pháp Danh “Nguyên Chí”. Vì lẽ đó để chấm dứt bài tưởng niệm này tôi xin dâng lời Cầu Nguyện cho Phật Tử NGUYÊN CHÍ HÀ BỈNH TRUNG, sau khi đã nhẹ nhàng thanh thản lìa bỏ xác tục trong có một hai ngày, Người lại sẽ thong dong tự tại ra đi vào cõi tịnh, sẽ vãng sinh Tây Phương Cực Lạc Quốc.

Nam Mô Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật

NGÔ TẰNG GIAO

(Bài đọc ở Lễ Tưởng Niệm văn thi sĩ Hà Bỉnh Trung,
April 29. 2012, Virginia, USA)

 

VĂN THI HỮU VIẾT VỀ HÀ BỈNH TRUNG

     Nhận định về các hoạt động văn học và các tác phẩm Văn cũng như Thơ của cố văn thi sĩ Hà Bỉnh Trung nhiều cây viết thân hữu của ông đã lên tiếng trong thời gian qua và được lần lượt ghi lại trong cuốn HÀ BỈNH TRUNG TUYỂN TẬP do Câu Lạc Bộ Văn Học Nghệ Thuật Vùng Hoa Thịnh Đốn xuất bản vào năm 2013 được trích dẫn như sau đây.

     Mở đầu tuyển tập luật sư NGÔ TẰNG GIAO cho rằng: “Thi sĩ Hà Bỉnh Trung thường được giới văn thơ mệnh danh là thi sĩ của tình yêu. Quả thật đúng vậy vì tình yêu trong thơ ông lúc nào cũng ‘chất ngất lên ngôi’ và trải rộng bao la trong nhiều lãnh vực. Thơ diễn tả đủ mọi trạng thái, mọi khía cạnh đời sống, cũng như mọi ý nghĩ, rung cảm sát với tình người.”… “Với một số lượng tác phẩm đồ sộ gồm cả Văn lẫn Thơ hoàn tất trong suốt cả một đời cầm bút miệt mài và chân thành chúng tôi thiết nghĩ cây bút Hà Bỉnh Trung phải được dành một chỗ xứng đáng trong Văn Học Sử của nước Việt ta.”

     Tiếp theo là biên khảo gia giáo sư PHẠM VĂN TUẤN phát biểu: “Tác giả Hà Bỉnh Trung là một nhà văn đã may mắn sống và làm nhân chứng trước các biến đổi thời cuộc trong hai thế kỷ, từ thời cực hữu phong kiến và quân chủ, qua thời cực tả cộng sản, và cũng là người được đào tạo theo căn bản quốc học cổ điển với nền triết lý đông phương, trải qua con đường đạo đức của một gia đình lớn, nho học và khoa bảng, hấp thụ nền tân học tây phương với nhiều năm sinh sống tại thủ đô Paris của nước Pháp. Cho nên những gì nhà văn Hà Bỉnh Trung viết ra, thường là những diễn tả các cảnh vật cũ, phong tục xưa mà tác giả cho là đẹp, là mang dấu ấn thời gian, mang màu sắc Phật Lão, Khổng Mạnh, lại lồng vào bên trong vài ý nghĩ phóng khoáng của phương tây.”… “Không kể tài năng về văn chương, bác Hà Bỉnh Trung còn là một văn nhân rất trầm tính, ôn hòa với mọi người, chỉ nói tốt cho người khác, đã giúp đỡ nhiều người mà không hề kể công, vì vậy tôi đã gọi Bác Hà Bỉnh Trung là ‘Người Quân Tử Cuối Cùng’, bởi vì vào thời gian này, rất khó mà kiếm ra được một ‘nhân vật’ tiếp theo.”

     Nhà văn nhà báo UYÊN THAO kế tiếp đó nói: “Thế giới văn chương Hà Bỉnh Trung là những cảnh đời của mọi thời đại, của con người dưới tác động thời gian và các biến cố lúc nào cũng có thể xảy ra, trong khi các nhân vật không dừng lại ở cảnh đời đang gặp mà tiếp tục sống với nỗ lực vươn tới”… “Hà Bỉnh Trung dấn bước vào những cảnh đời khó khăn để nhận diện nhiều trạng thái tâm tư, đồng thời để tìm câu trả lời chuẩn xác cho nỗi mong mỏi xây dựng một tương lai không còn sóng gió. Câu trả lời mà Hà Bỉnh Trung muốn đưa lại đã tạo nên màu sắc đặc thù cho nhân vật văn chương của ông…”

