Người Gìn Giữ Quá Khứ

Nguyễn Văn Sâm

Tu tập có muôn vạn pháp môn,

chọn đúng pháp môn của mình cần can đảm

vượt qua những khó khăn. (NVS)

1.

‘Bình đã đậy nắp, đổ nước hoài cũng không đầy. Tính chất nóng lạnh của nước, mùi vị của trà trong đó cũng không thay đổi được!’

Vị sư trung niên mặc áo dà, đầu cạo trọc sát, một chút tóc vừa mới lú lú ra trên đỉnh đầu hơi dài hơn những chỗ khác chút xíu, ý chừng được dưỡng theo ý của chủ nhơn, đẩy cửa tăng phòng thiệt nhẹ nhàng, nói với chú Tuấn trong khi bước qua ngạch cửa. Nét mặt sư thanh thản, khác với nội dung câu nói, khiến chú để tâm hơn tới ý nghĩa câu nói và chú ý đến quyển sách cũ kỹ, mỏng tanh mà sư đương cầm trên tay.

Tuấn liếc nhìn cái tựa: Bồ Tát Giới Pháp Diễn Âm. Chú nói nho nhỏ với mình: Sách Nôm, một trong số kinh rất hiếm hoi do người Việt Nam viết và khắc in cuối thế kỷ 19. Chuyện Đức Phật sai Bồ Tát A Nan Đà hóa độ một thái tử nọ đắm mê sắc dục. Thái tử chỉ tu hành một ngày trước khi chết thôi mà vẫn được độ sanh vào miền Cực Lạc.

Mình đã bị sách mê hoặc suốt đời, sư Quán Thông đây còn bị mê hoặc hơn mình. Chú Tuấn nghĩ thiệt mau. Rồi không từ chối cái vẫy tay mời của chủ nhơn tăng phòng chú bước theo qua khỏi ngạch cửa. Sư dặn trong khi vói tay bật nút mở đèn.

‘Xin kéo cửa lại giùm.’ Chủ nhơn thêm cho nhẹ hơn câu sai khiến của mình: ‘Để cho căn phòng ấm cúng vậy mà.’

Chú đưa mắt chung quanh. Bốn tủ kiếng dựa vách đầy sách. Sách cũ xưa Nôm, Hán, sách kinh kệ khắc bản đầu thế kỷ trước, tất cả đều ngăn nắp, ngay ngắn. Chủ phòng mời trà. Cử chỉ chuyên trà của chủ thiệt đĩnh đạc. Trong khi trịnh trọng đẩy chén trà ra trước mặt khách, sư nói chậm rãi:

‘Nói với chú như vậy vì tôi được sư phụ trụ trì khuyên dạy nhiều lần nhưng vẫn chưa bỏ được tánh mê sách, vẫn dùng nhiều thời giờ cho sách vở hơn kinh kệ.’

Khách mỉm cười sau câu nói của chủ, chưa thể góp ý, chỉ đưa mắt theo sự mời gọi của những quyển sách trong tủ.

‘Đó là cái duyên, nói lý thuyết hơn đôi chút là cái nghiệp. Tôi cảm thấy đọc một trang sách mới hay vài chục trang từng được đọc đi đọc lại thú vị hơn là tụng một thời kinh. Tội lỗi của tôi nằm ở đó. Nặng lắm mà chưa biết tính sao.’

‘Như vậy trong những buổi lễ, trong thời kệ kinh thường nhựt thầy đã không chuyên chú, cái tâm viên ý mã của thầy chạy nhảy lung tung không kềm chế?’

‘Cũng không hẳn như vậy.’ Thầy Quán Thông nhẹ nhàng vừa xác định vừa phủ nhận. ‘Chỉ nghĩ về những quyển sách mới vừa trao đổi hay mới thủ đắc, chỉ nghĩ đến những đoạn văn hay những chữ Nôm quá mắc mình vừa mới khám phá cách đọc, những ngữ nghĩa mình mới suy nghiệm, từ đó khám phá ra những ngữ ý mới mà người xưa kèm giấu trong sách. Nói chung, cái tâm mình động vì nội dung sách chứ không vì những thứ khác, kể cả chính quyển sách. Nhiều khi dựa trên đó tôi tự bào chữa mong nhẹ bớt cái tội lỗi mình đã phạm.’

Khách trịnh trọng bưng chén trà lên, đưa cao tận miệng, không cúi đầu xuống, chỉ chu môi húp từ hớp nhỏ, khi trà gần cạn chén, khách đặt lại trên dĩa, thở dài:

‘Thầy để lòng mê sách lôi kéo quá xa. Như một cỗ xe mà người cầm cưong để cho tuấn mã chạy vào con đường cấm. Người trần như tôi thì được. Như thầy thì không. Tu hành!’

Khách cố tình nhấn mạnh hai chữ tu hành nhưng không lý giải gì thêm.

Cái cười gượng gạo điểm pha chút xấu hổ, thầy Quán Thông nhẹ nhàng:

‘Như đã nói với chú, tâm tôi như bình trà đã được đậy nắp rồi, đổ bao nhiêu thêm nữa cũng chẳng vô bình. Bỏ tánh ham quí sách vở để chuyên chú vô kinh kệ nhứt thời tôi đành cáo lỗi không làm được. Người tu hành không ngại hơi thở mình ngừng, nhưng tôi vẫn lo có điều gì thì công việc cho quyển sách lớn đời mình không hoàn thành.’ Ngừng chút xíu thầy nói thêm. ‘Và nhiệm vụ giữ gìn quá khứ không viên mãn.’

Chú Tuấn nói ngay mà không sợ bạn giận. Chú nói trong cái cười nhè nhẹ:

‘Coi chừng cái tâm vọng tưởng về danh tiếng núp đâu đó trong hình thức viết lách cống hiến cho đời.’

‘Cũng có thể là như vậy, cái tâm muốn có danh tiếng biến hóa khôn lường khiến mình không nhận chân được bản lai diện mục của nó, chỉ thấy được biến tướng của nó là lòng muốn viết và sự cố gắng viết như là một lý tưởng cao đẹp thôi. Mà sư phụ tôi thì không vui gì với những sưu tập sách vở và trang viết của đệ tử, vốn chẳng phải là kinh kệ theo đường truyền thống lâu nay.’

‘Thầy nói giữ gìn quá khứ?’

‘Vâng! Giữ gìn sách xưa là giữ gìn quá khứ nếu ta chịu đọc, suy nghiệm từ đó rồi lọc ra những điều hay đẹp để thực hành. Nếu chỉ sưu tập rồi giữ sách cho thiệt nhiều thì là chuyện khác.’

Khách đưa mắt trên một quyển sách đóng bằng giấy bản dầy trên có đặt một cây bút lông.

‘Đấy cũng là một cách giữ gìn quá khứ của tôi…. Chú biết rồi, một phần triệu triệu của phút giây trước đây là quá khứ, một phần thiệt nhỏ của phút giây sau đây là tương lai. Cái giây phút nhỏ nhít gọi là hiện tại có mà không có bởi vì nó sẽ biến mất ngay. Người đời cứ chăm chăm vào cái hiện tại ảo đó mà bỏ quên quá khứ. Tôi trân trọng nó bằng cách ghi lại những gì xảy ra bây giờ. Dĩ nhiên người đọc từ đó sẽ thấy được quá khứ.’

‘Thầy làm công việc của Tư Mã Thiên?’

Có tiếng gõ cửa rụt rè bằng những tiếng nhẹ, rời rạc. Chủ nhơn cất cao giọng nhưng âm thanh vẫn nhẹ nhàng, thân tình:

‘Cửa mở, xin mời vào.’

Một thiếu phụ đẩy cửa bước vô. ‘Con chào thầy, cháu chào Bác!’

Chủ nhân tăng phòng giới thiệu:

‘Nguyên Tịnh, chuyên viên Hán Nôm, người rất thích tìm hiểu về những vấn đề cơ bản của Phật đạo.’

Hai người khách chào nhau.

Một áng mây vẩn đục bay qua trong trí chú Tuấn. Người đẹp thanh mảnh, duyên dáng như vậy đến liêu của thầy, chuyện nầy xốn mắt quá, chú Tuấn trầm ngâm ngó người nầy, đảo mắt sang người kia xong rồi ngước nhìn lên bức tượng Bồ Đề Đạt Ma quảy dép sang sông. Người thiếu phụ ý chừng không quan ngại cái nhìn và những diễn biến trong tâm của chú, cứ thảo luận với chủ nhân tăng phòng về chữ tâm mê, về mấy từ khó hiểu trong các hội 5, 6 của bài phú Cư Trần Lạc Đạo.

Chú mơ mơ màng màng nghe như tiếng thiếu phụ:

‘Tâm mê trần gian coi mọi sự trên đời là thật. Thiệt ra mọi vật trên đời là ảo, chỉ hiện diện một thời gian rồi mất, tan biến vào cõi vĩnh hằng… cũng chẳng có nam nữ, chỉ có linh hồn và tục thân, tục thân hiện ra dưới hình thức nầy kia. Người mạnh kẻ yếu, người kẹp kẻ xấu, người nam kẻ nữ …’

Chú bừng tỉnh khi tiếng giảng và tiếng hỏi ngừng khá lâu. Chú mở mắt thấy cả hai đương nhìn mình ái ngại. Chú hơi sượng sùng, trở bộ ngồi, tự mình lấy lại chút bình tĩnh bằng cách hớp hớp những hớp nước bự trong tách…

‘Chú coi bộ hơi mệt, nên nghỉ ngơi. Mười năm kia ai bị cũng dễ mất sức, bịnh hoạn…. Mấy quyển kinh sách chú hỏi mượn đã được để sẵn trên bàn đằng đó. Cứ yên tâm cầm về xem, đừng ngại. Sách là để đọc, không phải để trưng bày hay làm của.’

Chú Tuấn liếc nhìn vẻ mặt thanh thoát, đẹp đẽ và hai bàn tay thon thả của người thiếu phụ đang chắp trước ngực…

Hình như cái xốn xang trong mắt đời của chú vẫn còn quanh quất, chưa chịu tan biến…..

2.

Tám tháng sau chú Tuấn lại đạp xe đến chùa. Tăng phòng cũ của vị sư bạn đã được giao cho sư khác. Thầy Quán Thông bây giờ dọn vô một liêu phòng nhỏ cất tạm xa xa, trước rìa nghĩa địa chùa. Thầy để tóc như người cư sĩ tại gia. Áo nâu sòng nhưng không phải là áo tràng của người xuất thế. Thầy mời chú vào thảo liêu với cái mỉm cười.

‘Xin mời vào! Xưa Khổng Minh thanh thản ở mao lư, nay tôi ngự thảo liêu thì cũng như nhau thôi.’

Thầy quay lui, ngó ra ngoài nội, cũng vẫn là câu biểu nhờ nhưng lần nầy nghịch lại:

‘Thôi chú cứ đề cửa mở cũng được. Ta hưởng chút khí trời buổi xế chiều.’

Sách vở nhiều hơn và bề bộn hơn. Nhiều quyển mở ra để trên bàn với những tờ giấy nhỏ ghi chú chằng chịt. Nhiều quyển tự điển nầy nọ dầy cộm mở ra có cây viết đặt vào để làm dấu.

Chủ nhân mở đầu:

‘Nay tôi chỉ còn thuần là một phật tử, một cư sĩ tại gia. Sư phụ trụ trì không khuyên tôi hoàn tục, cũng chẳng muốn tôi hoàn tục nhưng người nói tâm tôi đầy sách vở của văn chương chữ nghĩa, tôi lại cứ ghi ghi chép chép nên tâm không có chỗ cho kinh sách nữa, sư phụ không nói tâm tôi như cái bình đầy đậy nắp, nhưng đại khái tương tợ như thế… Tôi hiểu nghiệp mình và nửa năm trước đã xin thầy cho được sống và tu theo lối của mình. Tôi dịch kinh viết bằng chữ Nôm của các thầy mấy thế kỷ trước, tôi nghiền ngẫm những bài phú của vua Trần, những bài thơ của các thiền sư đời Lý. Tôi xa rời kinh Hán tự, Phạn ngữ….’

Ngước nhìn bức tượng Bồ Đề Lạt Ma, chú Tuấn nhớ tới người thiếu phụ trước đây.

‘Thưa huynh, người tín nữ tha thiết đến chuyện tâm đạo tâm mê tôi hạnh ngộ lần trước bây giờ vẫn khỏe?’

Huynh Quán Thông sửa lại thế ngồi, đưa tay rót trà cho khách, ngó mông ra cửa. Ngoài nội bao la lửng lơ vài ba cụm mây trắng trên nền trời trong xanh. Gió làm lao xao cành lá những tàng cây trước mặt.

‘Tất cả các pháp đều vô thường. Biến đổi không cùng. Đời người như những đám mây kia. Như những cơn gió nọ.’

Chú Tuấn nghe như có luồng điện cao thế chạy xẹt từ chơn cẳng lên tuốt trên đỉnh đầu mình. Chú tròn xoe mắt ngó người đối diện nhưng không dám hỏi. Người cư sĩ đóng lại một cuốn sách đương để lật ra trên bàn, đem xếp chung vô với những cuốn để đứng trong tủ kiếng, đẩy đẩy nhẹ những quyển sách khác lại cho ngay ngắn, nói tiếp:

‘Nguyên Tịnh là người chăm chút trau dồi cái tâm của mình, nhưng cũng không lơ là chi mấy với tục thân. Nguyên Tịnh khám bác sĩ riêng hằng tháng suốt mấy năm qua vì bác sĩ là người bà con. Vậy mà 7 tháng trước nghe tin mình bị bướu não. Được khuyên mổ óc lấy khối u ra, Nguyên Tịnh từ chối với lý do nếu phải tới lúc hết nghiệp, phải để lại tục thân, thì chữa chạy cũng vô ích thôi. Đời sống vốn vô thường, cứ để cái vô thường hành sử quyền của nó.’

Lần nữa huynh Quán Thông ngó lên bầu trời. Một vài đám mây khi nãy đã tan, giờ có thêm vài đám mới. Huynh nhớ đến gương mặt của thiếu phụ thông minh có tinh thần tìm học, đã coi nhẹ một trong những nỗi khổ của nhân sinh. Huynh nhắc thêm:

‘Nguyên Tịnh xác quyết với tôi rằng con người mang tiếng khóc ban đầu mà ra, không phải vì đau đớn khổ sở mà là phản ứng của cơ thể để có thêm không khí khi mới thay đổi môi trường bên trong cơ thể mẹ sang môi trường bên ngoài đời. Và Nguyên Tịnh sẽ chứng minh rằng cái được gọi là khổ chót đời của nhơn sinh ai nấy đều sợ xem ra cũng không phải là cái khổ. Nó là một giai đoạn của quá trình. Tới giai đoạn nào thì ta chấp nhận giai đoạn đó. Giai đoạn chót là một phút giây cực kỳ ngắn, chủ thể chẳng kịp cảm nhận, vậy thì nó vô tính, sướng khổ hay gì gì thì là do người ngoài gán cho nó mà thôi. Không phải cảm thức của chính chủ thể.

Chú Tuấn gật gù. Đi ngược lại lời dạy căn bản lưu truyền mấy ngàn năm nay của đấng từ phụ sáng suốt ngàn đời không phải điều chú có thể chấp nhận được liền. Chú rụt rè ngó người đối thoại, nói cho có, vô thưởng vô phạt:

‘Nguyên Tịnh thông minh và can đảm. Không phải dễ dàng có được một người như vậy trên đời nầy.’

Ngoài kia có tiếng ồn ào cãi cọ của dân chúng và những người gọi là giữ gìn trật tự khu phố. ‘Mấy vụ kiện cáo khiếu nại xảy ra hà rầm mấy năm nay mà có ai giải quyết được đâu, miếng đất phía sau của Chùa cũng bị hăm he giải tỏa, sư trụ trì cứ chấp tay Mô Phật hoài chớ biết tính sao bây giờ!’

Huynh Quán Thông nói rồi đưa tay lên nhổ những cọng râu vừa mới nhú nhú ra ở dưới cằm. Hai người ngó vô mặt nhau xong cùng liếc mắt ra đường. Không khí bỗng nhiên nặng nề như đông đặc làm cho người ta phải è ạch thở.

Huynh kéo tủ, mở một cuốn sách ghi chú dang dở của mình ra, chấm chấm đầu bút lông vô nghiên mực Tàu, cầm ngang bút rồi nhè nhẹ gạt gạt đầu bút vô nghiên để mực không đọng trên ngọn, viết tiếp theo trang viết dang dở:

‘Tháng Mười năm nay dân oan thường bị đuổi dạt tan tác, một số nhỏ thoát chạy ngang chùa. Người tín nữ thường đem nước và xôi cúng dường cho họ đã siêu hóa hơn năm tháng nay không còn cúng dường cho họ nữa…’

Huynh ngừng viết hỏi người đối diện:

‘Mà chú Tuấn nầy, chữ dạt ngày nay viết Nôm sao cho đúng nhỉ? Hài thanh với dật, diệt, đạt hay cát?’

Nguyễn Văn Sâm

(Victorville, CA, 20 Dec.2013)

Cám Ơn Người Lính Mỹ

Cám Ơn Người Lính Mỹ                                       
Thơ: Nguyễn Thị Thanh Dương                           
Nhạc: Vĩnh Điện                                                     
Dịch: Trịnh Bình An                                               

Thank you, the American Soldiers
Poem: Thanh-Duong Nguyen
Music: Vinh Dien
Translation: Binh-An Trịnh

 

Bao nhiêu mùa Lễ Tạ Ơn cho vừa
Để tạ ơn người lính Mỹ năm xưa.
Hình ảnh của anh bồng bế những trẻ thơ,
Trong lúc giao tranh trong cơn hoạn nạn
Thắm thiết tình người dù điều đơn giản.
Giữa đạn bom sống chết thật mong manh.
Người dân Việt Nam, người Mỹ các anh
Đã có lúc khổ đau, cùng nhau chia sẻ.

How many Thanksgiving seasons would be enough for us
To thank the American soldiers from those old days?
Pictures of you carrying our children
On the battlefields, in perilous moments,
Were simple things that best defined humanity
When human lives were dangling in the line of fire.
We the Vietnamese people and you the American people
Have once shared the sufferings with one another.

Anh ôm đồm hai tay hai đứa,
Súng kẹp trong tay, chân bước vội vàng.
Cha mẹ chúng chết hay đã bị thương?
Đứa trẻ khóc giữa mịt mờ khói súng.

Under your arms you carried two kids
While holding your gun in fast-paced motion.
Who knew if their parents were killed or injured?
Only their cries were heard amidst gun smoke.

Anh bế nó chạy trên con đường làng vắng.
Quấn cho nó tấm chăn mỏng che thân.
Lội dưới ruộng đồng nước ngập ngang lưng.
Đứa trẻ ấm trên vai người lính Mỹ.

You picked up a child along a deserted country road.
You wrapped his tiny body in a thin blanket.
And while you waded through muddy rice fields
He was kept warm on your shoulders.

Anh bế nó trong căn nhà đổ nát.
Bước qua tan hoang, qua cảnh đau lòng.
Đến một nơi nào tạm trú yên lành.
Giữa lúc hiểm nguy bên ta bên địch.

You picked up a child from a collapsed house
You carried him through the ruins of war
And brought him to a safe refuge
While dangers were all around you.

Anh vác nó đường hành quân vai nặng.
Đi giữa rừng để tới trạm cứu thương.
Đứa bé trúng đạn anh gặp trên đường.
Máu nó thấm trên áo người lính Mỹ.

You carried a child along the battlefield
Into the forest towards a medics unit.
For you found that child with a bullet wound.
And his blood was dripping on your jacket.

Anh đã ngồi với một đàn trẻ nhỏ.
Tay súng chở che trong một chiến hào.
Chúng nằm im nghe súng nổ qua đầu.
Ánh mắt tin cậy nhìn người lính Mỹ

You were in a trench with a bunch of kids.
Your gun being held tight to safeguard them.
They listened to bullets ripping over their heads.
And looked up to the American soldier with trust.

Anh đã cõng những người già người trẻ.
Băng bó vết thương máu chảy thịt rơi.
Họ lạc người thân mỗi người một nơi.
Được anh giúp người lính Mỹ xa lạ.

You carried the old people, the young people.
You affectionately tended to their wounds.
They lost their loved ones in the war.
But got this strange American soldier to turn to.

Có thể hôm nay anh không còn nữa,
Có thể hôm nay anh lẩm cẩm già nua.
Anh không nhớ nữa cuộc chiến tranh qua,
Không nhớ những đứa trẻ trên tay anh thuở nọ.
Nhưng chúng tôi người Việt Nam vẫn nhớ
Khi nhìn những hình ảnh cảm động này.
Thêm mùa Tạ Ơn để nói thêm lời cảm ơn
Người lính Mỹ
Trên quê hương tôi
Lửa khói.

Today you might have passed away,
Today you might have grown too old
To remember the war of those days
And the children you once carried in your arms.
But we the Vietnamese people – we remember you,
Whenever we look at these touching images.
One more Thanksgiving for us to say thankyou
The American soldiers
Who once went to our country
At a time of fire and smoke.

 Sâu Chuỗi  Da  Voi

 Nguyễn Văn Sâm

1.

Sáng nay là tới ngày hẹn, tuần trước Tuấn hứa sáng sẽ ghé nhà thăm ba má tôi và ra mắt Ông Ngoại. Tôi thẹn thùng lí nhí báo tin với má, bà cười hiền không nói gì nhưng từ hai ba bữa trước đã đi chợ hơi sang, thoáng lắm. Tôi biết tánh má, đã sỡi lỡi mà lại cứ sợ người ta chê cười mình bỏn xẻn, không biết cách tiếp khách. Tuấn nói úp úp mở mở là sẽ có món quà cho tôi và cả gia đình. Tôi không trông quà, tôi biết ý nghĩa của thành ngữ há miệng mắc quai nên từ trước tới giờ từ chối tất tần tật mọi biếu xén nầy quà nọ của bất kỳ anh chàng nào. Tôi trông chờ từng phút vì ngại Tuấn mất điểm với  các trưởng thượng trong nhà. Thành kiến ban đầu dễ để lại ấn tượng, tôi muốn ai tới nhà nầy cũng đều được ấn tượng tốt trước tiên. Đó là lẽ công bình.

Thế mà! Anh cứ hẹn nhưng anh đừng đến nhé, để lòng buồn em dạo khắp quanh sân. (Hồ Dzếnh).

Hẹn sáng mà quá trưa anh chàng vẫn chưa ló mặt. Cũng chẳng điện để báo là mình đến trễ. Cha cằn nhằn là cái thằng coi bộ không biết điều chút nào. Hẹn với  hò như thề cá trê chui ống. Tôi  không đủ thời giờ để hiểu coi có sự tương quan nào giửa lời thề cá trê chui ống với hẹn đến nhưng mà đến trễ. Chỉ đi ra đi vô cố tình tỏ ra vẽ thiệt bình thường, cốt để ba và Ông Ngoại không coi đây là chuyện quan trọng. Má thì cứ binh anh ta chầm chập. Nào là ‘Nó có chuyện gì đó quan trọng nên mới vậy.’ Nào là ‘Nó ngại điện thì con lo nầy lo kia bâng quơ nên mới làm thinh. Nào là ‘Chắc có lý do gì đó…’ Bào chữa như là chàng rễ quí đã được chấm điểm xong xuôi không bằng!

Tôi thiệt tình không thích hẹn hứa kiểu nầy, nhứt là có dính dáng tới người trên kẻ trước. Phong cách kẻ cả, coi người khác không ra gì khiến anh chàng chẳng bận tâm giữ lời hứa về giờ giấc với cả người con gái mới quen! Tưởng cái mã hoàng thân đỏ và cái gọi là đẳng cấp đại thiếu gia đè bẹp được lòng tự trọng của tôi chắc.