     Nhà thơ NHẤT TUẤN nhận định riêng về tập thơ “Khói Lửa”: “…điều đặc biệt mà tôi tìm thấy ở Hà Bỉnh Trung là thơ ông tràn đầy Tình Nhân Loại với tất cả sự rung động xót xa tột cùng của một trái tim thi sĩ mỗi khi ông đề cập đến đời sống hiền hòa của người vô tội, và Tình Yêu Của Tuổi Trẻ, những người đã bị mất mát và thiệt thòi quá nhiều trong cuộc chiến bao năm qua tại quê nhà và hiện nay vẫn còn đang tiếp diễn.”

     Cây viết LÊ VIẾT TRÂN, một chiến hữu, giới thiệu Hà Bỉnh Trung như một “người thơ võ bị” qua thi tập “Yêu Mãi Ngàn Năm”: “Về những nơi chốn mà tác giả đã đặt chân tới, thì trong suốt tập thơ, tác giả đã chứng tỏ cho người đọc là thơ đã được viết khắp cùng thiên hạ, từ trong đất nước Việt Nam đến những địa danh trên thế giới, trong cuộc hành trình của đời quân ngũ của ông. Ở đâu ông dừng chân là ở đó có thơ, đặc biệt là thơ yêu.”… “Một niên trưởng sau những quá khứ chiến chinh ngày xưa, giờ đây ngồi ôn lại những quãng đời yêu đương thơ mộng của mình để giãi bày những tâm sự chứa chan lãng mạn của một người chiến sĩ về hưu, dành lại những hăng hái ngày xưa cho thế hệ mai sau.”   

     Tiếp đó Giáo sư NGUYỄN NGỌC BÍCH khi đề cập tới thi tập “Yêu Mãi Ngàn Năm” cũng nói: “…ta có thể khẳng định mà không sợ nhầm lắm rằng thơ Hà Bỉnh Trung nằm trong ‘vũ trụ thơ tiền chiến’. Nhưng có lẽ vì anh may mắn nên ta ít thấy thơ của anh dày vò chung quanh những nét ‘ghen, hờn, giận’ mấy! Có lẽ nhờ vậy mà đọc thơ anh, ta không có cảm tưởng ‘ngộp thở u uất’ hay gặp một ‘loại tháp ngà lạnh buốt’ như chữ của Mai Thảo. Ta thấy nhẹ nhõm hơn vì có lẽ tình của anh, những mối tình của anh, đơn sơ hơn, bình dị hơn, không hề quằn quại, đau thương mấy.”… “Cũng giống thơ Xuân Diệu phần nào, thơ tình Hà Bỉnh Trung cũng có chất nhục tính, chất ‘sensualité’ - một khám phá lớn của thơ tình Việt Nam ở thế kỷ 20, một tính cách gần như không có trong thơ tình Việt Nam của những thế kỷ trước”… “Mặc dầu anh có, anh nhận được ra cái nhiệt tình, cái nồng độ của tình yêu trai gái, anh vẫn không dám - ít nhất trong thơ anh - đi xa hơn cái lễ nghi cho phép.”

     Nhà văn SƠN TÙNG khi đề cập tới thi phẩm “Yêu Mãi Ngàn Năm” thời cho rằng: “Có lẽ ‘tình yêu làm cho con người trẻ lâu’ thật nên nhà thơ Hà Bỉnh Trung năm nay đã 70 tuổi, mái tóc bạc trắng như tơ, nhưng dáng dấp vẫn như một người trung niên, và lái xe thể thao sang số tay.”... “Nhà thơ Hà Bỉnh Trung đã làm thơ tình nửa thế kỷ trước đây, nay vẫn còn làm thơ tình và xuất bản thơ tình.”... “Tập thơ ‘Yêu Mãi Ngàn Năm’ cùa Hà Bỉnh Trung cũng chứng minh rằng trái tim thi nhân không bị già cỗi và chết ngộp trong sức ép của đời sống tôn thờ vật chất.”