Tôi ra vườn ngó lên cây ổi say trái đương đong đưa những chùm bự xộn trắng xanh bóng lưởng thấy thèem nhiễu nước miếng. Thời gian qua mau, con người trong nháy mắt đã phải sống theo cái tuổi xã hội của mình, không còn được tùy theo bản tánh nữa. Mới bốn  năm trước tôi còn xắn ống quần nhảy qua mương nước hay lận lưng quần để nhảy cò cò, mấy anh chàng lối xóm đứng xa xa trơ mắt ếch mà tôi chẳng lý gì, cứ việc nhảy, nhảy… Mới hai năm trước thôi tôi còn trèo lên cháng ba ngồi vắt vẻo trên đó cắn ăn ngon lành những trái ổi vừa chín tới. Bây giờ thì chỉ mới ngước mặt ngó lên cây đã bị má la chằng chằng, đành nuốt nước miếng, làm yểu điệu thục nữ lấy lồng mà hái như kiểu tiên nữ hái trăng! Má không biết rằng thưởng thức trái cây bình thường từ chợ mua về hay ai đó hái sẵn rửa sạch, chưng bày trên dĩa coi vậy không thú vị bằng thú được leo trèo, lựa chọn, bấm trái nầy, nghía trái kia, thỉnh thoảng với tay ra thiệt xa ngắt một trái ngon lành nhứt, chùi đại đùa sơ sài vô tay áo rồi cắn một miếng thiệt lớn, nhai ngồm ngoàm…

Tôi cười một mình khi nghĩ tới ý nầy. Nhớ tới nhỏ Thu ưa xù xì với tôi về chuyện lựa bỏ phũ phàng mấy khách tình si của nó: ‘Tao thích lựa chọn, giống như bắt lên bỏ xuống mấy con gà con vịt khi đi chợ, lúc đó mình thiệt thọ là chủ nhơn, là nữ hoàng. Ông gì thì ông, mình nói là họ  tiu ngỉu cụp đuôi như con Cún bị rầy, rồi từ từ biến, giàu cách mấy, đi xế hộp xịn cách mấy thấy không hợp là cho de không thương tiếc quá khứ… Nó thường tâm sự với tôi trong tiếng thở dài: ‘Tao sợ tụi mình rồi ra sẽ ế, dầu bây giờ lúc nào cũng có cả tá đón đưa. Mầy biết tại sao không? Đàn ông ở đây ngày nay sao mà mạt hạng, không rượu chè bóc hốt gà móng đỏ dài ngày tháng cũng đàng điếm lê lết ở các nhà nghĩ sang hèn với bò lạc đường, nai bơ vơ. Không hung dữ ác độc với người cô thế dưới quyền thì cũng ù lì, nhắm mắt sống chết mặc ai, chỉ biết vinh thân cho mình và cái gia đình nhỏ…’ Thấy tôi làm thinh suy nghĩ thường nó chấm dứt bằng một câu nghe quá nhiều tới nhàm tai: Mấy cha nội sống kiểu đó cần gắn thêm cái đuôi với cặp sừng là đủ bộ.

Tôi nghe mà ừ hử cho qua buổi. Nó khắc khe quá chăng? Thời buổi nầy cũng nên  nương  nhẹ chút chút, tiêu chuẩn quá thì ‘quy mã’ may ra mới gặp người vừa ý!

Rồi Tuấn cũng tới, quá giờ cơm chút chút. Tóc tai bảnh bao, người thơm phức, áo quần và hơi thở hôi mùi thuốc lá. Tôi làm mặt tỉnh để coi anh chàng nói gì.

Không có một lời xin lỗi. Chỉ đưa lý do là  phải tranh đấu với hai ba khách xộp khác để thủ đắc được mấy món quà đặc biệt cho tôi. Và phải ghé chỗ thường chịu ơn nhờ vã để lấy hàng cho Ông Ngoại với Ba Má được chuồn từ Kambuchia sang theo đường cửa khẩu Mộc Bài…

Tôi chẳng cần hỏi quà gì cho tôi, chỉ nháy nhó nhắc anh ta xin lỗi ba bậc trưởng thượng trong nhà, họ đương  ngó coi tình hình để đánh giá thí sinh.

Má coi bộ cưng ứng viên nầy nên săn sái dọn cơm và rầy tôi nói lỗi phải gì cho thêm phần hình thức, lo cơm nước cho cậu ấy, trưa quá rồi, khách đói bụng…

2.

Tuấn bước ra chỗ xe đậu, oang oang ra lịnh:

‘Mầy lấy mấy gói hàng mới nhận được ở cửa khẩu khi sáng đem ra đây tao. Sao mà rùa vậy không biết. Rùa như mầy thì cạp đất ăn là phải.’

Anh tài xế lật đật mở cốp sau lục lựa trong đám hàng lỉnh kỉnh những thứ chủ mình cần.

‘Mầy sao ngu tuyệt trần đời, đã nói là thứ mới được trao tay khi sáng chính mắt mầy thấy sao lại phải đi tìm. Hậu Đậu thế! Mầy có tắt nhạc đi không? Làm việc mà mầy để nhạc thì chú tâm sao được!’

Lục lọi, chất chồng rồi thì anh tài xế cũng khệ nệ mang vô lỉnh kỉnh những hộp nầy hộp nọ gói trong những tờ giấy màu sang trọng đẹp mắt. Tuấn đủng đỉnh xách hai chai rượu đi theo sau. Con Cún thấy lùm xùm sủa vang, ba của Thảo phải nạt nó lui ra sau.

Đứng dưới máy hiên Thảo chứng kiến hết mọi chuyện, cô day mặt như là không thấy gì khi Tuấn bước vô nhà, nháy mắt cho Tuấn đưa quà kính biếu Ông Ngoại trước tiên, vậy mà anh chàng cũng lỡ bộ tới sát thiếu điều đụng cô rồi mới quay lại. Ba má mỗi người được hai gói. Thằng Cảnh em trai Thảo được hai chai rượu ngoại. Thảo không mở quà, Tuấn lí nhí nói:

‘Mua cho em chai nước hoa hão hạng, thứ quí nhứt không đụng hàng và vài ba chai kem dưỡng da mà các siêu sao Hàn Quốc thích sử dụng. Hàng chỉ nhập số rất ít theo yêu cầu vì giá hơi khủng…’

Cha mẹ ơi! Nghe mà bắt mệt. Tôi đâu ham hố gì những thứ đó. Tôi cần tấm tình chơn thật và cần con người có giá trị. Nếu hàng tặng quí giá thay thế được con người thì cuộc đời nầy đão lộn hết giá trị, và đâu còn những mối tình trong sáng đáng ca ngợi nữa…

Ông Ngoại đuợc hai sâu chuỗi da voi với một cái sừng tê giác. Cha Thảo được một chai lớn bự xộn rượu thuốc hão hạng ngâm rắn mãng xà … MáThảo có mấy hộp yến huyết, vài hộp vi cá Bắc kinh và ba bốn hộp sửa ong chúa. Cả ba người nhận quà, mở quà theo phép lịch sự nhưng khi thấy vật được tặng thì không có bất kỳ ánh mắt thích thú ở một ai dầu là cái cười gượng gạo và lời cám ơn ngoại giao cần có. Thằng Cảnh vui nhứt. Nó rủ rê ‘ông thí sinh anh rễ’ ra ngồi riêng để chén chú chén anh khai trương chai rượu mà nó nói là thứ hàng độc của đại gia không phải ai cũng có cơ hội thưởng thức.

Được một chập, chừng hơi sừng sừng, Tuấn bưng ly rượu tới trước Ông Ngoại cúi chào lễ phép:

‘Thưa Ông, cháu kính chúc Ông sức khỏe và trường thọ.’

Ông lão đưa tay bưng ly, cố gượng đứng dậy, ngước cao mặt lên trời:

‘Được vậy thì quí hóa. Mấy năm học tập trong rừng, sức khỏe tôi hao mòn gần tới cuối dốc. Bây giờ được như vầy cũng nhờ ơn Trời. Cám ơn cậu nhiều.’

Người đối diện hơi tiu ngỉu nhưng chuyển đề tài thiệt lẹ:

‘Cháu biết vậy nên chọn thứ cần cho ông. Sừng tê giác mài uống khi cảm thấy mệt sẽ điều hòa tim đập loạn nhịp. Chuỗi hột da voi ngoài giá trị trang sức còn trừ được nhiều bịnh tật như cao máu, bổ thận, cường dương, ngăn ngừa ung thư…’

Ông Ngoại chêm vô không cho đương sự nói hết ý:

‘Da voi thì cũng như da trâu da bò thôi, chỉ có điều là voi lớn con nên da nó dầy hơn, làm sao mà trừ được nhiều bịnh nan y như vậy? Còn sừng tê giác nữa, bất quá như sừng trâu sừng bò thôi, cũng là sừng thú, cấu tạo cùng một chất… Tụi con buôn bày đặt bày điều lừa gạt người nhẹ dạ mà làm giàu thôi.’

Để chửa quê độ, Tuấn uống cạn ly của mình, xua tay phân bua, cười  mơn:

‘Thiệt đó ông, nhiều người đã dùng rồi lên tiếng xác nhận hiệu nghiệm vô cùng đó ông. Bởi vậy chuỗi da voi bên Miến Điện bán đắc hàng lắm, cả trăm đô một chuỗi. Đem về đây tốn thêm tiền di chuyển, chung chi, bôi trơn và giao tiếp nầy nọ nên giá thành 8 tới 10 triệu. Dân chạy hàng đem về bao nhiêu cũng hết. Kỳ nào cũng cháy hàng. Toàn là đại gia dùng thôi. Cháu có máu mặt nên giành mua được chỉ có mỗi bốn chuỗi cho gia đình Thảo, chẳng có vòng nào cho bố của cháu.’

Ông lão, ngồi xuống, hơi thở mạnh, trả lời nhẹ nhàng nhưng quyết liệt:

‘Thôi  tôi không đeo thứ vòng tiên đó đâu. Giá trên trời! Tôi mà mua vòng đó thì  không mang bị chín quai cũng bị chúng níu.’

Tuấn ngó sang Thảo cầu cứu vì anh thiệt sự không hiểu ông cụ nói gì. Thảo cứu bồ:

‘Ông nói vòng nầy mắc tiền quá, ông mua thì nghèo mạt rệp, nếu không đi ăn xin thì cũng mang nợ.’

Tuấn cười ruồi:

‘Dạ đâu có ông, cháu mua tặng ông, hai  bác và Thảo… Ông biết không, muốn có da  voi để làm vòng nầy, bọn săn voi sẽ đi từng nhóm 5, 6 tên với đầy đủ thức ăn, lặn lội trong rừng già cả tháng, họ lần mò đến nơi thường có đàn voi đi qua, đứng xa xa rồi dùng súng bắn kim bơm thuốc độc nhắm vô chừng 1, 2 con là đủ cho chuyến. Thuốc thấm, con voi cũng đi được theo đàn nhưng dần dần chậm lại vì sự đau đớn càng lúc càng tăng, cả đàn thỉnh thoảng đứng lại chờ. Chừng ba bốn ngày thì nó mệt lã, rú lên những tiếng rú vang dội khắp cả khu rừng nghe thảm thiết lắm, cuối cùng ngã xuống chết. Đàn voi thương tiếc bạn, lẩn quẩn kế bên lấy vòi khều khều bạn chừng nửa ngày rồi cũng bỏ đi.’

Những người trong nhà mở tròn mắt, vảnh ngược tai. Người kể vẫn còn hào hứng:

‘Họ đợi đàn voi tới con chót đi khỏi mới tới bên con voi xấu số, lạn  lấy lớp da sần sùi dầy cộm của voi, lạn được càng nhiều càng tốt, vì đem về là tiền nhưng da thì nặng mà đường rừng thì nhiêu khê. Có khi lại gặp cướp…. Đem về họ rửa sạch, cắt ra từng sợi bằng ngón tay cái, sau đó cắt thành hình khối vuông như cục xí ngầu, rồi cho qua một quá trình tác dụng hóa học ít người biết, xong cắt đẻo thành những viên đạn lớn nhỏ tùy theo nhu cầu. Giai đoạn sau cùng là đánh bóng để thành ra những viên có màu huyết dụ, rồi kết thành các chuỗi hạt để người mua đeo vô cườm tay, trị bịnh… ’

Thấy cả nhà trầm ngâm sau câu chuyện kể hào hứng của mình, Tuấn tiếp, chửa lửa:

‘Để có được những thứ thuốc tiên kia, một số con vật bị chết oan, nhưng mà ông bà mình đã nói vật dưỡng nhơn, trời đất sanh ra thú vật là để nuôi sống con người.’

Cả nhà im lặng thêm chừng năm mười phút nữa. Thảo biết rằng họ không muốn phát pháo mở đầu một cuộc tranh luận  sẽ không có điểm kết thúc nên ngậm miệng làm thinh.

Cảnh ngồi hơi xa, hỏi vọng tới để phá tan bầu không khí nặng nề:

‘Giết voi để lấy da, họ có lấy ngà không?’

‘Sao lại không? Bịnh sao bỏ! Họ dùng cưa máy, cưa cặp ngà, họ tranh nhau vặt lông đuôi bỏ vô túi.’

Cô gái độc nhứt trong nhà bụm miệng hỏi qua kẻ tay:

‘Để làm gì vậy?’

‘Lông đuôi voi kết thành nhẫn đeo tay trừ tà ma và đem lại điều hên cho người đeo! Bỏ theo trong bóp cũng có tác dụng tốt tương tợ.’ Tuấn vừa nói vừa đưa tay ra túi sau  như lấy bóp trình làng.

Ba của Thảo bây giờ mới lên tiếng đồng thời với cái xua tay:

‘Thôi khỏi cần chứng minh! Bày đặt! Bày đặt lòi đuôi! Tụi con buôn đặt điều xạo rồi tuyên truyền cho người nhẹ dạ tưởng thiệt. Cuối cùng không chỉ là voi mà cả hùm beo, tê giác, heo rừng, gấu, yến, dơi, rắn rùa, ba ba, cá voi, cá mập… đều bị chết do lòng tham lam và ham sống của con người.

Thữ nghĩ nếu  mấy con thú đó  có khả năng đem  tới cái hên cho người, thân thể nó đem lại sức khỏe cho con người thì chúng đã là thần, chúng sống dai có đâu bị loài người giết hại tới gần tuyệt chủng…’

Anh chàng Tuấn chống chế trong tuyệt vọng:

‘Thiệt mà bác, cả bao nhiêu nước ở Á Châu nầy đều tin chuyện đó. Người Trung thì càng tin nhiều hơn.  Bao nhiêu  chuỗi, bao nhiêu sừng tê giác, cả tấn yến huyết, vi cá… đem về đều hết…’

Má của Thảo nói với con gái:

‘Má không đeo vòng da voi đâu! Chịu! Nghe kể mà thương  bầy voi, thương mấy con nầy con kia quá. Mình muốn tốt, muốn sống sung sướng mà giết hại chúng nó thì là quá tàn nhẫn…’

Ngừng một chút, như để lấy lòng người tặng quà, bà tiếp:

‘Có lẽ má dùng yến huyết, nghe nói đó là thứ bổ hảo hạng. Với lại đó là nước miếng của chim yến,  lấy tổ của nó người ta chẳng cần phải sát sinh như các trường hợp khác.’

Người chồng lên tiếng bát ý kiến vợ:

‘Bà nói vậy mà nghe được! Bà biết không, tổ yến làm bằng nước miếng của yến với lại lông của nó. Lấy tổ nó thì nó phải khạt nước miếng ra nhổ lông mình để làm tổ khác. Khạt hoài thì nó chảy máu cổ rồi có thể rủ ra chết… Nghĩa là  ăn tổ yến cũng là giết yến. Một cách sát sinh…. Mà nói cho bà nghe nha: Yến huyết chẳng có nhiều đâu, bọn con buôn bỏ phẩm màu làm như máu yến đó. Yến nhỏ hí, có bao nhiêu máu mà họ bán đầy trời yến huyết từ nước nầy qua nước khác.’

Thấy bạn bị đì quá, Thảo kêu em cứu bồ, kéo bạn mình trở lại bàn nhậu hai người bỏ dở nảy giờ. Những tiếng vô … vô điếc tai thỉnh thoảng lại vang lên. Mỗi lần nghe Thảo đều nhăn mặt. Tuy không chú ý nghe đề tài họ trao đổi, thỉnh thoảng cả nhà đều nghe Tuấn và Cảnh nói nầy nọ nào là xả lủ đúng quy trình, nào là ngập lụt xứ nào chẳng có, nào là ở Phi Châu ở Trung quốc họ còn tham những gấp mười, ở Mexico chánh quyền giết  cả mấy ngàn người để bịt miệng….

Những ánh mắt thất vọng được trao đổi nhanh, thầm lén….

3.

Sau khi Tuấn ra về chừng cả tiếng đồng hồ gia đình nhỏ chúng tôi năm người mới trở lại bình thường. Ba lên tiếng trước tiên:

‘Cái thằng ma lồi nầy tao coi bộ không được.’ Ngó thẳng vô mặt tôi ba tiếp: ‘Bây giao thiệp với nó thì coi chừng. Thứ đội trên đạp dưới. Thứ ăn tươi nuốt sống con nầy vật kia  để bổ máu, cường dương thì sau nầy bây bị nó nhai xương cái rột khỏi cần chặt khúc nấu nhừ.’

Tôi xụ mặt bỏ xuống nhà dưới nhưng đã quyết định rút lui từ cả giờ trước. Lấy anh ta thì tôi phải làm thêm nhiệm vụ giúp anh chống lại lòng ích kỷ của anh. Con người mà! Chống lại lòng ích kỷ của mình đã khó, làm sao tôi có thể cưu mang thêm một nhiệm vụ nữa? Lấy anh ta là tự nhiên tôi đeo cái vòng kim cô trách nhiệm hòa hợp giửa con người chỉ biết mình của anh với lòng nhân từ đạo đức bình thường của gia đình tôi. Trời Phật ơi, mới nghĩ tới tôi đã thấy ngộp.

Ông Ngoại chậm rãi hơn:

‘Tao không khuyên đừng, cũng không khuyến khích. Tao chỉ nhận xét là thằng nầy mê muội lắm. Ỷ có tiền, nó xài vung tay. Nghe ai thuốc nước món nào quí, món nào bổ là nhào vô. Mà mấy món sừng tê giác, chuỗi da  voi, yến huyết thì nói thiệt mà nghe, cũng như đông trùng hạ thảo, cũng như sửa ong chúa hay tế bào gốc chỉ là đồ xạo. Tin họ thì hết tiền, thì  tật mang, thì bị dán cái bảng NGU to tổ chảng trên trán…’

‘Mà nghe nó kể chuyện giết voi,  săn tê giác với phương châm vật dưỡng nhơn sao tao thấy tiếc điểm với nó quá!’ Ông cười lớn vui  tới bắt ho, nói trong từng tiếng ho đứt khoảng:

‘ Tao.. tao…tao cho …dưới … dưới …điểm loại…’

Cả nhà cười ồ. Cảnh đứng đậy cái rột, tới trước mặt ông Ngoại, đỏ mặt giơ lên chai rượu còn nguyên và cái nón bảo hiểm của dân đi mô tô ở Mỹ:

‘Ông Ngoại ghét anh ta thì nói vậy, chớ riêng con thì con chấm đậu. Anh Tuấn cho con rượu đã đành. Anh ta còn hào sãng tặng con cái nón nầy. Mua bên nây làm sao có? Thấy đẹp con khen là anh ta phóng tay cho ngay mà còn kể về thành tích tại sao có cái nón đó.’

Má vừa dọn dẹp vừa nói:

‘Đâu con kể thành tích nó coi được không!’

‘Anh Tuấn khôn lanh lắm.’

‘Đã biểu kể mà ở đó kà kê dê ngỗng hoài. Anh Tuấn, anh Tuấn hoài thấy bắt mệt. Kể lẹ đi để má còn dọn dẹp nhà cửa.’

Cảnh lấy cái nón bảo hiểm, giơ lên cao lần nữa:

‘Nón nầy do hãng Davidson Motor bên Đức sản xuất cho người đi mô tô. Vậy cho nên rất chắc, té mạnh mấy cũng không bể. Một bữa kia ảnh thấy ông Việt kiều nọ chạy xe máy, đội nón nầy. Anh rà theo, tới chừng ông ta đi gởi xe, gởi luôn cái nón thì anh vô thương lượng với tên giữ xe kêu nó bán cái nón với giá 4 triệu, dặn nó sau đó nói với ông Việt Kiều rằng chỗ gởi xe không chịu trách nhiệm  nón áo… cho nên mất rồi. Việt kiều lớ ngớ bực bội  lầu bầu  một lúc rồi thì cũng  bỏ đi chớ làm gì ai. Cả nhà coi anh ta khôn lanh  quyền biến không?’

Má nói sau cái chép miệng:

‘Khôn lanh kiểu đó sao tao ớn tới cần cổ. Chỉ có mình mầy thích vì ‘còn nó còn những món quà cho mầy, hết nó thì mầy bơ mỏ. Cho nên mầy xắn tay áo bảo vệ bất kể trật trúng.’

4.

Tôi bỏ ra vườn. Trên nhánh ổi cao hai con chim chìa vôi nhảy qua lại thiệt là thanh bình trong khi lòng tôi lăn tăn gợn sóng. Hình như từ đây tôi sẽ không được như chúng một thời gian dài. Cuộc chia tay nào chẳng có lý do hữu lý. Nhưng chắc chắn đoạn cuối cuộc tình nào cũng phảng phất một chút u buồn dầu mình là người quyết định chấm dứt. Không thể  nói dễ dàng như nhỏ Thu nhưng tôi sẽ nói.  Anh chàng Tuấn nầy mánh mung và máu lạnh. Tai tiếng như âm thanh xì xào của buội tre làng làm sao chận được? Như phấn hoa gió thổi  bay tràn lan trong không khí, tay nào chụp bắt cho hết? Rồi cả nhà sẽ gánh nhuốc lây… Ngày mai tôi sẽ đổi số điện thoại. Và sẽ chẳng bao giờ mở gói quà vừa nhận khi nảy.

Ngoài kia dòng sông Cổ Chiên chạy qua chợ Bãi Vàng vẫn lặng lẽ trôi chảy. Những con đò xuôi ngược đầy người trên đường ra chợ hay trên đường từ chợ về, thỉnh thoảng con đò máy Bãi Vàng – Hòa Minh ghé bến trước nhà đổ xuống từng đoàn người cười cười nói nói. Có ai biết được tâm tình của tôi!

Buồn ơi chào mi! Ta thả mi xuống dòng nước, hãy trôi ra cửa biển tới tận ngoài Cồn Ngao nha,  xa hơn nữa càng tốt, như  những ngày thơ ấu ta thả thuyền giấy xuống con sông tuổi thơ nầy và van vái nó trôi ra thật xa, biền biệt….

Nguyễn Văn Sâm

Victorville, CA, Oct., 2017

(Tháng 10 nhớ lại tháng 10 sống ở Trà Vinh 1978 lo chuyện đi xa.)

 

Ếch & Báo – Dòng nhạc phản kháng

Trịnh Bình An

Ếch và Báo là tên của hai ca sĩ có tên Young H và B Ray. Họ là hai bạn trẻ tuổi chưa tới 30 đang sống tại Việt Nam.

Những ngày cuối năm 2015, người ta nghe được bài nhạc Rap vang lên từ soundcloud.com – bài “Ông Can”. Ngay lập tức Ếch và Báo nổi tiếng!
Họ nói ông CAn đang thi hành công vụ… chứ không phải là gây án mạng,
Theo ông CAn thì đời mày sáng lạng… còn mày không theo thì đời mày gián đoạn.
Ông CAn nói mà mày không nghe… thì chân không què mày cũng phải gánh nạn.
Nên dân ở đây tất cả thật sự là họ yêu ông CAn như là yêu… tánh mạng.

Ông CAn ở khắp cả mọi nơi…Ông có thể nghe và thấy hết được mọi chuyện,
Ông luôn có mặt trong tất cả những cuộc chơi … từng con người được nổi tiếng.
Và ông đứng sau tất cả những cuộc giao dịch, mỗi chuyến hàng, mỗi khi cần bàn bạc “công chuyện”!
Một tay ông CAn khiến cho cả nhà phải chết…khiến vàng bạc bỗng mất hết… mà không cần nhờ tới Luyện (*)

(*) Lê Văn Luyện – một thanh niên 18 tuổi – đã gây án mạng tại tiệm vàng Ngọc Bích ngày 24/8/2011. Luyện chém đứt tay bé gái chỉ mới 8 tuổi và giết chết vợ chồng chủ tiệm cùng con nhỏ 18 tháng tuổi.

Không khó thấy lý do tại sao bài hát này nổi tiếng.

Thứ nhất, “Ông Can” ở đây, không ai khác chính là lực lượng công an của chế độ Cộng Sản Việt Nam. Cách mô tả nghe khôi hài nhưng rất chính xác. Chữ dùng được khéo léo sắp đặt vần điệu theo thể loại nhạc Rap, tạo nên tiết điệu mạnh mẽ đặc biệt của loại nhạc này.

Thứ hai, trong bài hát có chen vào những câu chua cay chế diễu “Cha Già Dân Tộc”:

Ai yêu ông CAn hơn các em nhi đồng…
Đi ngang qua ông CAn không biết có… bị cái gì hông?

Câu trên phỏng theo lời câu hát “Ai yêu bác Hồ Chí Minh hơn các em nhi đồng”. Còn câu dưới nhắc tới “sự nghiệp” dâm ô của họ Hồ với rất nhiều phụ nữ và trẻ em gái.

Ca khúc “Xin Hỏi Anh Là Ai?” năm 2011 của Việt Khang đã được coi là bài hát vạch mặt những gã “côn an” tàn bạo của chế độ. Bài hát theo giai điệu của một ca khúc thông thường nên chữ dùng không thể vượt qua những giới hạn âm thanh tiếng Việt. Dĩ nhiên điều này không làm bài hát giảm giá trị và xúc động.

Nhưng tới “Ông Can” thì giới hạn chữ và dấu không còn là rào cản. Thể loại Rap chỉ cần những chữ cuối câu vần với nhau, còn nhạc điệu hoàn toàn tự do; điều này giúp tác giả thoải mái thể hiện.

Có thể nói “Ông Can” là một bản văn vạch trần sự thật về công an cộng sản một cách nghệ thuật và… khôi hài.

Khôi hài là một trong những tính chất quan trọng trong nhạc Rap.

Một bản nhạc Rap thành công thường làm ta mỉm cười với những ví von ngộ nghĩnh .

Ví dụ ca khúc “Bố Em Là Cán Bộ”, cũng của Ếch & Báo

Bố Em Là Cán Bộ

Cửa nhà em sao anh vô… khi mà bố của em là cán bộ.
Anh dùng phong bì để gửi em thư tình… bố em dùng để bỏ vào tiền đô.
Tường nhà em xây cao có cây sắt… nên giữa hai ta luôn có rào cản.
Ông nội anh ngày xưa theo quân gian… nên anh đâu có thể nào vào đảng.
Và nếu một khi mà ba em đã phán… điều lính tới bắt anh đâu thể phản kháng,
Nhà anh còn mẹ già và em ngoan… nên thân không thể dính thêm bản án.

Nhạc của anh toàn báng bổ … còn bố của em là cán bộ.
Nhà anh nghèo nhất khu phố… vì ông cha ngày xưa là phụ hồ.
Tiền bố em thì thu vô xe… trong nhà chứa không đủ chỗ.
Vàng đem cất cho đủ số… dùng để bịt miệng gửi về cho Thủ Đô.

Lấy cái phong bì thư tình để bỏ tiền đút lót thì đúng là cười… ra nước mắt!

Mời nghe thêm một bài hát khác của Ếch& Báo: “Ông Lớn Về Làng”. Được coi là bản nhạc Rap nhiều người ưa thích nhất năm 2016.

Bài hát viết như đang kể câu chuyện dân gian với hình ảnh tên quan lớn khệnh khạng trước đám dân làng ngơ ngáo.

Ông Lớn Về Làng

http://www.nhaccuatui.com/bai-hat/ong-lon-ve-lang-young-h-ft-b-ray.Y96wiMh6oGjn.html

Có chiếc thuyền đánh cá… bị cướp bởi chiếc “tàu lạ”.
Từ ở ngoài khơi xa… thuyền trưởng gọi điện về nhà.
Báo lên cho quan thì ngại… báo lên ông CAn bị la.
Ai cũng ừ cho qua… nhưng mà đéo có ai làm gì cả!

Ồ wao, dân làng thích ngồi ngó rồi xôn xao… về một đôi nam nữ ngồi hôn nhau.
Nên đã quên đi hết về hòn đảo… cũng là đất của mình nơi cắt rốn và chôn nhau.
Ô wao, ông ăn dầu ăn mỏ nên ông no… dân đen khổ ăn cỏ quan trên cho.
Dân làng nhỏ ông bỏ ông không lo… ông chỉ một suy nghĩ làm cho bụng ông thêm to.

Bài hát gói ghém trọn vẹn thảm cảnh các tầu đánh cá của ngư dân Việt Nam thường xuyên bị tàu Trung Cộng tấn công nhưng quan chức cộng sản chỉ phản ứng qua quýt; trong khi đó đại đa số người dân thì thờ ơ vô cảm, chỉ chú ý tới những chuyện “cướp, giết, hiếp”, để mặc chuyện đất nước lèo lái trong tay các lãnh đạo.

Ông kéo theo hai xe vàng… Ông nói ông nhỏ cũng được chia ở trên bàn.
Ông nói không khó để bịt miệng được dân làng… ông muốn đổi đảo với số vàng ông mang sang.
Dù ở ngoài khơi xa ông đã đóng chiến hào… còn trong ao làng ông đưa lính đến đào.
Đồ ăn ông lớn cho hoá chất với màu… ông nói như thế để phát triển chiều cao.

Mạng mình là mạng bỏ, làng của mình là làng nhỏ.
Bức tranh mang thờ mà làng có, là của ông cho… có sao và vàng đỏ!
Thảm trải một hàng đỏ… ngày ông tới tui chuẩn bị từ lâu.
Từ các bô lão, phú hộ, cho đến ông CAn, cùng nhau ra bến để đón… ông đến thăm làng từ Tàu!

“Ông Lớn Về Làng” đã đưa sự phê phán lên tới cả đám lãnh đạo cộng sản, chế diễu tới lá cờ cộng sản, và không ngừng ở đó, chỉ thẳng ra cả đám tay sai CSVN không ai khác mà chính là bọn tay sai Tàu Cộng.

Kéo liền theo nỗi nhục bị Trung Cộng ngang nhiên uy hiếp là hiểm họa cá chết trắng biển.

Sự kiện cá chết hàng loạt tại vùng biển Vũng Áng do nhà máy thép Formosa xả chất thải đã dấy lên làn sóng phẫn nộ của người dân. Nhiều ca khúc được sáng tác vào thời gian này bày tỏ nỗi căm phẫn ngút trời. Ếch & Báo có bài “Cá Thép”.

Cá Thép

Tao chỉ mong bữa ăn có dĩa cá… còn sắt thép thì để tụi mày ăn.
Đem chất thải tụi mày về thoa da… nhớ đem luôn xác tổ tiên dưới Bạch Đằng.
Biết bao năm làng tao đã chịu khổ… giờ chỉ mong được vươn mình tỏa sáng.
Thấy cá chết tụi nó cũng không màng… dân làng mong câu trả lời được thỏa đáng.

Nước đầu nguồn thì mày chặn… cá thì mày cho chết trắng.
Lấy cái gì làng tao ăn… hay ăn thịt mày hả mấy thằng chó cắn.
Chịu cay đắng ông cha tao ăn bom… đâu phải bây giờ để dân tao ăn thép.
Vùng biển là của làng tao… tại sao đi vào tụi tao phải xin phép.

“Tao” là ai? “Tụi mày” là ai?

Ở đây, chữ “Tôi” và “Anh” như trong bài “Xin hỏi anh là ai? Sao bắt tôi tôi làm điều gì sai?” được hai nhạc sĩ trẻ thẳng tay quăng sọt rác. Không lịch sự nữa, tới lúc cần làm cho rõ, với bọn quỷ dữ phải gọi đích danh là “tụi mày”!

“Tụi mày” là bọn Tàu Cộng, những kẻ Đảng CSVN đang cun cút cúi đầu tuân phục.

***

Ếch và Báo không là những rapper duy nhất đã dùng nhạc Rap bày tỏ sự nhức nhối, đau xót của những người trẻ Việt Nam trước cái xã hội bất công, thối nát mà họ đang phải sống.

Bài hát “Hai Thế Giới” của rapper Wowy và Karik mô tả sự phân cách giàu nghèo đến cùng cực trong khi đám lãnh đạo ra rả hô hào tiến lên xã hội “công bằng – dân chủ – văn minh”

Anh lớn lên từ đường phố… chỗ xe hơi không có đường vô,
chỗ công nhân ăn mày bằng xô … mỗi khi mưa xuống hứng nước bằng tô.
Chỗ em gọi là căn hộ… còn chỗ anh họ gọi là ổ.
Thế giới anh xài tiền Việt… còn thế giới em xài tiền Đô.

Đơn giản anh không thừa tiền… không giàu có giống như đại gia.
Không thể quen sáu bảy người cùng lúc… và xem họ như món hàng đại trà.
Vì anh không nhiều của cải… anh không có nhiều gia tài.
Anh không đủ sức cho em tiền xài… như thằng công tử phố núi Gia Lai (*)

(*) Tập đoàn Hoàng Anh Pleiku – Hoàng Anh Gia Lai nổi tiếng về các đồn điền cao su.

Bài hát “Đôi Khi” (rapper Karik, Nah và Boo thể hiện) là câu chuyện xót xa, tủi nhục của những cô gái Việt thời đại Sản, còn đau đớn hơn thân phận nàng Kiều dưới chế độ phong kiến .

“Đôi Khi”

Hằng đêm… khi thành phố vừa lên đèn.
Em lại lê bước ra những chỗ đứng… thường ngày như một thói quen.
Lao mình vào những khách sạn… tự biến mình thành món hàng.
Ra về cầm tiền trong tay… nhưng chưa một lần em được thanh thản.

Đôi chân cứ chạy… rồi lại dừng… dừng rồi lại chạy.
Tìm hoài một chỗ nương tựa cho đôi vai gầy… nhưng sao vẫn không thấy.
Hoàn cảnh cứ đưa rồi lại đẩy… ai muốn đẩy thì em đưa.
Tất cả chỉ vì chén cơm ba bữa… em không có quyền chọn lựa!

“Việt Nam Lạ Lắm” của Sendol so sánh lãnh đạo cộng sản như cai’ đầu rắn gian giảo.

Nước không thể lớn khi nước như rắn… mà chỉ là rắn mất đầu.
Vì đầu của rắn không lo cho thân… trong khi cá nhân rất ngầu.
Đầu rắn suy tính nuốt trọn thức ăn… rồi đổ hậu quả đằng đuôi.
Chẳng thông qua thân vì đầu cho rằng thân… không có mắt khác gì thằng đui.

Cầm đầu có quyền quyết định… nếu không nghe phải lột da.
Chơi trò bịt mắt… thân phải im lặng… cấm làm cho đầu nhột ha.
Chúng ta nhỏ bé yếu ớt ít ỏi… nên đành nuông chiều “rắn lạ”.
Thân nghĩ nó to nó khỏe đến thế… thì mình có cửa thắng a?

“Thiên Đường Kỳ Cục” cũng của Sendol.

Tác giả tâm sự: “Vẫn châm biếm những gì cảm thấy đang hiện hữu không tốt trong xã hội bây giờ, cũng như để nhắc nhở mọi người và chính mình.”

Có một anh tự là Việt… chơi thân với một ông tên Trung.
Được chở che, nên biết ơn… đóng bốn chữ vàng treo lên khung.
“Mấy đứa nhỏ” bèn thắc mắc… Anh nói: “Ơ mấy thằng này khùng!
Không chơi với nó làm sao yên ổn… “made in china” ở đâu mày dùng?”

Bắt cóc giật đồ dàn dựng công khai… đa cấp lừa đảo có đội ngũ.
Chen lấn xếp hàng… mê tín dị đoan… trăm thói xấu tụ hội đủ.
Vạn tiến sĩ được tạo ra… không một sáng chế… mà muốn phát triển.
Phá hoại thiên nhiên… đến lúc ngập lụt chắc múc từng gáo tát biển? haha

Và chắc chắn sẽ thiếu sót nếu không nhắc tới bài Rap “Địt Mẹ Cộng Sản” của rapper Nah – Nguyễn Vũ Sơn từng tạo được sự chú ý của người trong nước và hải ngoại:

Tao không vào địa ngục thì ai? ĐMCS
Muốn thay đổi đất nước là sai? ĐMCS
Mày dám bán đất đai tổ tiên. ĐMCS
Giết người, bịt mắt, bịt miệng. ĐMCS
Thảm sát đồng bào tại Huế. ĐMCS
Tao đéo chịu làm nô lệ. ĐMCS
Tụi mày sẽ sớm bị lật. ĐMCS
Tất cả sẽ biết sự thật. ĐMCS

***

Trở lại với hai rapper Ếch & Báo, có thể nói một cách ngắn gọn, với giai điệu mạnh mẽ, đa dạng với ngôn từ thông minh, mạnh bạo; đi kèm với giai điệu mạnh mẽ, đa dạng đã khiến cho những bản Rap của họ đã được các bạn trẻ hưởng ứng nồng nhiệt, “Chân Đất” là một ví dụ .

Đôi chân đất tụi tao là chân thật … Cản bước tụi tao là quân lực.
Đôi chân đất tụi tao là chân thật … Đất mày cất đem cho người thân mật.
Đôi chân đất tụi tao là chân thật… Đất đất đất tụi tao là đất thật,
Đất đất đất tụi tao là đất thật… Còn đất đất đất tụi mày là đất mất.

Sống mà không thể có đức… Sống thời nay phải có chức.
Nhưng lương tâm luôn hỏi câu khó nhứt.
Đất đai tổ tiên để lại nó có mắt… Nhưng một tấc đất không đổi một tấc vàng.
Con đường đến trường hôm nay sao lạ quá… Thầy cô vào lớp dạy con bằng tiếng Hán!

“Tấc đất, tấc vàng” đó là câu tục ngữ ông cha để lại, khuyên dặn cháu con nhớ siêng năng làm lụng. Nhưng chua chát thay, các cán bộ Đảng đã thực hiện lời khuyên ấy theo cái cách thô bỉ nhất: đem bán đất cho ngoại bang để lấy vàng bỏ túi. Giờ đây, những bạn trẻ như Ếch và Báo nhìn rõ lòng tham gian xảo, và họ lên tiếng khẳng định không thể đổi đất lấy vàng, dù một tấc đất cũng không.
***

Tới đây, nếu bạn như tôi, sẽ bắt đầu lo ngại cho số phận hai bạn trẻ này?

Đừng nghĩ họ không tưởng tượng ra cái… cảnh ấy.

“Súng Chĩa Vào Đầu”

Khi súng chĩa vào đầu… Súng chĩa vào đầu.
Khi mà súng chĩa vào đầu… Súng chĩa vào đầu.
Mày sẽ bước tới ngay miệng súng hay lòng tự ái mày vô cầu tiêu?
Có ai chĩa súng vào đầu mày hay là vì bản tính mày là điêu?

Hold on, khi mà súng chĩa vào đầu thì mày có ngước lên nhìn nó,
Shiittttt, tao cá mày bỏ chạy khi bạn gái mày bụng phình to,
Ông chủ gõ cửa gọi tiền nhà,
Ông CAn kêu im nếu mày không muốn phiền hà,
Ông địa còn không đất để ở,
Cửa lỡ quên chút để mở… Ông quan vào cuớp rồi buớc ra.

Bài hát được điểm xuyết bằng tiếng súng lên đạn nghe rợn người.

Nhưng cho dù điều đó xảy ra, thì Ếch & Báo vẫn khẳng định:

“Tụi tao còn sống tụi tao còn chống đến khi LAST MAN DOWN”.

“MAN DOWN”
Tao nghe nói là lệnh truy nã in tên tụi tao.
Tao nghe thấy trên tai ngoài đường là Ếch và Báo.
Tao nghe nói tụi tao đang cứu sống Underground.
Tụi tao còn sống tụi tao còn chống đến khi LAST MAN DOWN

Báo động, dân làng ơi báo động.
Đêm hôm qua tổ tiên về báo mộng.
Ngoài biên giới có mấy thằng giặt đang tính đường vào trong.
Cùng bắt tay mấy ông trong làng giết không chừa thằng nào sống.

Anh em tao sống với dòng máu của người MIỀN NAM đó.
Đã quen chống đối ganh ghét ánh mắt bọn giặc tham lam đó.
Nên mày cứ thử xem đến cuối cùng là ai ngu.
Vần thơ tao mang linh hồn từ năm 75 như Haiku.

Khi mà máu đang đổ… nhìn xung quanh anh em tao đang khổ.
Đường phố loang lổ … tụi mày thì hoan hô.
Giặc ngoài thì chen vô… cùng mấy thằng giang hồ.
Anh em tao vẫn đang cố về những sự thật mày gọi là báng bổ.
Khi mà cung tên và súng đạn nhận mũi dao chĩa về phía tụi tao nhưng tụi tao vẫn ngoan cố.

Tao nguyện chết cho team tao,
Chết trong lý tưởng… dù có chết trong gươm đao.
Chết trên đất mẹ để anh em lại thương nhau.
Tao còn sống sẽ chống đến khi LAST MAN DOWN!

***

Tháng 5 năm 2016, trong chuyến công du Việt Nam, Tổng Thống Barrak Obama đã gặp gỡ một số bạn trẻ Việt Nam tại Sài Gòn. Ông đã đề nghị một nữ rapper có tên Suboi hát một đoạn nhạc Rap. Phải chăng đó chỉ là ngẫu hứng?

Rap Việt tuy đã hơn 20 tuổi tại Việt Nam nhưng tới nay vẫn bị coi là giòng nhạc đường phố của đám xã hội đen và bọn trẻ con nhố nhăng. Thế nhưng, chính xã hội Việt Nam ngày nay đã làm bật ra những rapper và những bản nhạc Rap sắc sảo như vừa kể trên.

“Nhạc phản kháng” (protesting music) là một trong những phương cách đấu tranh hữu hiệu được xử dụng từ lâu trên thế giới. Hiện nay, nó đang được áp dụng vào nhạc Rap Việt – đặc biệt trong các ca khúc của Ếch và Báo.

Hy vọng người nghe nhạc sẽ có cái nhìn bao dung hơn, rộng rãi hơn với Rap Việt, đứa bé con trong gia đình Nhạc Việt, nhưng biết đâu chừng rồi sẽ vươn vai trở thành một Phù Đổng tương lai.

Trịnh Bình An

***For Reference Only***

Rapper Nah Nguyen’s “Địt Mẹ Cộng Sản” (DMCS) or “Fuck Communism,” Part 1

http://danlambaovn.blogspot.com/2015/03/mcs.html

Con Chim Sơn Ca và Âm Nhạc

Phạm Văn Tuấn

  1/ Truyện Trẻ Em của Hans C. Andersen.

 Lâu đài của Hoàng Đế Trung Hoa là tòa nhà rực rỡ nhất trên thế gian bởi vì bên trong có trang hoàng rất nhiều đồ gốm quý giá. Trong vườn thượng uyển của nhà vua có trồng nhiều loại hoa đẹp nhất và treo trên cành cây là các chuông bằng bạc với tiếng rung leng keng, nhắc nhở mọi người tới ngắm hoa. Khu vườn này thì quá rộng lớn đến nỗi người làm vườn không biết đâu là mức cuối cùng và tiếp theo khu vườn là cánh rừng xanh lan rộng tới tận bờ biển.

Trong cánh rừng này có một con chim Sơn Ca nhỏ hót hay đến nỗi anh chàng đánh cá nghèo khó phải dừng chân lại, lắng nghe tiếng chim hót vào ban đêm. Anh ta thốt lên: “Tiếng chim hót thật là hay biết bao!” và qua đêm hôm sau, anh chàng đánh cá quay lại khu rừng để nghe tiếng chim hót và vẫn phải cất tiếng khen ngợi “Thật là hay biết bao!”.

Các du khách trong cả nước Trung Hoa đều tới kinh đô để ngắm lâu đài và khu vườn thượng uyển, nhưng khi họ tới cánh rừng và được nghe tiếng chim Sơn Ca hót, họ đều phải nói rằng “đây là thứ hiếm quý nhất”. Các học giả Trung Hoa đã viết nhiều sách, nói về kinh đô, lâu đài và khu vườn thượng uyển, họ cũng không quên nói tới con chim Sơn Ca và con chim này được khen ngợi nhiều nhất. Vài cuốn sách nói về loại chim hiếm quý tới tay Hoàng Đế và nhà vua đã đọc sách khi ngồi trên ngai vàng. Nhà vua sửng sốt khi con chim Sơn Ca được đánh giá cao hơn tòa lâu đài vàng son, hơn khu vườn thượng uyển rực rỡ. Nhà vua đã phải thốt lên: “Tại sao có chuyện lạ vậy? Ta chưa hề biết gì về con chim Sơn Ca này”. Vị Tể Tướng được gọi đến. Hoàng Đế phán: “Mọi người nói về một thứ rực rỡ nhất trong vương quốc của ta, đây là một con chim đặc biệt nhất, gọi là chim Sơn Ca. Tại sao không ai nói cho ta biết điều này?”. Vị Tể Tướng đáp: “Tâu Bệ Hạ, hạ thần cũng chưa hề được nghe ai nói tới con chim đó! Xin để hạ thần tìm hiểu thêm”. Nhưng biết tìm con chim này ở đâu? Hỏi mọi người trong tòa lâu đài nhưng không ai được nghe nói

tới con chim Sơn Ca nên Vị Tể Tướng tâu lên nhà vua: “Bệ Hạ đừng tin những gì viết ra trong sách”. Hoàng Đế bèn đáp lại: “Nhưng cuốn sách gửi tặng ta là từ Hoàng Đế của nước Nhật Bản, vậy điều này không thể sai lầm được và ta phải được nghe tiếng hót của con chim Sơn Ca. Con chim này phải ở đây vào buổi tối nếu không, tất cả triều thần sẽ bị trị tội”.

Vị Tể Tướng cùng triều thần rất lo lắng. Họ đi hỏi thăm về con chim Sơn Ca. Cuối cùng họ gặp một cô gái nhỏ làm việc trong nhà bếp và cô bé cho biết: “Cháu biết rõ con chim Sơn Ca này. Có một lần cháu xin phép mang một chút đồ ăn còn dư cho mẹ của cháu đang bị ốm nặng và trên đường về nhà vào ban đêm, vừa mệt mỏi vừa buồn chán, cháu đã nghe thấy tiếng chim hót. Cháu quá sung sướng đến nỗi phải rơi nước mắt, tưởng rằng đang được mẹ cháu ôm hôn”.