     Chủ nhiệm nguyệt san Kỷ Nguyên Mới là nhà văn LÊ THỊ NHỊ đưa ra những nhận xét: “Trong lúc sinh hoạt với nhà thơ Hà Bỉnh Trung, tôi nhận thấy ở ông có nhiều đức tính mà tôi rất khâm phục. Ông là một người lạc quan, hòa nhã, không bao giờ biết hờn giận ai, khiêm tốn và biết tôn trọng người khác, dù người đó chỉ ở hàng con cháu của ông”... “Có thể nói, nhà thơ Hà Bỉnh Trung là một người rất có lòng với văn chương chữ nghĩa và các sinh hoạt của cộng đồng. Ông không chỉ nói suông, mà ông đã thể hiện tấm lòng đó bằng những hành động cụ thể. Nhà thơ Hà Bỉnh Trung viết và làm thơ không ngừng nghỉ! Ông khuyến khích những người mới viết và coi mọi người như bạn.”… “Nhà thơ Hà Bỉnh Trung cũng có cái may mắn là những việc ông làm, ông được sự yểm trợ đắc lực của hiền thê và các con của ông.”

     Nhà văn LÊ MỘNG HOÀNG cũng bộc lộ tình cảm mình và góp ý: “Tin bác từ trần như một cơn bão dữ thổi qua khu vườn Câu Lạc Bộ Văn Học Nghệ Thuật, ban biên tập Nguyệt San Kỷ Nguyên Mới, đặc san Cỏ Thơm, và trong cộng đồng Việt Nam đặc biệt là các cụ Hội Cao Niên đã từng sinh hoạt với bác 4 năm liên tục lúc bác giữ chức vụ Hội Trưởng Hội Cao Niên.”… “Suốt mấy năm sinh hoạt với các anh chị em trong Câu Lạc Bộ Văn Học Nghệ Thuật dưới sự lãnh đạo của chủ tịch Hà Bỉnh Trung, con chưa lần nào nghe bác to tiếng hoặc chỉ trích phê bình ai, lúc nào bác cũng từ tốn, nhỏ nhẹ, hoà nhã.”

     Nhà văn nhà thơ HỒNG THỦY nhận định: “Tuy bác lớn tuổi nhưng bác rất khoẻ, lưng vẫn thẳng băng, bước đi nhanh nhẹn. Dáng dấp hào hoa và quần áo lúc nào cũng đẹp đẽ chải chuốt. Tính tình bác rất trẻ trung, bác luôn vui vẻ hòa đồng với mọi người”... “Tôi rất cảm phục bác vì tính bác rất rộng lượng, không hay chấp nhất. Bác luôn cho đám hậu sinh chúng tôi những lời khen thưởng khuyến khích, ít khi bác chê bai hay làm mất long ai”... “Bác là người thơ có trái tim trẻ mãi không già”... “Tình yêu thơ văn của bác gắn liền với tình yêu quê hương Việt Nam. Bác luôn luôn muốn bảo tồn văn hóa Việt. Bác đã thành lập Câu Lạc Bộ Văn Học Nghệ Thuật Vùng Hoa Thịnh Đốn và sau đó có sáng kiến thành lập Nhà Việt Nam để làm trung tâm sinh hoạt cho người Việt Quốc gia ở vùng Thủ đô Hoa Kỳ.”

     Chủ bút nguyệt san Kỷ Nguyên Mới là LINH VANG tâm sự: “Bác quý mến người cầm bút, không phân biệt già trẻ, bác ăn ở hiền hậu đúng là văn nhân thi sĩ chính hiệu. Bác đứng ra ngoài mọi phe nhóm dùng chữ nghĩa đánh phá nhau. Bác hay nói với tôi, đã bảo văn thơ là thú vui tao nhã, ai lại dùng để chửi nhau. Tôi chịu ảnh hưởng văn thơ của bác nên văn chương chữ nghĩa của tôi cũng rất hiền, hiền kiểu Đôi bạn, Hồn Bướm Mơ Tiên”... “Điều làm tôi cảm động và kính mến bác nhất là bác luôn luôn đối xử với tôi như là một bạn văn, dù tôi kém tuổi hơn bác rất nhiều, dù sự nghiệp viết lách của tôi cũng còn non trẻ, thua bác xa lắc.”

     Cuối cùng là nhà thơ ĐĂNG NGUYÊN (nay là Chủ Tịch Văn Bút Miền Đông Hoa Kỳ) nói: “Nhà thơ Hà Bỉnh Trung rất yêu đời. Cụ có cuộc sống giản dị, thanh thản, hài hòa với mọi người, nên được nhiều người yêu mến”... “Cụ nhìn đời khá lạc quan”... “Giữa mùa Xuân hải ngoại, nhiều người nhìn đời u ám, nhìn mùa Xuân bi thương, nhìn tình yêu đầy trắc trở, bội bạc, thì cụ Hà với tuổi bát tuần vẫn yêu Xuân, yêu đời, yêu người tha thiết như tuổi đôi mươi”... “Hình ảnh Cố Chủ Tịch Hà Bỉnh Trung vẫn còn mãi mãi trong lòng hội viên Hội Cao Niên và các thi văn hữu trong vùng Hoa Thịnh Đốn.”