Vị Tể Tướng nói: “Này cô phụ bếp nhỏ bé, cháu sẽ được gặp nhà vua nếu cháu dẫn ta đi tới chỗ có con chim Sơn Ca”. Rồi cả nhóm người đi vào cánh rừng, nơi con chim Sơn Ca thường hay hót. Trên đường đi, họ nghe thấy tiếng bò rống, tiếng ếch nhái kêu, nhưng cô gái phụ bếp cho biết những tiếng kêu này đâu phải là tiếng chim hót. Rồi một lúc sau, con chim Sơn Ca bắt đầu cất tiếng. Cô gái nhỏ kêu lên: “Con chim đó” và cô bé chỉ tay về hướng một con chim nhỏ màu sám đậm đang đậu trên cành cây. Vị Tể Tướng nhìn thấy con chim, bèn nói: “Có thể như vậy sao? Con chim trông tầm thường quá! Có thể nó bị rụng mất lông đẹp khi gặp gỡ nhiều nhân vật cao sang?”. Cô bé phụ bếp nói với con chim: “Chim Sơn Ca nhỏ bé ơi, Hoàng Đế muốn chim hót cho Ngài nghe!”. Con chim trả lời: “Sẵn Sàng”, và nó hót thật hay. Vị Tể Tướng cho biết: “Tiếng chim giống như tiếng chuông pha lê vậy. Con chim này sẽ thành công tại triều đình”.

Con chim Sơn Ca tưởng rằng nhà vua có mặt nơi đó, nên hỏi: “Tôi có nên hót một lần nữa cho Hoàng Đế nghe không?”. Vị Tể Tướng trả lời: “Chim Sơn Ca nhỏ bé thân mến ơi, ta rất hân hạnh được mời chim tới triều đình tối nay và Hoàng Đế sẽ rất vui mừng khi nghe tiếng hót của chim”. Chim Sơn Ca đáp lại: “Tiếng chim hót hay nhất khi trong cánh rừng xanh”, và rồi con chim cũng vui lòng bay tới tòa lâu đài.

Tại hoàng cung, mọi nơi đều được trang hoàng rực rỡ, nào là tường vách bằng sứ trắng và sàn nhà bóng loáng phản chiếu các ngọn đèn vàng. Các hoa tươi được đặt trên hành lang. Tiếng chuông reo vang khắp nơi. Tất cả triều thần đều có mặt và cô bé phụ bếp đứng bên cạnh cửa. Con chim Sơn Ca hót vang, hay đến nỗi Hoàng Đế phải xúc động và rơi lệ trên má. Vị Hoàng Đế quá hân hạnh về con chim, nên nói rằng chim đáng được đeo một chiếc vòng vàng quanh cổ. Nhưng con chim trả lời rằng nó đã được tưởng thưởng đủ nhiều: “Chim đã nhìn thấy các giọt nước trong mắt của Bệ Hạ, đây là một phần thưởng lớn cho chim này. Nước mắt của Hoàng Đế có sức mạnh biết bao”. Rồi con chim lại hót với giọng trầm bổng hay tuyệt vời. Các bà mệnh phụ đứng quanh đó đều phải nói: “Tiếng chim hót thật là hấp dẫn”.

Kể từ nay, con chim Sơn Ca ở trong triều đình. Nó có một cái lồng riêng và được phép ra khỏi lồng hai lần vào ban ngày và một lần vào ban đêm. Nó được 12 người hầu chăm sóc, mỗi người cầm một sợi dây lụa buộc quanh chân của chim. Thực ra bay lượn với dây buộc như thế này thì không thoải mái.

Một hôm, Hoàng Đế nhận được một hộp quà có ghi hàng chữ “Chim Sơn Ca”. Nhà vua nói: “Đây phải là một cuốn sách mới viết về con chim danh tiếng của ta”. Nhưng đây không phải là cuốn sách, mà là một món đồ chơi cơ khí nhỏ, một con chim Sơn Ca máy trông giống như thật, nhưng chung quanh thân chim có gắn các hột soàn, ngọc hồng và ngọc xanh. Khi lên dây thiều, con chim này có thể hót giống như một con chim thực với đuôi vẫy lên, vẫy xuống, và thân hình chim lóng lánh vàng và ngọc. Chung quanh cổ của con chim máy này có đeo một vòng bằng nhung, ghi giòng chữ: “Con chim của Hoàng Đế Nhật Bản thì không thể so sánh với con chim của Hoàng Đế Trung Hoa”. Mọi người khi nhìn thấy con chim máy này, đều phải nói “Thật là rực rỡ”.

Sau đó, vị nhạc trưởng của triều đình đề nghị: “Bây giờ hãy để hai con chim cùng hót, chúng ta sẽ được nghe một bản song ca”. Nhưng khi chúng hót với nhau, giọng của chúng không hợp nhau, bởi vì con chim Sơn Ca thật hót theo cách của nó, còn con chim Sơn Ca máy hót theo các điệu luân vũ! Rồi con chim máy được phép hót một mình. Nó đã đem lại nhiều niềm vui như con chim thật, nó lại đẹp đẽ hơn khi ngắm nhìn, nó lóng lánh như các vòng đeo tay và vòng đeo cổ. Con chim máy hót cùng một bản nhạc 33 lần mà không mệt mỏi. Mọi người muốn nghe nó hót nữa, nhưng Hoàng Đế tới lúc này nghĩ tới con chim thật, nhưng nó ở đâu? Không ai để ý rằng nó đã bay ra khỏi lồng, về cánh rừng xanh của nó! Hoàng Đế hỏi: “Chúng ta phải làm gì bây giờ?” Cả triều thần đều tức giận, cho rằng con chim Sơn Ca thật bội bạc và rồi họ nói: “Chúng ta còn có con chim hạng nhất”.

Về sau, con chim nhân tạo phải hót và mọi người phải nghe cùng một điệu hót 34 lần. Vị nhạc trưởng lên tiếng khen ngợi con chim máy hết lời, ông ta quả quyết với mọi người rằng con chim máy này hót hay hơn con chim thật, không những hơn về bộ lông đẹp và các hạt kim cương, mà cả về bên trong. “Xin Bệ Hạ, các quý ngài và các quý bà, hãy nhìn kỹ con chim thật, rồi không ai có thể nói trước được về con chim này, nhưng mọi người đều biết rõ con chim nhân tạo. Quý vị có thể cắt nghĩa về nó, mở nó ra và cho mọi người thấy rõ các bản nhạc luân vũ nằm ở đâu, chúng sẽ được trình bày như thế nào và tiếp theo nhau ra sao”. Mọi người đồng ý: “Đây cũng là những gì chúng tôi nghĩ”. Nhà vua cũng ra lệnh cho mọi người được nghe con chim máy hót, rồi viên nhạc trưởng được phép biểu diễn con chim nhân tạo cho công chúng xem vào ngày Chủ Nhật sau đó. Nhưng anh chàng đánh cá đã từng nghe con chim Sơn Ca thật hót, nói rằng: “con chim nhân tạo hót khá hay, nhưng điệu hót sai và tôi biết có một thứ gì thiếu vắng”.

Kể từ nay, con chim Sơn Ca thật bị loại ra khỏi cung đình và con chim nhân tạo được đặt trên chiếc gối lụa, đặt bên giường nằm của Hoàng Đế, tất cả các quà tặng dành cho nó, từ vàng bạc tới ngọc quý, đều được bày chung quanh và nó được tặng danh hiệu “con chim hót đêm của Hoàng Gia”. Và viên nhạc trưởng viết một tác phẩm 25 tập về con chim nhân tạo.

Một năm trường trôi qua. Hoàng Đế, tất cả triều thần và mọi thần dân đều thuộc lòng từng nốt nhạc của con chim nhân tạo. Họ cũng ưa thích hơn vì có thể hát cùng với con chim này. Tuy nhiên vào một buổi chiều, khi con chim máy đã hót bài hát hay nhất, một thứ gì đó trong mình nó bị gẫy, có tiếng kêu rắc rắc. Mọi bánh xe bên trong mắc kẹt và âm nhạc cũng ngừng lại. Hoàng Đế bật dậy, kêu gọi vị y sĩ tới. Nhưng ông này làm được gì? Rồi một người thợ đồng hồ đến và sau một thời gian dài xem xét, anh ta đã xếp theo thứ tự máy móc bên trong mình con chim và nói rằng mọi cơ phận đã bị mòn và không thể đặt vô các cơ phận mới. Đây quả là một tai họa. Con chim nhân tạo chỉ có thể hót một năm một lần và điều này cũng là quá sức rồi.

Năm năm trôi qua, rồi một tin buồn tới với quốc gia này. Người Trung Hoa trông đợi mọi thứ vào vị Hoàng Đế mà giờ đây, nhà vua này đang đau bệnh, có thể không sống nổi. Một vị vua mới được chọn ra. Người ta hỏi vị Tể Tướng về nhà vua già và viên quan đầu triều chỉ lắc đầu, không nói. Vị vua già vừa xanh xao, vừa run rẩy, nằm trong chiếc giường rực rỡ. Cả triều đình tin rằng ông đã băng hà nên từng người xa cách ông để tôn kính vị Hoàng Đế mới. Trên các lối đi tại mọi nơi trong hoàng cung, thảm quý được trải ra để không ai nghe thấy tiếng bước chân. Tất cả là cảnh yên lặng. Vị Hoàng Đế già trông đợi một thứ gì mới xẩy đến, để phá tan sự yên tĩnh giống như cảnh chết chóc này. Nếu có một người nào đó tới nói chuyện cho nhà vua nghe nhỉ? Nhà vua nói lớn với con chim máy: “Âm Nhạc! Âm Nhạc! Con chim nhỏ bé rực rỡ bằng vàng ơi, ta đã ban cho mi vàng bạc và ngọc quý, chính tay ta đã treo vòng vàng chung quanh cổ của mi, hãy hót lên, hót đi!”. Nhưng con chim máy vẫn im lặng. Không có ai lên dây thiều cho con chim, vì thế nó không thể hót được. Tất cả là cảnh yên lặng, lặng thinh đến khủng khiếp!

Nhưng ngay lập tức tại nơi cửa sổ vang lên tiếng chim hót tuyệt vời nhất! Đậu trên cành cây bên ngoài, con chim Sơn Ca thật nhỏ bé đã nghe thấy lời cầu mong của vị Hoàng Đế già nên đã tới để hót cho nhà vua được yên lòng và hy vọng. Và càng nghe chim hót, giòng máu trong huyết quản của nhà vua càng chạy nhanh hơn, cuộc sống bắt đầu trở lại. Vị vua già nói với con chim: “Cảm ơn, ồ, cảm ơn con chim tuyệt vời. Ta biết mi. Ta đã đuổi mi ra khỏi vương quốc của ta nhưng mi đã mang lại cho ta đời sống. Làm sao ta có thể tưởng thưởng mi được?”. Con chim Sơn Ca trả lời: “Bệ Hạ đã tưởng thưởng cho chim rồi. Lần đầu tiên khi tôi hót, các giọt nước mắt đã lăn trên má của Bệ Hạ. Đó là các viên ngọc quý làm vui lòng trái tim của ca sĩ! Bây giờ Bệ Hạ nên ngủ đi để lấy lại sức khỏe”. Và nhà vua chìm trong giấc ngủ sâu, yên lành, trong khi con chim Sơn Ca hót vang.

Khi mặt trời chiếu sáng qua khung cửa sổ, vị Hoàng Đế già tỉnh dậy, cảm thấy mạnh khỏe, phục hồi. Không một người hầu nào tới thăm nhà vua cả bởi vì họ tưởng nhà vua đã chết. Nhưng con chim Sơn Ca đã đến và hót các giọng trầm bổng cho nhà vua nghe. Vị Hoàng Đế già nói với con chim: “Mi phải luôn luôn sống gần ta nhé! Mi hãy hót lên khi nào vui thích rồi ta sẽ đập vỡ con chim nhân tạo ra làm trăm mảnh”. Con chim thật trả lời: “Xin Bệ Hạ đừng làm thế. Con chim đó làm công việc của nó bao lâu tùy theo khả năng của nó. Tôi không thể xây tổ trong cung điện và sống nơi hoàng cung, xin hãy cho phép tôi tới đây khi nào tôi ưa thích. Vào mỗi buổi tối, tôi sẽ đậu trên cành cây bên ngoài cửa sổ và tôi sẽ hót các bài ca làm cho Bệ Hạ cảm thấy Hạnh Phúc. Tôi sẽ hót các bản nhạc vui và các bản nhạc buồn, tôi cũng hót lên những gì tốt và xấu mà Bệ Hạ không biết tới. Con chim nhỏ này sẽ bay vòng quanh, tới túp lều của anh chàng đánh cá nghèo nàn, tới căn nhà lá của người nông dân, tới những người sống xa Bệ Hạ và triều đình. Tôi yêu thương Tấm Lòng của Bệ Hạ hơn là Ngai Vàng của Ngài. Bây giờ tôi hót cho Bệ Hạ nghe một lần nữa nhưng Bệ Hạ phải hứa với tôi một điều – “.

Vị Hoàng Đế đứng dậy, mặc vào chiếc long bào và trả lời con chim: “Bất cứ điều gì”. Con chim nói: “Tôi chỉ xin Bệ Hạ một điều. Xin đừng nói với ai là Bệ Hạ đã có một con chim nhỏ bé kể lại cho Bệ Hạ nghe mọi sự việc. Tốt hơn là không nói ra”. Rồi con chim Sơn Ca bay đi. Khi các người hầu cận tới nơi, coi xem vị vua già đã băng hà chưa, thì nhà vua nói với họ: “Chào Buổi Sáng”./.

Hans Christian Andersen

(Truyện “The Nightingale” trong cuốn The Children’s Treasure, biên tập do Alice Mills, nhà xuất bản Global Book Publishing Pty, Ltd., Australia).

 2/ Nhà Văn Hans Christian Andersen.

Loại truyện trẻ em bao gồm những chuyện thần tiên, chuyện nhân gian, thường hàm chứa các đức tính tốt, các sự việc cao đẹp, mô tả các đời sống đơn giản hơn thông thường, với các điều lành và điều dữ dễ dàng nhận rõ. Loại truyện này cũng liên quan tới các con vật biết nói, với phần kết có những người tốt, người thiện được tưởng thưởng và các kẻ xấu, kẻ gian bị trừng phạt. Trong cốt truyện cũng kể tới các cuộc đi xa, các biến động, nhiều vấn đề rắc rối… nhưng cuối cùng, đời sống tiếp tục tươi sáng với tương lai nhiều hứa hẹn.

Có nhiều truyện trẻ em danh tiếng được nhiều người biết tới, chẳng hạn như chuyện Bạch Tuyết, Cô Bé Lọ Lem, Nàng Công Chúa Ngủ Trong Rừng… Các nhà văn viết truyện trẻ em lừng danh như Charles Perrault người Pháp, anh em Grimm người Đức, đã tạo nên những câu chuyện rất phổ thông, gây ảnh hưởng tới nền văn chương của phương Tây. Một bậc thầy khác về nghệ thuật viết truyện thần tiên hay truyện trẻ em là nhà văn Hans Christian Andersen. Các truyện của Andersen có nguồn gốc từ các truyền thuyết nhân gian, lại hàm chứa bên trong thể văn cá nhân và các yếu tố tự thuật hay tính châm biếm xã hội đương thời.

Hans Christian Andersen (1805–1875) là nhà văn danh tiếng nhất của nước Đan Mạch. Các truyện của ông được phổ biến rộng rãi trong nền văn chương thế giới bởi vì các tác phẩm này đã làm cho giới độc giả trẻ tuổi tin tưởng và say mê qua nhiều thế hệ. Andersen sinh ra đời tại Odense, Đan Mạch, là con trai của một người thợ đóng giầy nghèo khó, qua đời lúc cậu mới 11 tuổi. Vào thuở thiếu thời, cậu bé này đã phải sống trong khu nhà tồi tàn, phải tranh đấu để vươn lên trong một xã hội có nhiều giai cấp gò bó. Sau khi theo học tại một ngôi trường dành cho các trẻ em nghèo, Andersen rời bỏ Odense vào tuổi 14 để theo nghề nghệ sĩ tại thủ đô Copenhagen. Mặc dù cố gắng kiếm ăn bằng các công việc như kịch sĩ, ca sĩ, diễn viên múa, Andersen vẫn nằm trong cảnh túng thiếu. Tại Copenhagen, Andersen được ông Jonas Collin, một trong các giám đốc của Rạp Hát Hoàng Gia giúp đỡ và ông này trở thành người bạn thâm niên.

Nhờ ông Jonas Collin, Andersen nhận được một học bổng để theo đại học Copenhagen vào năm 1828. Năm sau, Andersen viết ra vở kịch đầu tiên, có tên là “Tình Yêu trong Tháp của Nhà Thờ Thánh Nicolai” (Love in St. Nicolai Church Tower). Andersen cũng viết các tiểu thuyết và các vở kịch nhưng các sáng tác này ít khi được đọc bên ngoài miền đất Scandinavia. Cuốn tiểu thuyết danh tiếng nhất của ông là “Ứng Tác” (Improvisation, 1835).

 Hans Christian Andersen

Vào năm 1835, Hans Christian Andersen cho xuất bản tập truyện thần tiên đầu tiên và ông tiếp tục viết tới tập thứ 156 trước khi qua đời. Tập thứ nhất gồm các câu chuyện như “Chiếc Hộp dễ cháy” (The Tinder Box), “Claus nhỏ và Claus lớn” (Little Claus and Big Claus), “Nàng Công Chúa và Hạt Đậu” (The Princess and the Pea), “Các Bông Hoa của Bé Ida” (Little Ida’s Flowers)… Các truyện của Andersen trở nên phổ biến vào đầu thập niên 1840.

Các tác phẩm của Hans Christian Andersen đã mở ra một đường hướng mới về nội dung và thể văn bởi vì ông là một nhà cải cách thực sự trong phương pháp kể chuyện. Các câu chuyện của ông hấp dẫn trẻ em lẫn người lớn do tác giả đã đưa vào trong truyện các cảm xúc và ý tưởng ngoài tầm hiểu biết tức thời của trẻ em, trong khi những yếu tố này vẫn còn nằm trong tầm nhìn của lớp thiếu niên. Andersen đã khéo léo phối hợp khả năng kể chuyện tự nhiên và trí tưởng tượng dồi dào, đã dùng các đặc tính phổ thông trong các truyền thuyết nhân gian để sáng tạo ra những câu chuyện liên quan tới nhiều nền văn hóa.

Do là một nhà văn danh tiếng, Hans Christian Andersen đã quen với nhiều nhân vật trong hoàng gia Đan Mạch, thân với các nghệ sĩ lừng danh như nhạc sĩ Franz Liszt, nhà thơ Heinrich Heine, các tiểu thuyết gia như Victor Hugo và Charles Dickens. Ông Andersen cũng từng du lịch khắp châu Âu và viết ra nhiều cuốn sách liên quan đến các kinh nghiệm của ông, trong số này đáng kể nhất là cuốn “Tạp Ghi của Nhà Thơ” (A Poet’s Bazaar, 1842) và “Tại Thụy Điển” (In Sweden, 1851). Một cuốn sách tự thuật khác của ông là cuốn “Chuyện Thần Tiên của Đời Tôi” (The Fairy Tale of My Life, 1855).

Hans Christian Andersen là một nhân vật thành công và danh tiếng do các tác phẩm nhưng ông không lập gia đình. Ông đã từng yêu ba phụ nữ trong đó có nữ ca sĩ người Thụy Điển Jenny Lind và cô ái nữ của ông Jonas Collin, nhưng không người đẹp nào đáp lại tình yêu của ông.

 3/ Tiếng chim hót trong bản nhạc của Vivaldi.

Trong truyện trẻ em kể trên của Hans Christian Anderson, nhân vật quan trọng thứ hai là con chim Sơn Ca. Con chim này đã hót nhiều giọng vui, buồn, trầm, bổng, với cung điệu rất hấp dẫn, truyền cảm, đã mang lại xúc động cho nhiều người nghe, từ anh chàng đánh cá nghèo khó, cô gái nhỏ phụ bếp tới Hoàng Đế Trung Hoa. Con chim Sơn Ca có khả năng mang lại sức khỏe cho nhà vua, đã khiến cho vị vua già không còn cô đơn. Nhà vua đã vui lên, tin tưởng hơn nhờ thứ âm nhạc của cánh rừng xanh mà con chim Sơn Ca là một ca sĩ trình diễn.

Như vậy Âm Nhạc là gì, có các công dụng nào và các thể loại nào? Âm nhạc là các âm thanh được xếp đặt theo các mẫu (patterns) êm tai và hấp dẫn. Mọi người dùng âm nhạc để diễn tả các cảm xúc và tư tưởng. Âm nhạc cũng được dùng để giải trí và thư dãn tâm hồn, vì vậy âm nhạc là một phần quan trọng trong đời sống hàng ngày, trong nhiều hoạt động xã hội và văn hóa.

Âm nhạc là một nghệ thuật trình diễn. Khác với vài bộ môn nghệ thuật như Thơ Phú và Hội Họa trong đó người nghệ sĩ sáng tạo ra tác phẩm rồi phổ biến hay trưng bày cho mọi người nghe hoặc thưởng lãm; trong bộ môn âm nhạc, nhạc sĩ sáng tác cần tới nhiều ca sĩ trình diễn để diễn tả các bài ca, các nhạc phẩm, giống như nhà soạn kịch cần tới các diễn viên trên sân khấu. Như vậy công việc trình tấu âm nhạc là sự phối hợp giữa các nghệ sĩ sáng tác và các nghệ sĩ biểu diễn.

Âm nhạc là một trong các nghệ thuật lâu đời nhất và có lẽ con người bắt đầu biết ca hát khi ngôn ngữ mới phát triển. Các nhà khảo cổ đã tìm thấy các khúc xương rỗng được dùng làm cây sáo (flute) vào khoảng 10,000 năm trước Tây Lịch (TL) và bản nhạc đầu tiên được viết ra có lẽ từ 2,500 năm trước TL. Các dân tộc với nền văn minh cổ như các người Ai Cập, Trung Hoa và Babylonians đã biết dùng âm nhạc trong các lễ nghi cung đình và tôn giáo.

Âm nhạc giữ các vai trò quan trọng trong mọi nền văn hóa. Nhiều người dùng âm nhạc trong các buổi lễ hội, trong công việc làm hay trong các sinh hoạt cá nhân và tập thể. Ngày nay, âm nhạc có nhiều hình thức. Loại âm nhạc của châu Âu và châu Mỹ được gọi chung là Âm Nhạc Tây Phương (Western music) trong khi châu Phi và châu Á cũng có loại âm nhạc riêng. Trong nền âm nhạc Tây Phương, có hai loại chính là “cổ điển” (classical) và “phổ thông” (popular). Nhạc Cổ Điển gồm các bản giao hưởng (symphonies), nhạc kịch (operas) và nhạc vũ ba lê (ballets). Nhạc Phổ Thông có các loại chính như nhạc đồng quê (country music), nhạc nhân gian (folk music), nhạc jazz và nhạc rock…

Trong bộ môn nhạc cổ điển cũng có nhiều hình thức. Nhiều bản nhạc cổ điển rất dài với nhạc phong và nhịp độ biến đổi. Cũng có các bản nhạc ngắn với cùng nhịp độ và nhạc phong được giữ nguyên trong suốt thời gian trình tấu. Vài bản nhạc cổ điển mang chủ đích trình bày một đề tài, diễn tả một ý tưởng, mô tả một cảm xúc hay kể ra một câu chuyện.

Các nhà nghiên cứu âm nhạc cũng chia nhạc cổ điển ra làm hai loại: nhạc dùng đàn (instrumental music) và thanh nhạc (vocal music). Nhạc dùng đàn thường được trình tấu bằng một nhạc cụ, một nhóm nhỏ nhạc cụ hay một dàn nhạc (orchestra), còn thanh nhạc được viết cho một ca sĩ hát, hay một nhóm ca sĩ, hoặc một ban hợp ca đông người. Ngày nay các nhạc cụ được chia làm 5 loại chính: (1) nhạc cụ dây (stringed), (2) nhạc cụ gió (wind), (3) nhạc cụ gõ (percussion), (4) nhạc cụ phím (keyboard) và (5) nhạc cụ điện tử (electronic instruments).

Tùy theo số nhạc sĩ trình diễn mà bản nhạc được phân loại ra làm:

(1) nhạc độc tấu (solo music): được viết cho một thứ đàn như dương cầm, vĩ cầm, sáo… Các bản sonata dương cầm danh tiếng nhất là của các nhạc sĩ Ludwig van Beethoven người Đức, Wolfgang Amadeus Mozart người Áo… trong khi Johann Sebastian Bach người Đức cũng sáng tác các sonata xuất sắc, dùng cho đàn vĩ cầm (violin) và hồ cầm (cello).

(2) nhạc thính phòng (chamber music): dùng cho từ 2 tới 5 nhạc sĩ, với mỗi người trình bày mỗi phần khác nhau. Loại bản nhạc này gồm loại hòa tấu 3 đàn dây (string trio), hòa tấu dương cầm 3 đàn (piano trio), hòa tấu 4 đàn (string quartet), hòa tấu 5 đàn (string quintet)…

(3) nhạc đại hòa tấu (orchestra music): được trình diễn trước khán giả đông người. Dàn nhạc của loại này gồm từ 15 tới trên 100 nhạc sĩ, được chia làm 4 nhóm chính: a) loại dây, b) loại gió, c) loại kèn đồng và d) loại gõ. Loại bản nhạc thường được các dàn nhạc đại hòa tấu trình diễn gồm các bản giao hưởng (symphonies), các concerto và các tổ khúc (suites).

Bản nhạc giao hưởng thường diễn tả các cảm xúc, các ý tưởng. Bản giao hưởng “Eroica” (1804) của Beethoven lúc đầu có chủ đích ca ngợi danh tướng Napoleon với nhiều đoạn nhạc hùng tráng, và phần hai (2nd movement) là hành khúc tang lễ (funeral march) dành cho bậc anh hùng quá vãng… Bản giao hưởng “Mùa Xuân” (Spring, 1841) của Robert Schumann diễn tả niềm hạnh phúc khi lập gia đình.

Các bản concerto được viết ra cho một thứ đàn riêng biệt, chẳng hạn như đàn vĩ cầm hoặc đàn dương cầm. Nhà soạn nhạc danh tiếng người Ý Antonio Vivaldi đã viết ra nhiều concerto xuất sắc, chủ yếu dùng cho các loại đàn dây.

Từ thế kỷ 18, các tổ khúc (suites) là loại nhạc dành cho vũ điệu (dances), chẳng hạn như hai tổ khúc danh tiếng “Peer Gynt Suite” (1876) của nhà soạn nhạc Edvard Grieg người Na Uy, và “Nutcracker Suite” (1892) của nhà soạn nhạc Peter Ilich Tchaikovsky người Nga.

Âm nhạc là một loại ngôn ngữ quốc tế có sức mạnh truyền thông lớn nhất, đã dùng tới các giai điệu trầm bổng để gợi lên trong tâm hồn người nghe nhiều cảm xúc nội tâm đa dạng. Âm nhạc trực tiếp ảnh hưởng tới các giác quan của thính giả và các nhạc sĩ sáng tác là những nghệ sĩ dùng âm thanh để mô tả những gì không thể nói ra bằng lời, vui cũng như buồn, say mê cũng như hùng tráng…

Trở về một thí dụ đơn giản là tập Concerto “Bốn Mùa” (The Four Seasons) của Antonio Vivaldi, phổ biến vào năm 1725. Mở đầu trong concerto thứ nhất “Mùa Xuân” là tiếng chim hót vui vẻ, chào đón một mùa nắng ấm, sau đó là tiếng nước chảy róc rách của một giòng suối với gió nhẹ thổi qua, với các tiếng sấm, và rồi lại nghe thấy tiếng chim hót diễn tả nhờ cây vĩ cầm độc tấu.

Mùa Xuân đang tới. Nhạc và Thơ là hai bộ môn nghệ thuật chuyên chở rất nhiều tình cảm. Nếu Antonio Vivaldi sáng tác ra các giòng nhạc bắt chước tiếng chim, giống như giọng hót của con chim Sơn Ca, thì Đại Thi Hào Nguyễn Du cũng mô tả tiếng đàn lả lướt của nàng Thúy Kiều bằng bốn câu thơ sau:

Trong như tiếng hạc bay qua,

Đục như tiếng suối mới sa nửa vời,

Tiếng khoan như gió thoảng ngoài,

Tiếng mau sầm sập như trời đổ mưa…

 

Phạm Văn Tuấn.

 

Nguyễn Trãi với lẽ xuất xử

Phạm Doanh

Nguyễn công Trứ sau này mới nói rõ: “xưa nay xuất xử thường hai lối “. Nhưng trước đó Nguyễn Trãi chắc chắn đã từng biết rõ hơn ai hết , khi người cha của mình là Nguyễn phi Khanh đã viết trong “Thanh hư động kí 清虛洞記”: vào ngày giáp tí, tháng chạp, năm Xương-phù thứ tám (1384), tại làng Nhị-khê :
Hiền đạt giả chi xuất xử, kỳ động giả dĩ thiên, kỳ lạc dã dĩ thiên. 賢達者之出處,其動也以天,其樂也以天 (Trong việc “xuất”, “xử” của kẻ hiền đạt, thì “xuất” là để hành động theo lẽ trời, “xử” là để tìm thú yên vui, cũng theo lẽ trời.) và rồi trong đoạn kết :
“ Nhược phù đại thần nhất thân tiến thoái hệ quốc khinh trọng, tắc quân tử cố hữu chung thân chi ưu, phi nhược bỉ phu chi sự quân giả, ký hoạn đắc hựu hoạn thất, kỳ đắc dã, thụ du hiến nịnh, vô sở bất vi; kỳ thất dã, phất nhiên viễn khứ, tâm hoài ương ương. Thử ô túc trí xỉ ư hiền đạt xuất xử chi luận da? 若夫大 臣一身進退繫國輕重,則君子固有終身之懮,非若鄙夫之事君者,既患得又患失,其得也,售諛獻佞,無所不為;其失也,艴然遠去,心懷怏怏。此烏足置齒於賢達出處之論耶 ( Ôi! Thân phận một kẻ đại thần, khi tiến, khi lui, đều có quan hệ với vận mệnh của nước nhà, cho nên người quân tử vẫn ôm mối lo suốt đời, nào phải như kẻ bỉ phu thờ vua, đã lo được lại lo mất, khi được thì a dua, nịnh hót, chẳng việc gì là chẳng làm; khi mất thì hất hủi bỏ đi, trong lòng hậm hực. Như vậy, sao đáng cùng họ mà bàn việc “xuất” và “xử” của người hiền đạt được?)
(Theo TRẦN LÊ SÁNG, trong Thơ văn Lý Trần, Tập 3, nhà Xuất bản Khoa Học Xã hội, Hà nội, 1977, pp 494 et suiv.)

Vậy Nguyễn Trãi đã Xử như thế nào và Xuất ra sao? Qua thơ văn và hành trạng đời ông, ông đã chứng tỏ đã hoà hợp hai ngả : khi xử có xuất và khi xuất có xử. Ông đã thực hành các phương châm :
A. Thân cư sơn lâm, tâm tại ngự khuyết. [* Miếu đường 廟堂 : thời xưa, cửa bên ngoài cung. Trang Chu 莊周 trong Nam Hoa Kinh 南華經 thiên Ngoại thiên 外篇, chương Tại hựu 在宥 : “ Cố hiền giả phục xử đại sơn khàm nham chi hạ, nhi vạn thặng chi quân ưu lật hồ miếu đường chi thượng 故賢者伏處 大山嵁岩之下, 而萬乘之君憂慄 乎廟堂之上 (Cho nên người hiền thì ẩn cư trên núi cao hang sâu, mà các vua nước lớn thì ngồi trong cung mà lo lắng, sợ sệt. ) “. Theo Hoài nam tử 淮南子, chương Chủ thuật huấn 主術訓 : “ Quân nhân giả, bất hạ miếu đường chi thượng nhi tri tứ hải chi ngoại giả, nhân vật dĩ thức vật, nhân nhân dĩ tri nhân dã 君人者, 不下廟堂 之上而 知四海之外者, 因物以識物, 因人以知人也 (Kẻ làm vua, không bước xuống hỏi thềm cúa cung mà biết được các việc sảy ra trong bốn bể, đó là qua vật mà hiểu vật, nhân người để môn thường có hai lầu cao hai bên. Bên dưới là nơi niêm yết thông báo của nhà nước . Cũng mượn dùng chỉ triều đình. Miếu đường tâm sự tích lâm khâu. 廟堂心事蹟林丘 : nỗi lòng lo việc nhà nước mà dấu chân in nơi núi rừng. Tử Mâu 子牟, người thời Chiến quốc 戰國, nhân vì được phong đất Trung-sơn 中山, nên còn được gọi là Trung-sơn công tử Mưu 中山公子牟 hay Ngụy công tử Mâu 魏公子牟 cũng có câu nói tương tự : “ Thân tại giang hải chi thượng, tâm cư hồ ngụy khuyết chi hạ 身在江海之上, 心居乎 魏 闕之下 (Thân sống trên sông biển, mà lòng gửi nơi triều đình ) “. Sau này câu nói dùng ám chỉ lòng trung quân ái quốc. Tham khảo Lữ thị Xuân Thu 呂氏春秋, chương Thẩm vi 審為. *] mà biết người vậy ) “. Phạm trọng Yêm 范仲淹 , 989 – 1052, nhà văn thời Bắc Tống 北 宋 trong Nhạc-dương lâu kí 岳陽樓記 : “ Bất dĩ vật hỉ, bất dĩ kỉ bi , cư miếu đường chi cao, tắc ưu kì dân ; xử giang hồ chi viễn, tắc ưu kì quân 不以物 喜, 不以己悲, 居廟堂 之高, 則憂其民; 處江湖之遠, 則憂其君 ( Không lấy cái ngoại vật làm vui, không lấy cái nội tâm làm buồn. Khi giữ chức vụ cao trong chính quyền thì lo cho dân, khi tuy không ở trong chính quyền nhưng vẫn lo cho nước.

B. Tiên ưu hậu lạc. Cũng trong Nhạc-dương lâu kí 岳陽樓記 : “.Thị tiến diệc ưu, thối diệc ưu ; nhiên tắc hà thì nhi nhạc da ? Kì tất viết : “ tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu, hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc dư ! . 是進亦憂, 退亦憂; 然 則何時而樂 耶?其 必曰: “先天下之憂而憂, 後天下之樂 而樂歟!” ( Như thế ở trong cũng lo mà ở ngoài cũng lo, Thế thì thấy vui vào lúc nào? Ắt đáp : “ Lo trước cái lo của thiên hạ, Vui sau cái vui của thiên hạ “ sao? ) “ *],

C. Đạm bạc, Ninh tĩnh luôn luôn tinh tiến
Hoài-nam tiểu sơn 淮南小山, bút hiệu tập thể cúa các tân khách trong nhà Hoài-nam vương Lưu An 淮南王 劉安, trong sách Hoài nam tử 淮南子, chương Chủ thuật huấn 主術訓 : “ Thị cố phi đạm bạc vô dĩ minh đức, phi ninh tĩnh vô dĩ trí viễn, phi khoan đại vô dĩ kiêm phúc, phi từ hậu vô dĩ hoài chúng , phi bình chánh vô dĩ chế đoạn 是故非澹薄無以明德 , 非寧靜無 以致遠, 非寬大無以兼覆, 非慈厚無以懷眾, 非平正無以制斷 (Chính vì vậy cho nên thiếu đạm bạc thì không làm rõ cái đức của mình, không trầm tĩnh thì khó suy nghĩ sâu xa, thiếu độ lượng thì lấy gì mà đối xử với nghịch cảnh, không nhân hậu thì thương người sao được, không công bình ngay thẳng thì lấy gì để mà đoán quyết) “ *]. Gia cát Lượng 諸葛亮 tự Khổng Minh 孔明, 181 – 234, nhà quân sự nước Thục 蜀, thời Tam quốc 三國, trong Giới tử 誡子 : “ Phi đạm bạc vô dĩ minh chí , Phi ninh tĩnh vô dĩ trí viễn . Phù học tu tĩnh dã 非澹泊無以明志, 非寧靜無以致遠. 夫學須靜也 ( Không giản dị, thì không làm rõ chí mình, Không suy nghĩ kĩ thì không thể tiến xa. Phải học tính điềm đạm ) “ *]

Chúng ta hãy phân tích qua thi ca và thân thế ông.
[* Về tiểu sử, chúng tôi đã dựa vào chương Tiểu sử Nguyễn Trãi trong Văn Tân et als (Eds) : Nguyễn Trãi Toàn Tập , Nhà xuất bản Khoa-học Xã-hội, Ha-nội – 1969, từ trang 9 – 20 *]

Hành trình của chàng thanh niên yêu nước.

Ngày 28 tháng 2 năm canh thìn (1400), Hồ quí Li chiếm ngôi của nhà Trần, đặt tên nước là Đại-ngu, Nguyễn ứng Long đểi tên là Nguyẫn phi Khanh và ra nhận chức ̣ái lí tử khanh thị lang toà trung thơ, hàn-lâm viện học sĩ kiêm lĩnh chức tư-nghiệp Quốc tử giám. Cũng trong năm này Nhà Hồ mở khoa thi đầu tiên. Nguyễn Trãi ứng thí, ông trúng tuyển thái học sinh. Sau khi thi đỗ, ông được Hồ Quý Ly trao cho chức Ngự sử đài chánh chưởng. Thế là hai cha con cùng làm quan ở triều đình và cùng giúp cho Hồ Quý Ly thi hành cải cách về kinh tế, chính trị và văn hóa nhằm đưa xã hội Việt Nam sang một giai đoạn phát triển hơn.
Hồ Quý Ly đang thi hành các cải cách thì quân Minh do Trương Phụ chỉ huy mở một cuộc xâm lược vào nước Đại Ngu, Hồ Quý Ly cùng con là Hồ Nguyên Trừng mang quân ra chống cự. Quân Hồ bị quân Minh đánh bại. Cha con Hồ Quý Ly và các triều thần bị bắt và đưa về Trung Quốc. Trong số triều thần bị bắt có Nguyễn Phi Khanh.
Được tin cha bị bắt, Nguyễn Trãi cùng em là Nguyễn Phi Hùng đến chỗ quân Minh giam giữ tù binh để tìm cha, rồi hai anh em theo đoàn xe lên ải Nam Quan với ý định biên giới để hầu hạ cha già trong lúc bị cầm tù.
Nguyễn Phi Khanh biết rằng ông đi chuyến này là sẽ không bao giờ trở về Tổ quốc nữa, cho nên nhân một lúc vắng vẻ, ông bảo Nguyễn Trãi rằng: “Con là người có học, có tài nên tìm cách rửa nhục cho nước, trả thù cho cha. Như thế mới đại hiếu. Lọ là cứ phải đi theo cha khóc lóc như đàn bà mới là hiếu hay sao?”. Rồi Phi Khanh bảo Nguyễn Trãi quay trở về, chỉ để Phi Hùng theo ông sang Trung Quốc, để khi ông chết thì đem hài cốt về nước…
Nguyễn Trãi gạt nước mắt từ biệt cha và em rồi quay trở lại đi tìm con đường “rửa nhục cho nước, trả thù cho cha”, đúng như lời giáo huấn cuối cùng của Nguyễn Phi Khanh.

1. Trước khi tham gia kháng chiến chống Minh.

• Về đến thành Đông Quan, Nguyễn Trãi bị quân Minh bắt. Tướng giặc là Trương Phụ biết Nguyễn Trãi là một nhân vật có tài cao chí cả, y cố dụ dỗ ông ra làm quan với quân Minh. Nguyễn Trãi kiên quyết từ chối. Tức giận, Trương Phụ định đem ông ra chém. Thượng thư Hoàng Phúc khôn khéo hơn, biết rằng muốn dụ dỗ một người như Nguyễn Trãi thì một ngày không thể làm được. Y can Trương Phụ rồi tha cho Nguyễn Trãi, nhưng y buộc ông phải sống ở thành Đông Quan là nơi có đại bản doanh của quân xâm lược.
• Hiện nay chưa đủ tài liệu để khẳng định dứt khoát rằng trong khoảng thời gian từ 1407 đến năm 1416, Nguyễn Trãi ở Đông Quan hay đi đâu. Trong thơ chữ Hán của ông có nhiều chỗ nói ông đã sống mười năm luân lạc hay mười năm phiêu chuyển lênh đênh ở nơi góc biển chân trời xa quê hương. Trong những bài thơ chữ Hán ấy, có nhiều bài nói ông sang Trung Quốc nữa. Do đó, có người đã đoán rằng Nguyễn Trãi đã đi sang Trung Quốc. Thuyết này hiện nay chưa biết là đúng hay sai. Chỉ biết rằng Nguyễn Trãi đã sống ở Đông Quan, nhưng có lẽ ông chỉ sống ở đấy trong một thời gian nào đó mà thôi.
• Vào khoảng năm 1416 hoặc khoảng năm 1420, Nguyễn Trãi đến Lỗi Giang trao cho Lê Lợi, thủ lĩnh nghĩa quân Lam Sơn, bản Bình Ngô sách, trong đó ông vạch ra chiến lược, chiến thuật đánh quân Minh. Theo bài tựa của Ngô Thế Vinh trong Ức Trai thi tập thì Bình Ngô sách “hiến mưu chước lớn, không nói đến việc đánh thành mà lại khéo nói đến việc đánh vào lòng người, cuối cùng nhân dân và đất nước của mười năm lãnh đạo nước ta đều đem về cho ta cả”.
• Nghe lời cha dặn, về nước tìm cơ hội : Nguyễn Trãi không có tên trong bản Hội thề Lũng Nha, và khi được tin Lê Lợi khởi nghĩa, ông đã tham gia hết mình.
Về thơ văn, trong giai đoạn này ông từng than thở như trong bài

Loạn hậu cảm tác.
亂 後 感 作

Thần-châu nhất tự khởi can qua,
神州一自起干戈
Vạn tánh ngao ngao khả nại hà ?
萬姓嗷嗷可奈何
Tử Mĩ cô trung Đường nhật nguyệt,
子美孤忠唐日月
Bá Nhân song lệ Tấn sơn hà.
伯仁雙淚晉山河
Niên lai biến cố xâm nhân lão,
年來變故侵人老
Thu việt tha hương cảm khách đa.
秋越他鄉感客多
Táp tải hư danh an dụng xứ,
卅載虛名安用處
Hồi đầu vạn sự phó Nam-kha.
回頭萬書付南柯
Giải xuôi : Viết ra sau hồi loạn.
Đất nước yêu quí [* thần-châu 神州 nói gọn của thần-châu lục trầm 神州陸沉 , tương tự với cụm quốc thổ luân hãm 國土淪陷 : đất nước bị ngoại xâm, chỉ cuộc xâm lăng Việt Nam của quân Minh . Lưu nghĩa Khánh 劉義慶, 403 – 444, nhà văn nước Tống 宋 thời Nam Bắc triều 南北朝, trong Thế thuyết tân ngữ 世說新語, chương Khinh để 輕詆: “ Hoàn công nhập Lạc, quá Hoài, Tứ, tiễn bắc cảnh, dữ chư liêu chúc đăng Bình-thừa lâu, thiếu chúc trung nguyên, khái nhiên viết: “ Toại sử thần châu lục trầm, bách niên khâu khư, Vương di Phủ chư nhân, bất đắc bất nhâm kì trách. 桓公入洛,過淮, 泗, 踐北境, 與諸僚屬登平乘樓, 眺矚中原, 慨然曰: “ 遂使神州陸沈, 百年丘墟,王夷甫諸人,不 得 不任其責!( Hoàn công tiến vào vùng Lạc, qua sông Hoài, sông Tứ, đặt chân lên vùng phía bắc, cùng các ban tham mưu lên lầu Bình-thừa, nhòm xuống vùng trung nguyên , cảm khái mà nói rằng : “ Cứ để cho nước bị giặc ngoai xâm, cả đời tàn hại, bè lũ Vương di Phủ ( Vương Diễn 王衍 ), không thể không gánh vác nhiệm vụ ) “. Có khi dùng chỉ vùng đất trung nguyên một nước . Lưu nghĩa Khánh 劉義慶 , trong chương Ngôn ngữ 言语: “ Vương thừa tướng thiểu nhiên biến sắc viết :‘ đương cộng lục lực vương thất, khắc phục thần châu, hà chí tác Sở tù tương đối khấp da!王丞相 愀然變色曰: ”當共戮力王室, 剋復神州, 何至作 楚囚相 對泣邪!( Vương thừa tướng 王丞相 ( Vương Đạo 王導 ) biến sắc mặt, quát lên : “Đang cùng cố sức giúp nhà vua, khôi phục đất nước, sao lại biến thành kẻ tù vùng Sở này mà khóc lóc. ) “. Trương nguyên Can 張元干, 1109―1170 nhà văn thời Bắc Tống 北 宋 , trong bài Hạ tân lang : tống Hồ bang Hành đãi chế phó Tân-châu 賀新郎·送胡邦衡待製赴 新州 : “ Mộng nhiễu thần châu lộ, trướng thu phong, liên doanh họa giác, cố cung li thử 夢繞神 州路, 悵秋風, 連營畫角, 故宮離黍 ( Mộng vượt đường cái quan, gió thu nổi, doanh trại tù và, cung xưa hoang phế ) “ *] từ khi trải qua cuộc loạn lạc; muôn dân ai oán biết làm sao được. Tử Mĩ [* hiệu của Đỗ Phủ, 712 – 770, nhà thơ lớn của Trung Quốc, gặp loạn An Lộc Sơn 安祿山, đã phải sống lang bạt. Trong bài Trung dạ 中夜, ông viết : “ Cố quốc phong vân khí, Cao đường chiến phạt trần. Hồ sồ phụ ân trạch, Ta nhữ thái bình nhân. 故國風雲氣, 高堂戰伐塵. 胡雛負恩 澤,嗟爾太平人 ( Quê cũ gió mây khuất, Bụi trận bám nhà cao. Nhãi Hồ phủi ân huệ, Dân lành khổ biết bao ) “ *] giữ mãi tấm lòng trung cô đơn với giang sơn nhà Đường; Bá Nhân [* Bá Nhân 伯仁, tên tự của Chu Nghĩ 周 顗, người vùng An-thành 安成 Nhữ-nam 汝南 ( nay là phía đông nam huyện Nhữ-nam 汝南縣, tỉnh Hà-nam 河南省 ), từng giữ chức thượng thư tả bộc xạ 尚書左僕射, hưởng công cha mà được phong tước hầu, nên còn có tên là Chu hầu 周侯. Tham khảo Tấn thư 晉書, chương Vương Đạo truyện 王導傳. Vào thời Tấn Huệ đế 晉惠帝, các danh sĩ lánh nạn phía bắc, xuống nơi này tụ tập ( tham khảo do cụm Vĩnh-gia chi họa 永嘉之禍 mà có cụm từ Y quan nam độ 衣冠南渡. ). Trong một cuộc họp, Bá Nhân đã khảng khái mà thốt ra câu “ Phong cảnh bất thù, cử mục hữu giang hà chi dị 風景不殊, 舉目有江河之 異 ( Cảnh vật không khác, mà sao ngước mắt nhìn sông nước thấy xa lạ ). Nói rồi nước mắt rưng rưng. *] giỏ hai hàng lệ khóc than cho vận mệnh nước Tấn. Mấy năm gần đây các biến cố khiến cho con người già đi; thu về nơi xứ lạ khiến lòng khách chan chứa. Ba chục năm trời danh hão [* hư danh 虛名: ( a. Lời khen không xứng với thực tế . Theo Hạt quan tử 鶡冠子, chương Độ vạn 度萬: “ Hư danh tương cao, tinh bạch vi hắc 虛名相高, 精白為黑 ( Lời quá khen, trắng toát thành đen ) “ . Từ Can 徐干, cũng viết là 徐 幹, 170 – 217, nhà văn thời Đông Hán 東漢, trong Trung luận 中論, chương Vong quốc 亡國 : “ Mãng chi vi nhân dã , nội thật gian tà , ngoại mộ cổ nghĩa, diệc sính cầu danh nho, trưng mệnh thuật sĩ … đồ trương thiết hư danh dĩ khoa hải nội , Mãng diệc tốt dĩ diệt vong 莽 之為人也, 內實姦邪, 外慕古義, 亦聘求名 儒, 徵命術士 … 徒張設虛 名以誇海內,莽 亦卒以 滅 亡 ( Vương Mãng là một người, trong lòng thật là gian tà, nhưng vẻ bề ngoài lại tỏ ra trọng nghĩa cũ, lại ưa thích lôi kéo những học giả danh tiếng, thu phục kẻ cơ hội,… để huênh hoang mang cái danh hão khoe cùng mọi người, Mãng sớm bị tiêu ma mà thôi ) “. Tần Quan 秦觀 , 1049 – 1100, nhà văn thời Bắc Tống 北 宋 trong Tài dụng thượng 財用上 : “ Tấn nhân Vương Diễn giả, khẩu bất ngôn tiền nhi chỉ dĩ vi a đổ vật, thần thiết tiếu chi, dĩ vi thử nãi gian nhân cố vi kiểu kháng, đạo hư danh vu ám thế dã 晉 人 王衍 者, 口不言錢 而指以為 阿堵物, 臣竊笑之, 以為此乃姦 人故為矯亢, 盜虛名 於暗世也 ( Vương Diễn, người nước Tấn, miệng không nói tiền mà dùng cụm “ cái của khỉ kia “. Thần chỉ cười thầm, đó là người gian mà làm bộ khác người, trộm cái lời rỗng tuếch mà loè thiên hạ ) “)*] có làm được cái gì; muôn việc cũ quay đầu nghĩ lại thôi đều phó cho giấc mộng nơi cành phiá nam [* Nam kha 南柯: cành phía nam , trong cụm Nam-kha mộng 南柯夢 , Nam-kha là một quận trong Hoè quốc, Hoè quốc mộng 槐國夢 hay Hoè-an mộng 槐安夢 đúng hơn là Đại hòe an quốc mộng 大槐安國 夢 theo truyện thần kì của Lí công Tá 李公佐, nhà văn thời Đường 唐, nhan là Nam kha thái thú truyện 南柯太守傳, Thuần vu Phần 淳於棼 ngồi uống rượu dưới gốc cây hoè , khi say rồi mơ thấy tới nơi cửa thành có đề chữ Đại hòe an quốc 大槐安國 . Được vua nước này tuyển làm phò mã , bổ nhiệm chức thái thú quận Nam kha ( Nam kha thái thú 南柯 太守 ) , làm được ba mươi năm , hưởng giàu sang phú quí. Khi tỉnh giấc, thấy dưới gốc cây hoè có tổ kiến lớn, cành phía nam cũng có một tổ nhỏ . Suy ra từ giấc mơ tổ̉ kiến lớn là Đại hòe an quốc , tổ nhỏ là quận Nam-kha. Sau này cụm từ dùng chỉ “ cuộc đời là một giấc mộng “, “ giàu sang chỉ là cảnh vô thường “. Lục Du 陸游, 1125—1210 nhà thơ thời Nam Tống 南 宋, trong Thu vãn 秋晚 : “ Huyễn cảnh hòe an mộng, Nguy cơ trúc tiết than 幻境 槐安 夢, 危機竹節灘 ( Mơ Hoè an cảnh ảo, Thác Trúc tiết khi nguy ) “. Nguyễn gia Thiều : trong Cung oán ngâm khúc câu 83-84 “ Giấc Nam-kha khéo bất bình, Bừng con mắt dậy thấy mình tay không “*]
Dịch vần :