     Hai người cháu ruột cao niên của văn thi sĩ Hà Bỉnh Trung cũng góp mặt trong cuối phần 1 Tuyển Tập. Nhà thơ ĐỖ LANG (Đỗ Hữu Tước) ghi mấy vần thơ nhân kỷ niệm sinh hoạt 60 năm của chú mình:

     ...“Thi tứ mượt mà tình với lụy

         Văn chương chải chuốt mộng cùng mơ

         Da mồi nhưng trí còn minh mẫn

         Tóc bạc mà lòng vẫn ngẩn ngơ”...

     Nhà văn ĐIỀN HƯƠNG (Đỗ Tài Trường) khi nhớ về những kỷ niệm với cậu ruột thân yêu của mình đã phát biểu: “Ở tuổi cửu tuần tuy chưa tới bách tuế nhưng nếu người còn ở lại tôi tin rằng sẽ còn nhiều thơ sáng tác có giá trị thêm nữa, nhưng dù sao cũng tự an ủi là cậu đã ra đi rất nhẹ nhàng không hề vướng bận cho con cháu và người thân.”... “...tưởng nhớ người cậu hiền hòa kiến thức rộng rãi, ôn tồn với mọi người, một con người nhân hậu đáng trân quý không còn trên thế gian.”

Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Virginia, tháng 4 năm 2014)

 

THƠ HÀ BỈNH TRUNG

FAREWELL, MY LOVE!

To My Beloved Departed Wife

 

You’ve gone! The sky is dark and dreary

You’ve really gone! The snow is all over.

The wet wind’s weeping for a grey winter

Is it really weeping or taking pity on me?

 

Where are you going from your deathbed

And leaving me in deep sorrow

Life’s still intact, though winter is dead,

The sky is quite high, and the earth’s quite low.

 

My eyes are dried ‘cause my tears ran dry

Since I spend time to weep.

Although in life there are changes and a good cry

Permanent our love is still deep.

 

Why were they so fleeting the days we were lovers?

You leaned on my shoulder and read poetry.

We, on the beach, were counting over and over

Waves, clouds, stars, and even trees.

 

Time’s gone by, our love followed its way

For two centuries (*) without being distorted.

I know that our love will remain always

Noble and long although life is short.

 

You’ve really gone with a smile of bliss.

I’m weeping when looking at you.

Farewell, my love! Have a parting kiss

Go, go your way! Make your life anew.

 

February 3, 2004

 

(*) From 1944 (Twentieth Century)

to 2004 (Twenty-first Century)

Ha Binh Trung

VĨNH BIỆT, TÌNH ANH!

 Tặng Hiền Thê Đã Qua Đời

 

Em đi! Sầu thảm đất trời

Em đi, đi thật! Tuyết rơi khắp vùng

Gió mưa than vãn lạnh lùng

Khóc Đông u ám hay thương thân này?

 

Em đi về chốn nào đây

Để anh buồn tủi dâng đầy tim côi

Đông tàn, đời vẫn lặng trôi

Trời cao, cao vút, đất thời thẳm sâu.

 

Mắt anh khô cạn dòng châu

Sau bao ngày nhỏ lệ sầu chứa chan

Dù đời xáo trộn, khóc than

Tình ta vẫn mãi vô vàn thiết tha.

 

Ngày âu yếm sao sớm qua?

Đọc thơ, em khẽ dựa bờ vai anh.

Mình từng trên biển đếm quanh

Mây trôi, sao lạc, sóng xanh, cây ngàn.

 

Tình ta theo với thời gian

Qua hai thế kỷ (*) vẹn toàn yêu thương

Luôn cao quý, mãi ngát hương

Đời dù ngắn ngủi, tình trường không phai.

 

Em đi! Thanh thản nụ cười

Nhìn em anh ứa lệ nơi mắt buồn

Vĩnh biệt Em! Gửi nụ hôn

Em qua đời mới. Linh hồn thảnh thơi!

 

Tháng Hai 3, 2004

 

(*) Từ 1944 (Thế Kỷ Hai Mươi)

tới 2004 (Thế Kỷ Hai Mươi Mốt)

Ngô Tằng Giao

chuyển ngữ