Nước nhà từ lúc loạn lên rồi,
Muôn dân cực khổ biết nhờ ai!
Đời Đường, Tử Mĩ lòng trung giữ,
Nước Tấn, Bá Nhân lệ tiếc rơi.
Mấy năm loạn lạc người đâm cỗi,
Thu tới chân trời dạ rối bời.
Ba chục năm dư, danh dự hão,
Mọi sự suy ra hệt mộng thôi!

Và về thăm làng , với một tâm trạng não nề trong bài

Qui Côn-sơn chu trung tác.
歸 崑 山 舟 中 作

Thập niên phiêu chuyển thán bồng bình,
十年飄轉嘆蓬萍
Qui tứ dao dao nhật tự tinh
歸思搖搖日似旌
Kỷ thác mộng hồn tầm cố lý,
幾托夢魂尋故里
Không tương huyết lệ tẩy tiên oanh.
空將血淚洗先塋
Binh dư cân phủ ta nan cấm,
兵餘斤斧嗟 難禁
Khách lí giang sơn chỉ thử tình.
客裡江山只此情
Uất uất thốn hoài vô nại xử,
灪灪寸懷無奈處
Thuyền song thôi chẩm đáo thiên minh.
船窗推枕到天明
Giải xuôi : Viết ra khi đi thuyền về Côn Sơn.
Mười năm trôi nổi than cảnh bồng bềnh [* bồng bình 蓬萍 hay đảo ngược thành bình bồng 萍蓬 : cỏ bồng và bèo. Bèo trôi trên sông, phó mặc cho nước cuốn, Bồng : loại cỏ rễ cạn, mọc thành hình cầu, vào mùa thu lá bị khô héo, khi gió thổi cuốn đi cả cụm. Dùng để thí dụ thân thế long đong qua cụm chuyển bồng 轉蓬 . Theo Hậu Hán thư 後漢書, chương Dư phục chí 輿服志: “ Thượng cổ thánh nhân, kiến chuyển bồng thủy tri vi luân 上古聖人, 見轉蓬始知為輪 ( Thánh nhân thời cổ, thấy cỏ bồng theo gió cuốn đi mà chế ra bánh xe )”. Tào Thực 曹植, 192 – 232 , nhà thơ nước Ngụy 魏 thời Tam quốc 三國 trong Tạp thi 雜詩: “ Chuyển bồng li bổn căn , Phiêu diêu tùy trường phong 轉蓬離本根, 飄颻隨長風 ( Bồng cuốn rời gốc chính, lênh đênh theo gió mạnh )”. Lí Thiện 李善 chú có dẫn sách Thuyết uyển 說苑 : “ Lỗ ai công viết : Thu bồng ác kì bổn căn, mĩ kì chi diệp, thu phong nhất khởi , căn bổn bạt hĩ 魯哀公 曰 :秋蓬惡 其本根,美其枝葉, 秋風一起,根本拔矣 ( Lỗ ai công nói rằng : Cỏ bồng vào mùa thu ghét cái gốc chính của mình, mà tự hào về cái đẹp của lá, Khi gió thu vừa nổi, gốc chính bật lên cả ) “. Sầm Tham 岑參 ,715 – 770 , nhà thơ thời Đường 唐 trong Tống Kì Nhạc qui Hà-đông 送祁樂歸河東 : “ Điểu thả bất cảm phi, Tử hành như chuyển bồng 鳥且不敢飛, 子行如轉蓬 ( Chim đã không dám bay, Anh đi hệt cỏ cuốn ) “. Đỗ Phủ 杜甫, 712 – 770 nhà thơ thời Đường 唐 trong Tương biệt Vu-giáp tặng Nam khanh huynh Nhương tây quả viên tứ thập mẫu 將別巫峽贈南卿兄瀼西果園四十畝: “ Đài trúc tố sở hảo, Bình bồng vô định cư 苔竹素所好, 萍蓬無定居 ( Rêu trúc phô vẻ đẹp, Bèo, bồng cứ nổi trôi. ) “ *] ; ý mong về quê náo nức lúc nào cũng như cờ lộng gió. Bao nhiêu lần nhờ mộng mà về quê cũ; chỉ đem nước mắt rướm máu mà rưới lên mộ tổ tiên. Trong cảnh chiến tranh gươm dáo [* cân phủ 斤斧 : vũ khí, binh khí . Tôn quang Hiến 孫光憲, 900 – 968, nhà thơ thời Bắc Tống 北 宋 trong Bắc mộng tỏa ngôn 北夢瑣言, quyển 7 : “ Tuyên tông sách Triệu Hỗ thi, kì quyển thủ hữu “ Đề Tần hoàng thi “, kì lược vân : “ Đồ tri lục quốc tùy cân phủ, Mạc hữu quần nho định thị phi 宣宗索 趙嘏 詩,其卷首有 ”題秦皇詩”,其略云:‘ 徒知六國隨斤 斧,莫有羣儒 定是非 ( Vua Tuyên Tông theo bài thơ của Triệu Hỗ, trong tập có bài Đề Tần hoàng thi, tóm lược như sau : “ Tóm thâu sáu nước nhờ binh khí, Phải trái đừng nghe bọn hủ nho.” ) “ *], khó tránh nổi được; nơi đất khách chỉ có mỗi mối tình này. Tấm lòng tấm tức biết làm sao được; nơi cửa thuyền trằn trọc trên gối, cho đến sáng trời.
Dịch vần :

Mười năm lưu lạc khổ bơ vơ,
Lòng về náo nức hệt ngọn cờ.
Chỉ cậy hôn mê tìm lối xóm,
Uổng mang máu lệ rưới trên mồ.
Giữa chốn giáo gươm khôn tránh hoạ,
Trong nơi đất khách, trí toan lo.
Tấm lòng ấm ức không nơi giải,
Mạn thuyền trằn trọc gối vò tơ.

Tuy thế lòng vẫn mong trả nợ nước; trong bài :

Đoan-ngọ nhật.
端午日
[* Đoan-ngọ nhật 端午日: là ngày mồng 5 tháng 5 theo nông lịch. Chữ Ngọ 午 là do chữ Ngũ 五 viết tháu mà thành. Theo truyền thống trong dân gian là một tiết trong năm. Ngày này đã trở thành lễ hội tưởng niệm ngày Khuất Nguyên trầm mình trên sông Mịch-la 汩羅. Trong lễ hội có tập tục gói bánh tro ( khỏa tống tử 裹粽子 ) và đua thuyền rồng ( trại long chu 賽龍舟 ), trong dân gian còn có tục gọi là ngày giết sâu bọ *]
Thiên trung cộng hỉ trị giai thần,
天中共喜值隹辰
Tửu phiếm xương bồ tiết vật tân.
酒泛菖蒲節物新
Tiến thiếp đương niên tư Vĩnh Thúc,
進帖當年思永叔
Trầm Tương để sự thán Linh Quân.
沉湘底事嘆靈圴
Tịch tà bất dụng ti triền tý,
闢邪不用絲纏臂
Tùy tục liêu vi ngải kết nhân.
隨俗聊為艾結人
Nguyện bả lan thang phân tử hải
願把蘭湯分四海
Tòng kim táo tuyết cựu ô dân.
從今澡雪舊污民
Giải xuôi : Ngày đoan ngọ.
Giữa trưa ai cũng mừng gặp được lúc trời đẹp, nhân sang tiết mới nên rót rượu ngâm cỏ xương bồ [* xương bồ 菖蒲 tên một loại thực vật danh , thuộc loại thảo sống dưới nước, có hương thơm. Theo Hiếu kinh 孝經, chương Viên thần khế 援神契 : “ Tiêu khương ngự thấp, Xương bồ ích thông 椒薑禦濕, 菖蒲益聰 ( Tiêu, gừng ngăn nhức, Xương bồ tỉnh thêm ). Li đạo Nguyên 酈道元, 470 – 527, nhà văn hóa Bắc Ngụy 北魏, trong Thủy kinh chú 水經註, chương Y thủy 伊水 : “ Thạch thượng xương bồ , nhất thốn cửu tiết, vi dược tối diệu , phục cửu hóa tiên 石上菖蒲, 一寸九 節, 為藥最妙, 服久化僊 ( Xương bồ trên đá, Một tấc chín cành. Làm thuốc rất hay, Uống lâu thành tiên ) “ *] để uống. Vẫn nhớ chuyện Vĩnh Thúc [* Vĩnh Thúc 永叔 tên tự của Âu Dương Tu 歐 陽 修, 1007 – 1072, hiệu Tuý ông 醉翁, nhà thơ thời Bắc Tống 北 宋 . Ông có bài thiếp Hoàng đế cáp đoan ngọ thiếp tử từ 皇帝閤端午帖子詞 : “Thuấn vũ lai hà tục 舜舞來遐俗/, Nghiêu nhân hiệp cửu khu 堯仁洽九區 / ngũ binh tiêu dĩ đức 五兵消以德, / hà dụng xích linh phù, / 何用赤靈符 ( Chốn xa mưa Thuấn rưới, Khắp nước Nghiêu nhân nhuần. Dùng đức, binh triệt hết, Bùa rồng đỏ đâu cần. ) “*] dâng giấy năm xưa, Than tiếc Linh Quân [* Linh Quân 靈圴 là tên tự của Khuất Nguyên 屈原 340 BC – 278 BC, tên là Bình 平, cũng có tên hiệu là Chính Tắc 正則 , người nước Sở 楚, thời Chiến-quốc 戰國. Sinh quán vùng Đan-dương丹陽 ( nay là huyện Tỉ-qui 秭歸縣, Hồ-bắc ) Từng giữ chức Tam lư đại phu 三閭大夫. Thời vua Hoài Vương 懷王 mắc lỗi và bị phóng trục lên vùng bắc Hán, bi phẫn viết ra thiên Li tao 離騷 để tỏ lòng trung trinh. Sau đó lại gọi về. Ít lâu sau lại mắc lỗi ‘ nói bừa ‘, lần này phóng trục xuống vùng nam Sở ( Giang Nam 江南 ). Vào tháng năm năm BC 278, quân nhà Tần phá tan kinh đô Dĩnh 郢 của nước Sở, ông quá bi phẫn, nên ôm đá mà nhảy xuống sông Mịch-la 汩羅 trong vùng Trường-sa 長沙. Thêm các chương Thiên Vấn 天問, Cửu Chương九章, gom chung lại là Sở Từ 楚辭 *] về việc chìm xuống đáy sông Tương. Để trừ tà, không buộc chỉ nơi cổ tay [* ti triền tí 絲纏臂 : buộc chỉ cổ tay . Theo tập tục Trung-quốc, vào tiết đoan ngọ dân chúng kỉ niệm ngày Khuất Nguyên tự trầm, có làm bánh tro, bánh ú ( tống tử 粽子, hay vụ giác thử 鶩角黍 ), có bọc lá tre hay lá lau , cột chỉ năm mầu. thả xuống sông. Có người giải thích để cho cá ăn thay vì rỉa xác Khuất Nguyên. Theo Sơ học kí 初學記 , quyển tứ trích dẫn sách Phong thổ kí 風土記 của Chu Xử 周處, 236 – 297, nhà văn học thời Tây Tấn 西晋 : “ Trọng hạ đoan ngọ, phanh vụ giác thử 仲夏端午, 烹鶩角黍 ( Giữa hè, vào dịp tiết đoan ngọ, luộc bánh ú ) “ . Ngô Quân 吳均 , nhà thơ nước Lương 梁 , thời Nam Bắc triều 南北朝, trong Tục tề hài kí 續齊諧記 , chương Ngũ hoa ti tống 五花絲粽 : “ Khuất nguyên ngũ nguyệt ngũ nhật đầu Mịch-la thủy, Sở nhân ai chi, chí thử nhật , dĩ trúc đồng tử trữ mễ, đầu thủy dĩ tế chi … kim thế ngũ nguyệt ngũ nhật tác tống , tịnh đới đống diệp ngũ sắc ti, giai Mịch-la di phong dã 屈原 五月五日投 汨羅水 , 楚 人哀之, 至此日, 以竹筒子貯米, 投水以祭之…世五月五日作粽, 並帶棟 葉五色絲, 皆 汨羅 遺風也 ( Khuất Nguyên vào ngày mồng năm tháng năm nhảy xuống sông Mịch-la, Người nước Sở đau lòng, nên hàng năm tới ngày này, lấy ống tre chứa gạo, thả xuống sông để tế…. Đời sau vào ngày mồng năm tháng năm làm bánh cùng cột vào sống lá có tơ năm mầu, đều là phong tục còn truyền lại từ vùng sông Mịch-la ) “. Tô Thức 蘇軾, 1036 – 1101 nhà thơ thời Bắc Tống 北 宋 trong bài Trúc chi ca 竹枝歌 : “ Thủy tân kích cổ hà huyên điền, Tương tương khấu thủy cầu Khuất Nguyên 水濱擊鼓何喧闐, 相將扣水求 屈原 ( Bên sông trống đánh sao náo nhiệt, Tưởng như khuấy nước tìm Khuất Nguyên ) “ . Âu dương Tu 歐陽修 , 1007 – 1072, nhà thơ thời Bắc Tống 北 宋 trong Ngư gia ngạo 漁家傲 bài Ngũ nguyệt lựu hoa yêu diễm hồng từ 五月榴花妖艷烘 詞 : “ Lục dương đới vũ thùy thùy trọng, Ngũ sắc tân ti triền giác tống 綠楊帶雨垂垂 重, 五色新絲纏角粽 ( Dương xanh bị mưa, nặng nên rũ ,Tơ năm mầu mới cột bánh ú ) “ . Trương Củ 張榘 ???- 1208 – ???, nhà thơ thời Bắc Tống 北 宋 trong Niệm nô kiều 念奴嬌 : “ Sở Tương cựu tục , Kí bao thử trầm lưu , miễn hoài trung tiết . Thùy vãn Mịch-la thiên trượng tuyết , Nhất tẩy ta hồn li biệt . Doanh đắc nhi đồng , hồng ti triền tí, giai thoại niên niên thuyết . Long chu tranh độ , khiên kì chúy cổ kiêu liệt 楚湘舊俗, 記包黍 沈流, 緬懷忠節. 誰輓汨羅千丈 雪, 一洗些魂離 別. 贏得兒童, 紅絲纏臂, 佳話年年說. 龍舟爭渡, 搴旗捶鼓驕劣 ( Tục xưa Sở Tương, Nhớ gói gạo thả trôi,Thương hoài lòng trung. Ai khóc ngàn trượng tuyết nơi Mịch-la, Để rửa hồn xa cách kia, Có được lũ trẻ, Tơ hồng cột tay, Giai thoại năm năm kể lại. Thuyền rồng tranh đua, Vung cờ, gióng trống ngạo nghễ ) “ . Tô Thức 蘇軾, 1036 – 1101, nhà thơ thời Bắc Tống 北 宋 trong bài Hoán khê sa : “ Khinh hãn vi vi thấu bích hoàn , Minh triêu đoan ngọ dục phương lan . Lưu hương trướng nị mãn tình xuyên , Thái tuyến khinh triền hồng ngọc tí , tiểu phù tà quải lục vân hoàn 輕汗微微透碧紈,明朝端午浴芳蘭. 流香漲膩滿 晴川, 彩綫輕纏紅 玉臂, 小符斜掛綠 雲鬟 ( Sáng ngày đoan ngọ tắm nước thơm. Hương trôi sáp bóng dòng yên ắng, Sợi đẹp nhẹ đeo tay ngọc hồng. Bùa nhỏ đeo nghiêng, tóc mây biếc ) “ . Triệu trường Khanh 趙長卿 , ??? – ???, nhà thơ thời Nam Tống 南 宋 trong tập Túy Bồng-lai 醉蓬莱 , bài Đoan ngọ 端午: “ Na cánh ân cần 那更殷勤, / Tái tam chúc nguyện 再三祝願. / Đấu xảo hợp hoan 鬥巧合歡, / Thái ti triền tí 彩絲纏臂. / Khắc ngọc hương bồ 刻玉香蒲, / Phiếm kim quang nghênh túy 泛金觥迎醉 / . Ngọ nhật huân phong 午日熏風 , / Sở từ cao vịnh 楚詞高詠, / Độ át vân thanh thúy 度遏雲聲脆 / Xích khẩu bạch thiệt 赤口白舌, / Tòng kim tiêu diệt 從今消滅, / Chư dư khả ý 諸餘可意 ( Sao mà náo nức, Ba lần cầu xin. Họp nhau khoe khéo. Tơ óng cột tay, Cỏ bồ hương ngát. Chén vàng cùng say, Mép đỏ lũ vẹt, Từ nay chết hết, Bọn nó hiểu ý ) “ *], theo phong tục cũ cũng lấy lá ngải bện hình người [* Ngải kết nhân 艾結人 : lấy lá ngải cứu kết thành hình người nộm. Tông Lẫm 宗懍 , 501 – 565 , nhà văn nước Lương 梁 thời Nam Bắc triều 南北朝, trong Kinh Sở tuế thì kí 荊楚歲時記: “ Ngũ nguyệt ngũ nhật tứ dân tịnh đạp bách thảo… thái ngải dĩ vi nhân, huyền môn hộ thượng, dĩ nhương độc khí 五月五日四民並蹋百草… 采艾以為人, 懸門戶上, 以禳毒氣 ( Ngày mồng năm tháng năm, dân các nơi, cùng dẫm cỏ…hái lá ngải bó thành hình người, treo trước cửa nhà, để trừ khí độc ) “ *]. Nguyện đem nước thơm [* lan thang 蘭湯: nước tắm có pha dầu thơm. Khuất Nguyên 屈原 trong Sở Từ 楚辭 chương Cửu ca 九歌 , bài Vân trung quân 雲中君 : “ Dục lan thang hề mộc phương, hoa thải y hề nhược anh 浴蘭湯兮沐芳,華採衣兮若英 ( Tắm nước lan chừ gội nước thơm, Áo năm mầu chừ hoa đỗ nhã ) “. Nguyễn Tịch 阮籍, 210 – 263, nhà thơ thời Tam quốc 三國, nước Ngụy 魏 trong Tiển hầu phú 獮猴賦 : “ Mộc lan thang nhi tư uế hề, Phỉ Tống triều chi mị nhân 沐蘭湯而滋穢兮, 匪宋朝之媚人 ( Nước ấm mộc lan rửa dơ chừ, Không phải là người đẹp triều Tống sao ) “ . Vũ đế 武帝 nước Lương 梁 , thời Nam Bắc triều 南北朝, trong bài Hoạ thái tử sám hối thi 和太子懺悔詩 : “ Lan thang dục thân cấu, Sám hối tịnh tâm linh 蘭湯浴身垢,懺悔淨心靈 ( Nước lan rửa thân dơ, Sám hối khiến tâm tĩnh. ) “*] chia đều khắp bốn biển, để từ nay rửa sạch cái nhơ nhớp cũ của nhân dân.
Dịch vần :
Giữa trưa trời đẹp lại vui cùng,
Tiết mới, xương bồ ngâm rượu trong.
Không quên Vĩnh Thúc, ngày dâng sớ,
Còn tiếc Linh Quân lúc nhảy sông.
Theo tục, người ngải bện thành, có,
Trừ ma, cổ tay tơ cột, không.
Xin lấy nước thơm vung bốn biển,
Nhục cũ nhân dân rửa sạch bong.

Và rồi nơi cửa sông Bạch-đằng, chiến thắng quân xăm lăng của dân Việt bừng lên trong lòng ông.

Bạch-đằng hải khẩu.
白 藤 海 口

Sóc phong xuy hải, khí lăng lăng ,
朔風吹海,氣凌凌
Khinh khởi ngâm phàn quá Bạch-đằng.
輕起吟帆過白藤
Ngạc đoạn kình khô sơn khúc khúc,
鱷斷鯨刳山曲曲
Qua trầm kích chiết ngạn tằng tằng.
戈沉戟折岸層層
Quan hà bách nhị do thiên thiết,
關河百二由天設
Hào kiệt công danh thử địa tằng.
豪傺功名此地曾
Vãng sự hồi đầu ta dĩ hĩ,
往事回頭嗟已矣
Lâm lưu phủ ảnh ý nan thăng.
臨流撫影意難勝

Giải xuôi : Cửa biển Bạch-đằng .
Gió bấc thổi trên biển, hơi biển ngùn ngụt; nhẹ kéo cánh buồm thuyền ngắm cảnh làm thơ để đi qua cửa Bạch Đằng. Từng khúc núi [* rải rác *] như cá sấu bị chặt, cá kình bị mổ; chồng từng lớp như những mũi giáo chìm, cây xích gãy. Ải sông hiểm trở [* Bách nhị 百二 Dùng hai người chống lại trăm người, lấy ít chọi nhiều . Sau này dùng chỉ non sông hiểm trở. Tư-mã Thiên 司馬遷 trong Sử kí 史記 chương Cao tổ bổn kỉ 高祖本紀 : “ Tần, hình thắng chi quốc , đái hà sơn chi hiểm, huyền cách thiên lí , trì kích bách vạn , Tần đắc bách nhị yên 秦, 形勝之國, 帶 河 山之險, 縣隔千里, 持戟百萬, 秦 得百二焉 ( Nước Tần có hình thể thuận lơi, có núi sông chắn hiểm, cách xa cả ngàn dặm, ngăn chặn được cả trăm vạn người. Tên được dùng mô tả cái thế chỉ cần hai người mà chống giữ được trăm kẻ địch. Nước Tần có được cái thế “ Trăm hai “.) “. Bùi Nhân 裴駰 trong Tập giải 集解 có viện dẫn Tô Lâm 蘇林 nói : “ Tần địa hiểm cố , nhị vạn nhân túc đương chư hầu bách vạn nhân dã 秦 地險固, 二萬人 足當諸侯百萬人也 ( Đất Tần hiểm trở, hai vạn người có thể địch lại trăm vạn người của các chư hầu ) “. Đỗ Phủ 杜甫, 712 – 770 nhà thơ thời Đường 唐 trong Chư tướng ngũ thủ 諸將五首, bài ba : “ Lạc-dương cung điện hóa vi phong, Hưu đạo Tần-quan bách nhị trùng. 洛陽 宮殿化為烽,休道秦關 百二重 ( Cung điện Lạc-dương bị cháy tiêu, Trăm hai Tần ải, chớ kêu rêu ) “. Tư-mã Trinh 司馬貞, ??? – ???, sử gia đời Bắc Tống trong Sách ẩn 索隱, có dẫn lởi Ngu Hỉ 虞喜 nói rằng : “ Ngôn chư hầu trì kích bách vạn, Tần địa hiểm cố, nhất bội vu thiên hạ, cố vân đắc bách nhị yên , ngôn bội chi dã, cái ngôn Tần binh đương nhị bách vạn dã 言諸侯持戟百萬,秦 地險固,一倍 於天下, 故云得百二焉, 言倍之也, 蓋言 秦 兵當二百 萬也 ( Nói rằng chư hầu có trăm vạn người cầm dáo, mà đất Tần hiểm cố, hơn trong thiên hạ, cho nên mới nói rằng được trăm hai , nói là hơn vậy. Vì nói quân Tần đương đầu với hai trăm vạn ) “. Trương Tải 張載, 1020 – 1077, nhà văn thời Bắc Tống 北 宋 trong bài Kiếm các minh 劍閣銘 : “ Tần đắc bách nhị, tính thôn chư hầu 秦 得百二,並吞諸侯 ( Tần được trăm hai, nuốt gọn chư hầu. ) “. Theo Chu thư 周書 , chương Hạ lan Tường truyện 賀蘭祥傳 : “ Cố tắc thần cao Tây nhạc , hiểm tắc bách nhị do tại 固則神皋 西岳 , 險則百二猶在 ( Xưa vì thần minh ở̉ núi Tây, hiểm tất bách vạn trong đó ) “. Vương thanh Huệ 王清惠, 1265 – 1294, nhà thơ thời Nam Tống 南 宋 trong Mãn giang hồng 滿江紅 , bài Đề dịch bích 題驛壁 : “ Long hổ tán, phong vân diệt , thiên cổ hận , bằng thùy thuyết!Đối sơn hà bách nhị , lệ triêm khâm huyết 龍虎散, 風雲滅, 千古恨, 憑誰説!對山河百二, 淚沾 襟血 ( Rồng cọp tan, gió mây ngưng, suốt đời hận, nói cùng ai. Với non sông bách nhị, lệ rơi áo máu ) “.*] là do trời đặt ra; sự nghiệp của các bậc anh hùng từng sảy ra nơi đất này [* Sông Bạch Đằng nổi tiếng với 3 chiến công của dân tộc Việt Nam: Trận thủy chiến sông Bạch Đằng năm 938: Ngô Quyền đánh thắng quân xâm lược Nam Hán. Trận thủy chiến sông Bạch Đằng năm 981: Hoàng đế Lê Đại Hành đập tan quân Tống xâm lược. Trận thủy chiến sông Bạch Đằng năm 1288: Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn đại thắng quân xâm lược Nguyên (trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên lần thứ ba). Hiện ở khu vực cửa sông Bạch Đằng có 3 ngôi đền thờ 3 vị anh hùng trên đó là đình Hàng Kênh (Lê Chân, Hải Phòng) thờ Ngô Quyền, đền Vua Lê Đại Hành ở thị trấn Minh Đức (Thủy Nguyên, Hải Phòng) và đền Trần Hưng Đạo ở xã Yên Giang,( Quảng Yên, Quảng Ninh). Nguồn : http://vi.wikipedia.org/wiki/ *] . Quay đầu xem việc cũ, thôi hết rồi; cúi xuống dòng mò bóng, nói không hết ý.
Dịch vần :

Hơi bể bừng lên, gió bắc đưa,
Bạch đằng đi tới, cuốn buồm thơ.
Gươm gãy, dáo chìm, bờ khuất khúc,
Kình băm, ngạc chặt, núi lô nhô.
Cửa ải trăm hai, trời đã đặt,
Anh hùng sự nghiệp, đất từng phô.
Nghĩ coi việc cũ, thôi đành hết,
Dưới sông tìm bóng ý ngẩn ngơ.

Rồi tìm người đồng chí, mưu đồ việc lớn :

Kí hữu.
寄友
Bình sinh thế lộ thán truân chiên,
平生世路嘆迍邅
Vạn sự duy ưng phó lão thiên.
萬事惟應付老天
Thốn thiệt đãn tồn không tự tín,
寸舌但存空自信
Nhất hàn như cố diệc kham liên.
一寒如故亦堪憐
Quang âm thúc hốt thì nan tái,
光陰倏忽時難再
Khách xá thê lương dạ tự niên.
客舍淒涼夜似年
Thập tải độc thư bần đáo cốt,
十載讀書貧到骨
Bàn duy mục túc tọa vô chiên.
盤惟苜蓿坐無氈

Giải xuôi : Gửi bạn.
Trong cuộc đời thường than vãn là đường đi vất vả [* truân chiên 迍邅 , cũng viết là 屯邅: ở vào hoàn cảnh bất lợi, khó khăn , khốn đốn . Cụ thể chỉ đường đi găp gềnh. Tả Tư 左思, 250 – 305, nhà văn học thời Tây Tấn 西晋 trong bài Vịnh sử 詠史, bài 7 : “ Anh hùng hữu truân chiên , Do lai tự cổ tích 英雄有迍邅, 由來自古昔 ( Anh hùng gặp khó khăn, Gốc vốn từ thời trước ) “. Trương Trạc 張鷟, 660 – 740, nhà thơ thời Đường 唐 trong Du tiên quật 游仙窟: “ Ta vận mệnh chi truân chiên, Thán hương quan chi miễu mạc 嗟運命之迍邅, 嘆鄉關之眇邈 ( Kêu vận mệnh gặp khó khăn, Than làng cũ nơi xa tắp ) “. Sái Ung 蔡邕, 133 – 192, nhà thư pháp thời Hán 漢, trong Thuật hành phú 述行賦 : “ Đồ truân chiên kì kiển liên, Lạo ô trệ nhi vi tai 途迍邅其蹇連, 潦污滯而為災 ( Đường khấp khểnh, bước gập gềnh, Lội nước lụt nên gặp nạn ) “ *] , nên mọi sự cứ phó mặc cho ông trời già. Tấc lưỡi vẫn còn thì vẫn còn tự tin, cái nghèo như xưa thì nghĩ cũng đáng thương. Ngày tháng qua vun vút, thời gian khó lấy lại; quán trọ buồn tênh, một đêm mà dài như một năm. Mười năm đọc sách [* thập tải độc thư 十載讀書 : học tập trong mười năm , tương đồng với thập niên độc thư 十年讀書. Nam sử 南史 , quyển 37 : Thẩm Khánh chi truyện 沈慶之傳: “ Tảo tri cùng đạt hữu mệnh, hận bất thập niên độc thư 早知窮達有 命, 恨不十年讀書 ( Sớm biết thành bại do số, Tiếc chẳng mười năm học hành ) “ . Hoàng đình Kiên 黃庭堅, 1045 -1105, nhà thơ thời Bắc Tống 北 宋 , trong bài Tống lưu quý triển tòng quân Nhạn môn 送劉季展從軍鴈門, bài thứ nhất : “ Thiên lí hạ qua phòng khuyển dương, thập niên độc thư yếm lê hiện 千里荷戈防犬羊, 十年讀書厭 藜莧 ( Ngàn dặm vác đao phòng chó dại, Chục năm đèn sách chán rau sam ) “ *] mà vẫn nghèo trơ xương; mâm cơm chỉ có rau [* mục túc 苜蓿 : tên loại rau được viết theo âm của ngôn ngữ Đại-uyển 大苑 là buksuk . Một loại thực vật thuộc họ đậu mà ngựa thích ăn, Anh ngữ alfalfa . Các nước vùng Tây-vực 西域 thấy mọc nhiều. Thời vua Hán vũ Đế 漢武帝, Trương Khiên 張騫 đi sứ vùng Tây-vực 西域, lần đầu tiên mang từ Đại-uyển vào Trung quốc. Còn có tên là Hoài phong thảo 懷風草, Quang phong thảo 光風草 , Liên chi thảo 連枝草. Tư mã Thiên 司馬遷 trong Sử kí 史記 chương Đại-uyển liệt truyện 大宛 列傳 : “ ( Đại uyển ) tục thị tửu , mã thị mục túc . Hán sứ thủ kì thật lai . Vu thị thiên tử thủy chủng mục túc , bồ đào phì nhiêu địa . Cập thiên mã đa, ngoại quốc sử lai chúng, tắc li cung biệt quan bàng tẫn chủng bồ đào, mục túc cực vọng ( 大宛 ) 俗嗜酒,馬嗜苜蓿. 漢 使取其實來. 於是天子始種苜蓿, 蒲陶 肥饒 地. 及天馬多,外國 使來眾,則 離宮別觀旁盡種蒲萄, 苜蓿極 望 ( ( Người Đại uyển ) Thích uống rượu, ngựa ưa gặm cỏ mục túc . Sứ nhà Hán mang hột về. Nhờ đó nhà vua mới bắt đầu trồng mục túc, nho trên vùng đất mầu mỡ. Tới khi có nhiều ngựa tốt, các sứ giả nước ngoài tới nhiều, nên bên cạnh các nhà trọ, quán tiếp tân trồng mục túc, nho đầy trông hút mắt. ) “. Có cụm từ liên quan : Mục túc trường lan can 苜蓿長欄干, theo Đường thi kỉ sự 唐詩紀事 : Tíết lệnh Chi 薛令之, 683 – 756, nhà thơ thời Đường 唐 trong bài Tự điệu 自悼 : “ Triêu nhật thượng đoàn đoàn , Chiếu kiến tiên sinh bàn . Bàn trung hà sở hữu ? Mục túc trưởng lan can. Phạn sáp thi nan oản, canh hi trứ dịch khoan . Chỉ khả mưu triêu tịch, Hà do bảo tuế hàn ? 朝日上團團, 照見先生 盤. 盤中何所有?苜蓿長闌 干. 飯澀匙難綰, 羹稀箸易寬. 隻 可謀朝夕, 何由保歲寒? ( Rạng đông trời tròn vạnh, Chiếu rõ mâm nhà thầy. Trên đó có gì nhỉ ? Rau muống bàn để đầy. Cơm khô thìa khó múc, Canh ít đũa dễ quay. Đơn người đủ sáng tối, Lấy gì chống lạnh đây? ) “ . Mục túc phong vị 苜蓿風味 theo Nho lâm ngoại sử 儒林外史 , hồi thứ 48 : “ Ngã môn lão đệ huynh yếu thì thường khuất nhĩ lai đàm đàm, liêu bất hiềm ngã mục túc phong vị đãi mạn nhĩ 我們老弟兄要時常屈你來談 談, 料不嫌我 苜蓿風味怠慢你 ( Bọn tôi, anh em thân quen, nhiều lúc thường tới nói chuyện bù khú, chẳng nề hà rau cỏ xuề xoà ) *], ngồi ghế chẳng có đệm.
Dịch vần :
A.
Đời thường than vãn quãng đường xa,
Mọi việc đành trao cụ trời già.
Tấc lưỡi vẫn còn, nên cứ nói,
Nỗi nghèo như cũ, đáng thương ta.
Vun vút thời gian, khôn kéo lại,
Buồn tênh quán trọ, tối dài ra.
Mười năm đèn sách, nghèo vạc mặt,
Ngồi bệt, cơm ăn chỉ có cà.

B.
Vẫn thường than khó quãng đường đời,
Mọi sự đều trao mặc cụ trời.
Tấc lưỡi còn đây, lòng vẫn vững,
Cảnh nghèo như cũ, đáng thương thôi.
Đêm tưởng bằng năm, dài quán trọ,
Ngày qua vùn vụt, khó quay lui.
Công học mười năm, nghèo vẫn đó,
Ăn chỉ có rau, chẳng đệm ngồi.
Và trong bài :

Hoạ hương tiên-sinh vận giản chư đồng chí.
和鄉先生韻柬諸同志

Sầu lai “đốt đốt” mạn thư không
愁來咄咄漫書空
Thiên địa vô cùng thán chuyển bồng.
天地無窮嘆轉蓬
Thế sự hôi tâm đầu hướng bạch,
世事灰心頭向白
Suy nhan tá tửu vựng sinh hồng.
衰顏借酒暈生紅
Lãm huy nghĩ học minh dương phượng,
覽輝擬學鳴陽鳳
Viễn hại chung vi tỵ dực hồng.
遠害終為避弋鴻
Luân lạc thiên nhai câu thị khách,
淪落天涯俱是客
Niên lai xuất xử lược tương đồng.
年來出處略相同

Giải xuôi : Họa vần bài “ Gửi các đồng chí “ của ông trong làng .
Buồn đến, chỉ biết viết hai chữ ‘cha chả ‘ [* “đốt đốt” 咄咄 hệt như Ân Hạo 殷浩 đời Tấn, chán nản việc đời, cứ lấy tay viết bốn chữ ‘ Đốt đốt quái sự 咄咄怪事 ‘ ( Chà chà chuyện lạ ) trong không trung, tỏ ý bất mãn một cách tiêu cực . Đỗ Phủ 杜甫, 712 – 770 nhà thơ thời Đường 唐 trong Đối tuyết 對雪 : “ Sầu tọa đối thư không 愁坐正書空 ( Ngồi buồn viết chữ trên không ) và trong bài Kí Lưu Giáp-châu bá Hoa sử quân tứ thập vận 寄劉峽 州伯 華使君四十韻 : “ Đốt đốt ninh thư tự 咄咄寧書字 ( Sao viết chữ ” chà chà “, lên thế, ) “, cụm từ tỏ ý bất mãn một cách tiêu cực *] trong không khí [* thư không 書空 : lấy ngón tay làm bút để viết trong không, nói gọn của cụm Ân Hạo thư không 殷浩書空: Ân Hạo lấy ngón tay làm bút, viết câu “ Chà chà chuyện lạ ( Đốt đốt quái sự 咄咄怪事 ) “ vào trong không. Tham khảo Tấn thư 晉書 quyển 77 : Ân Hạo truyện 殷浩傳 . Vào thời Tấn, Ân Hạo được lệnh mang quân đi đánh dẹp vùng biên giới, để giữ yên vùng trung nguyên. Sau khi bị bại trận ở Diêu-tương 姚襄, khiến cho Hoàn Ôn 桓溫 khiến trách, Ân Hạo bị truất phế thành thường dân . Không tỏ ý bất mãn, mà chỉ suốt ngày ngồi lấy ngón tay viết lên không trung bốn chữ “ Đốt đốt quái sự 咄咄怪事 “. Sau này cụm từ dùng chỉ chuyện kì quặc, không nói lên được. Nguyên đại tướng Hoàn Ôn và Ân Hạo vốn bất hoà. Khi Ân Hạo đang giữ chức Dương-châu thứ sử 揚州刺史, Vương hi Chi 王羲之 có khuyên Ân Hạo, thế địch đang mạnh, nên coi việc nước là trọng, Ân Hạo không nghe, nhận nhiệm vụ đi đánh dẹp phía bắc, thua trận nên mới bị phát vãng tới Tín-an 信安, trong lòng bất bình mà không nói ra lời được. Lưu nghĩa Khánh 劉義慶, 403 – 444, nhà văn nước Tống 宋 thời Nam Bắc triều 南北朝, trong Thế thuyết tân ngữ 世說新語, chương Truất miễn 黜免: “ Ân trung quân ( Ân Hạo ) bị phế tại Tín-an, chung nhật hằng thư không tác tự , Dương- châu lại dân tầm nghĩa trục chi, thiết thị, duy tác ‘ đốt đốt quái sự ’ tứ tự nhi dĩ 殷中軍 ( 殷浩 ) 被廢在信安, 終日恆書 空作字, 揚州吏民尋義 逐之, 竊視, 唯作 ’咄咄怪事’ 四字而已 ( Quan trung-quân họ Ân ( Ân Hạo ) bị phát vãng tới Tín-an, suốt ngày viết chữ trong không. Các nhân viên ở Dương-châu tới dò coi là chữ gì, lến nhìn , chỉ thấy bốn chữ “ Chà chà chuyện lạ “ mà thôi )*], trong quãng trời đất vô cùng, thân mình xoay chuyển như cỏ bồng [* bồng蓬 : loại cỏ rễ cạn, mọc thành hình cầu, vào mùa thu lá bị khô héo, khi gió thổi cuốn đi cả cụm. Dùng để thí dụ thân thế long đong qua cụm chuyển bồng 轉蓬 . Theo Hậu Hán thư 後漢書, chương Dư phục chí 輿服志: “ Thượng cổ thánh nhân, kiến chuyển bồng thủy tri vi luân 上古聖人, 見轉蓬始知為輪 ( Thánh nhân thời cổ, thấy cỏ bồng theo gió cuốn đi mà chế ra bánh xe )”. Tào Thực 曹植, 192 – 232 , nhà thơ nước Ngụy 魏 thời Tam quốc 三國 trong bài Tạp thi 雜詩: “ Chuyển bồng li bổn căn , Phiêu diêu tùy trường phong 轉蓬離本根, 飄颻隨長風 ( Bồng cuốn rời gốc chính, lênh đênh theo gió mạnh )”. Lí Thiện 李善 chú có dẫn sách Thuyết uyển 說苑 : “ Lỗ ai công viết : Thu bồng ác kì bổn căn, mĩ kì chi diệp, thu phong nhất khởi , căn bổn bạt hĩ 魯哀公 曰 :秋蓬惡其 本根,美其枝葉, 秋風一起,根本拔矣 ( Lỗ ai công nói rằng : Cỏ bồng vào mùa thu ghét cái gốc chính của mình, mà tự hào về cái đẹp của lá, Khi gió thu vừa nổi, gốc chính bật lên cả ) “. Sầm Tham 岑參 ,715 – 770 , nhà thơ thời Đường 唐 trong Tống Kì Nhạc qui Hà-đông 送祁樂歸河東 : “ Điểu thả bất cảm phi, Tử hành như chuyển bồng 鳥且不敢飛, 子行如轉蓬 (Chim đã không dám bay, Anh đi hệt cỏ cuốn ) “. Đỗ Phủ 杜甫, 712- 770 nhà thơ thời Đường 唐 trong Tương biệt Vu-giáp tặng Nam khanh huynh Nhương tây quả viên tứ thập mẫu 將別巫峽 贈南 卿兄瀼西果 園四十畝: “ Đài trúc tố sở hảo, Bình bồng vô định cư 苔竹素所 好, 萍蓬無定居 ( Rêu trúc phô vẻ đẹp, Bèo, bồng cứ nổi trôi. ) “ *] . Đối với việc đời, lòng mình đã thành tro nguội, đầu lại bạc, sắc mặt cằn cỗi, nên mượn rượu làm cho ửng hồng. Nhìn thấy vẻ sáng nên muốn học con chim phượng kêu dưới ánh dương [* Minh dương phượng 鳴陽鳳 tương tự với cụm Minh phượng triều dương 鳴鳳朝陽: tỏ ý kính trọng bậc hiền tài. Người đời sau dùng chỉ bề tôi hiền gặp được vua anh minh Trong Thi Kinh 詩經, phần Đại nhã 大雅 chương Quyền A 卷阿 : “ Phượng hoàng minh hĩ, Vu bỉ cao cương. Ngô đồng sinh hĩ, Vu bỉ triêu dương 鳳皇鳴矣, 於彼高岡. 梧桐生矣, 於彼朝陽 ( Phượng hoàng kêu kià, Tại nơi gò cao. Ngô đồng mọc kìa, tại nơi nắng chói ) “. Trịnh Huyền 鄭玄 giải thích : “Phượng hoàng minh vu sơn tích chi thượng giả, cư cao thị hạ, quan khả tập chỉ, dụ hiền giả đãi lễ nãi hành, tường nhi hậu tập . Ngô đồng giả, do minh quân xuất dã . Sinh vu triêu dương giả, bị ôn nhân chi khí, diệc quân đức dã 鳳皇鳴於山 脊之上者, 居高視下, 觀可集止, 喻賢者待禮乃行, 翔而後集. 梧 桐者, 猶明君出也. 生於朝陽者, 被溫仁之氣, 亦君德也 ( Phượng hoàng kêu ở trên chóp núi, từ trên cao nhìn xuống, thấy có thể xuống đậu được, ý nói rằng kẻ hiền tài theo lễ mà hành động, lượn trước đậu sau. Ngô đồng là tượng trưng cho vua anh minh, mọc nơi ánh sáng chói lọi, có hơi ấm áp hiền hoà, cũng là đức tính của vị vua vậy ) “. Phạm thành Đại 範成大, 1126—1193 nhà thơ thời Nam Tống 南 宋 trong Lưu đức Tu thiếu khanh tị thử Huệ sơn nhân tiện kí tặng 劉德修 少卿避暑惠山因便寄贈 : “ Minh phượng triêu dương xích ngũ thiên, Thông thông hốt quá bạch âu biên 鳴鳳朝陽尺五天, 匆匆 忽過白鷗邊 ( Phượng kêu vang gần trời năm thước, Vội vàng vượt khỏi cò trắng bên ) “. Khổng bình Trọng 孔平仲 , ???- 1065- ???, nhà văn thời Bắc Tống 北 宋 trong Tục thế thuyết 續世說, chương Trực gián 直諫 : “ Tự Trử toại Lương , Hàn Viện chi tử, trung ngoại dĩ ngôn vi húy, kỉ nhị thập niên . Cập thiện cảm thủy gián , thiên hạ giai hỉ, vị chi minh phượng triêu dương 自褚遂良,韓瑗 之死, 中外以言為諱, 幾二十年. 及善感始諫, 天下皆 喜,謂 之鳴鳳朝陽 ( Từ khi Trử toại Lương, Hàn Viện qua đời, cả trong triều lẫn ngoài đều sợ không dám nói, kể đã tới hai mươi năm. Kịp tới khi có ý tốt đối với lời can, tất cả đều vui mừng, mà nói rằng chim phượng kêu nơi trời sáng chói ) “ . Lưu khắc Trang 劉剋莊, 1187 – 1269, nhà thơ thời Nam Tống 南 宋 trong Hoạ Hưng-hóa Triệu lệnh quân lương thị 和興化趙令君 良侍 , bài hai : “ Phù điện tuấn phiên thành bả miết, Minh dương phượng hóa tác hàn thiền 扶電駿翻成 跛鱉,鳴陽鳳化作寒蟬 ( Ngựa chớp nhoáng nay rùa bò hoá, Phượng véo von hoá thành ve câm ) “ *] , tránh việc dữ nên cuối cùng làm con chim hồng né cung [* tị dực 避弋 : né ná, tương đồng với kinh cung 驚弓 sợ cung . Theo Tấn thư 晉書 , quyển 71 : Vương Giám truyện 王鑒傳 : “ Độc vũ chi chúng dị động, kinh cung chi điểu nan an 黷武之眾易動, 驚弓之鳥難安 ( Bọn háu chiến dễ gây, Chim sợ cung khó tĩnh ) “ *]. Chúng ta đều là khách lưu lạc nơi phương trời, từ xưa đến nay, ra làm quan hay lui về ẩn, đều giống nhau cả!

Dịch vần :
Khi buồn , ” cha chả” viết trong không,
Trời đất mênh mang kiếp cỏ bồng.
Việc đời hoá nguội ra đầu bạc,
Mặt nhợt nên tươi cậy rượu nồng.
Mừng trời, thấy sáng mong theo phượng,
Tránh dữ, e cung lại hệt hồng.
Chân trời cùng kiếp thân lận đận,
Xuất xử lâu nay vốn rất thường!

2. Trong khi kháng chiến.
• Lê Lợi xem Bình Ngô sách, khen là phải dựa vào đấy để cùng Nguyễn Trãi vạch ra chiến lược, chiến thuật đánh quân Minh. Ngay sau khi xem Bình Ngô sách, Bình Định Vương Lê Lợi đã trao cho Nguyễn Trãi chức Tuyên Phụng đại phu Hàn lâm thừa chỉ và luôn luôn giữ ông ở bên mình để bàn mưu tính kế đánh quân Minh.
• Ngoài việc cùng Lê Lợi vạch ra chiến lược, chiến thuật, Nguyễn Trãi còn làm tất cả các công việc giao thiệp với quân Minh. Nhân danh nghĩa quân Lam Sơn, cụ thể là nhân danh Lê Lợi, Nguyễn Trãi đã viết thư cho bọn chỉ huy quân Minh như Sơn Thọ, Phương Chinh, Thái Phúc, Vương Thông, v.v… để hoặc mắng nhiếc chúng, hoặc khiêu khích chúng, hoặc dụ hàng. Nguyễn Trãi đã làm công tác địch vận rất tài tình. Chính ông đã đích thân đến thành Tam Giang ( Việt Trì ) chiêu dụ quân Minh, tướng giữ thành là Lưu Thanh đã đem toàn quân đội ra hàng. Cũng chính Nguyễn Trãi đã viết thư chiêu dụ quân Minh ở Nghệ An, Thuận Hóa, Tây Đô, các thành này đều “không phải đánh mà giặc ra hàng cả” (Đại Việt sử ký toàn thư). Tướng Minh giữ thành Nghệ An là Đô Đốc Thái Phúc đã nghe lời khuyên của Nguyễn Trãi, mở cửa thành ra hàng.
• Nhận thấy chính nghĩa của quân Lam Sơn, Thái Phúc đã đến chân thành Tây Đô để chiêu dụ quân Minh ở đấy. Thái Phúc lại bày cho quân Lam Sơn phép chế tạo công cụ đánh thành Đông Quan nữa.
• Cuối năm Bính Ngọ (1426), quân Lam Sơn bắt đầu vây đánh Đông Quan. Lê Lợi đóng bản doanh trấn Bồ Đề (thuộc xã Phú Viên, huyện Gia Lâm). Tại đây ông cho làm một cái chòi cao ngang bằng tháp Báo Thiên ở Đông Quan để ngày ngày lên đấy mà quan sát quân địch (ở Đông Quan) và chỉ huy các cuộc hành quân của quân Lam Sơn. Lê Lợi ngồi trên tầng thứ nhất của cái chòi, Nguyễn Trãi ngồi ở tầng thứ hai. Hai người thường thường bàn mưu tính kế để đánh quân Minh.
• Tháng 10 năm 1427, Liễu Thăng bị giết ở gò Mã Yên. Tình thế bọn Vương Thông ở thành Đông Quan vốn đã khốn quẫn do đó lại càng thêm khốn quẫn. Thông cho người cầm thư đến bản doanh quân Lam Sơn (ở Bồ Đề) đề nghị giảng hòa. Các tướng khuyên Lê Lợi nên tiếp tục đánh thành để giết cho hết quân giặc. Nhưng ý kiến của Nguyễn Trãi thì lại khác. Do bắt được một bức thư bí mật bọc sáp của Vương Thông gửi về nước cho vua Minh Tuyên tôn, Nguyễn Trãi biết quân Minh ở vào một tình thế buộc chúng phải cầu hòa. Vì vậy ông đã khuyên Lê Lợi nên tìm cách dụ hàng hơn là dùng lực lượng quân đội đánh Vương Thông. Nghe lời Nguyễn Trãi, Lê Lợi một mặt sai nới vòng vây, một mặt sai Nguyễn Trãi viết thư cho Vương Thông khuyên Vương Thông sớm ra hàng. Kết quả là Vương Thông không đợi lệnh vua Minh, tự ý giảng hòa với quân Lam Sơn rồi kéo quân về nước ( theo Tiên sinh sự trạng khảo của Dương Bá Cung ).
• Có lẽ trong mười năm kháng chiến chống quân Minh này, Nguyễn Trãi không có thời gian làm thơ, nhưng số lượng về văn thư quân sự, ngoại giao trao đổi với quân địch, khiến cho người sau càng khâm phục văn tài của ông. Và tột đỉnh là bài Bình Ngô đại cáo.

3. Sau khi toàn thắng.
• Khi luận công hành thưởng, Nguyễn Trãi được ban quốc tính và phong tước Quan phục hầu. Về quan chức, ông giữ chức Nhập nội hành khiển kiêm Lại bộ thượng thư quản công việc cơ mật viện. Chức vị của Nguyễn Trãi tuy lớn nhưng không đủ quan trọng để cho phép ông có thể thi thố tài kinh bang tế thế của ông. Đã thế nhiều việc làm của Lê Thái Tổ sau khi kháng chiến thắng lợi tỏ ra nhà vua nghi ngờ những nhân vật lỗi lạc đã cùng nhà vua lãnh đạo cuộc đấu tranh võ trang chống quân Minh. Năm Thuận Thiên thứ hai tức năm Kỷ Dậu (1429), nhà vua sai bắt Trần Nguyên Hãn phải nhảy xuống sông tự tử. Cuối năm Kỷ Dậu, nhà vua lại sai giết Thái úy Phạm Văn Xảo, một đệ nhất công thần khác, và tịch thu tất cả tài sản.
• Chính sử nhà Lê không chính thức nói đến việc Nguyễn Trãi bị Lê Thái Tổ bắt và hạ ngục. Nay chúng ta có đủ tài liệu để có thể tin rằng trong thời gian Trần Nguyên Hãn phải tự trầm và Phạm Văn Xảo bị giết, thì Nguyễn Trãi bị tống giam. Trong Tang thương ngẫu lục, Dương Bá Cung cho biết “Nguyễn Trãi từng có việc bị hạ ngục rồi lại bắt tha”. Trong thơ chữ Hán (của Nguyễn Trãi) có bài “Oán thán” nói về việc bị hạ ngục cho chúng ta biết rằng Nguyễn Trãi bị bắt khi ông năm mươi tuổi tức vào khoảng năm Thuận Thiên thứ hai (1429) – năm Lê Thái Tổ bắt Trần Nguyên Hãn và giết Phạm Văn Xảo. Bài thơ thứ 125 trong Quốc âm thi tập có câu:
Tội ai cho thấy nấy cam danh phận
Chớ có thân sơ mới trượng phu.
• Với những câu này, Nguyễn Trãi có ý muốn thanh minh rằng: ông là người thân của Trần Nguyên Hãn, nhưng tội của Trần Nguyên Hãn thì Nguyên Hãn chịu. Rất có thể là Nguyễn Trãi bị nghi ngờ là có liên quan đến Trần Nguyên Hãn, nên bị bắt , sau vì một lẽ nào đó lại được thả ra.
• Trong tờ biểu tạ ân khi ông được vua Lê Thái tôngtiến cử giữ chức Gián nghị đại phu kiêm Tri tam quán sự, Nguyễn Trãi có viết: “Nếu không được tiên đế ( Lê Thái Tổ ) xét rõ đáy lòng, thì hầu khiến tiểu thần ngậm cười ở nơi chín suối”.
• Như vậy rõ ràng là dưới thời Lê Thái Tổ có xảy ra việc Nguyễn Trãi bị bắt rồi lại được tha.Lê Thái Tổ tha Nguyễn Trãi, nhưng nhà vua vẫn không tin Nguyễn Trãi. Đó là lý do chủ yếu khiến cho suốt thời gian Lê Thái Tổ ở ngôi, Nguyễn Trãi không làm việc gì quan trọng cả. Bị vua nghi ngờ, ghét bỏ, nhưng ông vẫn phải làm quan. Xem Quốc âm thi tập, chúng ta có thể biết rằng Nguyễn Trãi chỉ sống ở Thăng Long một thời gian rồi ông lại về Côn-sơn để vui với cỏ cây.
• Trong Quốc âm thi tập, bài Chín bài Trần tình, bài thứ 4 :
Ngoài năm mươi tuổi ngoài chưng thế
Ắt đã tròn bằng nước ở bầu.
• Trong Toàn Việt thi lục, Lê Quý Đôn có viết rằng: “Thái tông lên ngôi thì do cố mệnh của Thái Tổ mà Nguyễn Trãi phụ chính”. Câu này làm cho chúng ta nghĩ rằng trước khi chết, Lê Thái Tổ đã nhìn thấy lầm lỗi của mình, và đã dặn Thái tử Nguyên Long (Thái Tôn) phải đặt Nguyễn Trãi lên một chức vị xứng đáng. Lê Thái tông đã làm đúng như lời cha dặn. Vì vậy, thời Lê Thái tông ở ngôi là thời Nguyễn Trãi đắc chí nhất, được trọng dụng nhất.
• Suốt trong thời gian làm quan dưới triều Lê Thái Tổ cũng như dưới triều Lê Thái Tông, lúc nào Nguyễn Trãi cũng sống một cuộc đời giản dị, cần kiệm liêm chính. Không những thơ văn của Nguyễn Trãi cho ta biết như thế, mà các nho sĩ sống cùng thời với ông như Nguyễn Mộng Tuân, Lý Tử Tán, v.v… cũng cho biết như thế.
• Tháng 5 năm Giáp Dần (1434) đời vua Lê Thánh Tông, triều đình sai Tuyên phủ sứ Nguyễn Trụ và Hoàng môn thị lang Thái Quân Thực đem biểu văn và sản vật Việt Nam sang nhà Minh cầu phong. Biểu văn do Nguyễn Trãi soạn.
• Xem biểu văn, viên Nội mật viện Nguyễn Thúc Huệ và viên học sĩ Lê Cảnh Xước muốn đổi vài chữ. Nguyễn Trãi nổi giận mắng vào mặt chúng rằng: “ – Đổi với chác gì? Hai ông giỏi sao không viết thay tôi? Hiện nay trong nước đương hạn hán, mà sở dĩ có tai nạn ấy, chính là tự lũ các ông. Các ông chỉ là đồ thích sưu cao thuế nặng, vơ vét của dân cho nhiều, nên trời mới giáng tai tỏ ý trừng phạt. “. Nguyễn Thúc Huệ đem câu nói này mách với Lê Sát và Lê Vấn là những nhân vật đang nắm giữ chức quyền lúc bấy giờ. Lê Vấn giận lắm, nói với Nguyễn Trãi rằng: “ – Gây ra tai nạn không phải là lỗi tại bọn ty thuộc, mà chính bởi vua và tướng, sao ông quở trách nặng lời như vậy? “. Nguyễn Trãi trả lời:: “ – Thúc Huệ là kẻ tài thì rất thông thường, mà lại hay có thói bòn vét, hẳn ở địa vị then chốt, mỗi khi có việc tâu bày chỉ thấy bàn sự đục khoét của dân cho nặng để làm giàu cho công khố cốt làm vui lòng quân thượng.”. Cũng năm 1434, có bảy tên tội tái phạm đáng tội tử hình. Lê Sát và Lê Ngân phân vân không biết xử trí ra sao. Vua Thái tông hỏi Nguyễn Trãi, thì ông nói: “ – Hình phạt không bằng nhân nghĩa là rõ ràng rồi. Bây giờ một lúc giết bảy mạng người e không phải việc có đức cao. Kinh thư có nói: “An như chi” nghĩa là phải làm cho được đúng chỗ. Thí dụ như trong cung là đúng chỗ của Bệ hạ, thỉnh thoảng có đi tuần du chỗ khác, thì không thường được thoải mái, đến khi trở về cung mới thật đúng chỗ, ông vua đối với nhân nghĩa cũng vậy.Lê Sát nói với Nguyễn Trãi: “ – Ông là người nhân nghĩa có thể cảm hóa kẻ ác trở nên người thiện, thì đây xin giao bọn cướp cho ông. “ Nguyễn Trãi nói: “ – Bọn chúng là đồ hung ác, gian giảo, pháp luật và chế độ của triều đình không răn chữa được chúng, nữa là Trãi này có đức độ gì mà cảm hóa nổi.” Cuối cùng triều đình vẫn nghe lời Nguyễn Trãi, chỉ đem chém hai đứa cầm đầu, còn năm tên khác thì chỉ khép vào tội lưu mà thôi.
• Tháng giêng năm Đinh Tỵ (1437), niên hiệu Thiệu Bình thứ tư, vua Thái tông sai Nguyễn Trãi và hoạn quan là Lương Đăng trông nom việc làm xe loan và thẩm định nhã nhạc. Nhân dịp này Nguyễn Trãi đã nói với Thái tông như sau: “ – Thời loạn thì dùng võ, thời bình thì dùng văn: Ngày nay định ra lễ nhạc chính là phải thời lắm. Song không có gốc thì không thể đứng vững, không có văn thì không thể lưu hành. Hòa bình là gốc của nhạc, thanh âm là văn của nhạc. Thần vâng theo chiếu chỉ thẩm định nhã nhạc, không dám không hết lòng. Song học vấn sơ sài, nông cạn sơ trong áng thanh luật khó làm cho được hài hòa. Dám mong bệ hạ rủ lòng yêu thương và chăm nuôi muôn dân khiến cho trong thôn cùng xóm vắng, không có một tiếng hờn giận oán sầu. Đó tức là giữ được cái gốc của nhạc. “ Vua Thái tông khen và chấp nhận lời tâu của Nguyễn Trãi ( Việt sử thông giám cương mục tập IX, trang 60-91).
• Tháng 11 năm Đinh Tỵ (1437), Lương Đăng dâng kiến nghị về các mục nghi thức của các buổi lễ coi chầu hoặc yến tiệc trong những ngày sinh nhật nhà vua hay Tết Nguyên đán, v.v… Nguyễn Trãi cùng với bọn Nguyễn Truyền, Đào Công Soạn, Nguyễn Văn Huyến và Nguyễn Liễu tâu rằng: “ – Lễ nhạc là cốt ở ngoài mới đặt ra được. Phải là bậc tài thức như Chu Công rồi sau mới không thể chê trách được việc đặt lễ tế nhạc. Nay nhà vua để cho hạng bầy tôi hèn mọn ở trong cung chuyên việc xếp đặt lễ nhạc, như vậy chẳng tủi nhục cho nước nhà lắm sao? Vả lại việc làm của Đăng đều là dối vua lừa dưới không căn cứ vào đâu cả… Lương Đăng là tên bầy tôi hèn mọn ra vào nơi cung cấm, hầu hạ ở bên vua, như vậy chúng tôi trộm lấy làm ngờ lắm. “ Lương Đăng tâu: “ – Thần là kẻ vô học, không biết chế độ thời xưa ra sao. Những việc bây giờ làm đó chỉ là biết thế nào làm thế ấy mà thôi. “ Nguyễn Liễu tâu: “ – Từ xưa đến nay chưa có bao giờ hoạn quan lại tự chuyên làm nát thiên hạ như vậy. “. Bỗng một tên quan là Đinh Thắng từ trong nội đi ra, mắng lớn lên rằng: “ – Hoạn quan làm gì mà nát thiên hạ? Nếu nát thiên hạ thì phải chém đầu mày! “ Vua Thái tông liền giao Nguyễn Liễu cho hình quan xét xử. Kết quả Liễu bị kết tội chém đầu. Nhưng vua hạ chiếu giáng xuống tội thích chữ vào mặt và đày đi nơi xa.
• Sau việc này, hình như Nguyễn Trãi buồn lắm, nên ông xin về Côn-sơn hưu trí vào khoảng cuối năm 1437 hay đầu năm 1438 gì đó. Nhưng đến năm 1439, vua Thái tông lại xuống chiếu vời ông ra giữ chức cũ kiêm Trung thư sảnh tri tam quân sự, và coi cả việc quân và dân ở hai đạo Đông Bắc.
• Tháng 3 năm Nhâm Tuất (1442), Nguyễn Trãi với danh nghĩa là Hàn lâm viện thừa chỉ kiêm Quốc Tử Giám ra chủ trì kỳ thi tiến sĩ và đã lấy Nguyễn Trực đỗ Trạng nguyên.Những năm làm quan dưới triều Lê Thái Tông, nhất là từ năm 1439 trở về sau, Nguyễn Trãi sống những ngày tương đối hả hê, thoải mái. Hồi này vua Thái tông đã mười bảy mười tám tuổi. Vị vua trẻ tuổi này bắt đầu nhìn thấy sự thật của cuộc đời. Nhà vua đã nắm lấy quyền hành và thẳng tay trừng trị bọn quyền thần: cách chức Tể tướng Lê Sát, giết Đăng Đắc, giáng chức bọn chân tay của Lê Sát và Lê Văn Vinh, Lê Hi, và cuối cùng giết cả Lê Sát và Lê Ngân. Đọc những câu thơ sau đây trong tờ biểu tạ ân sẽ thấy rõ sự hả hê của Nguyễn Trãi: “ Thương thần như ngựa đến tuổi già, còn kham rong ruổi, Cho thần như thông quan năm rét, còn rạn tuyết sương Quần ngôn mặc kệ dèm pha: Thánh ý cứ bền tín nhiệm. Khiến cho suy nát trở lại quanh hoa Chức giữ Đông dài thực việc triều đình rất trọng. Việc kiêm tan quán ấy điều nho giả cực vinh. Huống ban quốc tính để rạng tông môn, Lại với công thần xếp cùng hàng liệt. Cảm mà chảy nước mắt, mừng mà sợ trong lòng. “ Tuy Nguyễn Trãi trở lại nhận chức vị của triều đình, nhưng Lê Thái tôngvẫn cho ông được ở Côn-sơn để làm việc, nhất là để chỉ huy công việc ở hai đạo Đông Bắc. Do đó, hằng ngày Nguyễn Trãi vẫn ở Côn-sơn, thỉnh thoảng ông mới về triều.

Côn-sơn ca.
崑山歌
Côn-sơn hữu tuyền,
崑 山 有 泉,
Kì thanh lãnh lãnh nhiên,
其 聲 冷 冷 然,
Ngô dĩ vi cầm huyền.
吾 以 為 琴 弦。
Côn-sơn hữu thạch,
崑 山 有 石,
Vũ tẩy đài phô bích,
雨 洗 苔 鋪 碧,
Ngô dĩ vi điệm tịch.
吾 以 為 簞 席。
Nham trung hữu tùng,
岩 中 有 松,
Vạn lí thúy đồng đồng,
萬 里 翠 童 童,
Ngô ư thị hồ yển tức kì trung.
吾 於 是 乎 偃 息 其 中。
Lâm trung hữu trúc,
林 中 有 竹,
Thiên mẫu ấn hàn lục,
千 畝 印 寒 綠,
Ngô ư thị hồ ngâm khiếu kì trắc.
吾 於 是 乎 吟 嘯 其 側。
Vấn quân hồ bất qui khứ lai,
問 君 胡 不 歸 去 來,
Bán sinh trần thổ trường giao cốc.
半 生 塵 土 長 膠 梏。
Vạn chung cửu đỉnh hà tất nhiên,
萬 鐘 九 鼎 何 必 然,
Ẩm thủy phạn sơ tùy phận túc.
飲 水 飯 蔬 隨 分 足。
Quân bất kiến :
君 不 見:
Đổng Trác hoàng kim doanh nhất ổ,
董 卓 黃 金 盈 一 塢,
Nguyên Tải hồ tiêu bát bách hộc.
元 載 胡 椒 八 百 斛。
Hựu bất kiến:
又 不 見:
Bá Di dữ Thúc Tề,
伯 夷 與 叔 齊,
Thủ Dương ngạ tử bất thực túc.
首 陽 餓 死 不 食 粟?
Hiền ngu lưỡng giả bất tương mâu,
賢 愚 兩 不 相 侔,
Diệc các tự cầu kì sở dục.
亦 各 自 求 其 所 欲。
Nhân sinh bách tuế nội,
人 生 百 歲 內,
Tất cánh đồng thảo mộc.
畢 竟 同 草 木。
Hoan bi ưu lạc điệt vãng lai,
歡 悲 憂 樂 迭 往 來,
Nhất vinh nhất tạ hoàn tương tục.
一 榮 一 謝 還 相 續。
Khâu sơn hoa ốc diệc ngẫu nhiên,
丘 山 華 屋 亦 偶 然,
Tử hậu thùy vinh cánh thùy nhục.
死 後 誰 榮 更 誰 辱。
Nhân gian nhược hữu Sào Do đồ,
人 間 箬 有 巢 由 徒,
Khuyến cừ thính ngã sơn trung khúc.
勸 渠 聽 我 山 中 曲。

Giải xuôi : Bài ca về cảnh Côn -sơn.
Côn-sơn có suối; tiếng suối reo trong trẻo làm sao; ta coi nó như tiếng đàn vậy. Côn-sơn có đá; mưa thấm nhuần khiến rêu nẩy màu xanh biếc; ta lấy đó làm chiếu nằm. Trong khe có thông; vạn dặm màu xanh bát ngát; ta nhân đó mà nằm nghỉ ngơi dưới bóng. Trong rừng có trúc; ngàn mẫu nổi màu xanh rờn; ta nhân đó mà hát nghêu ngao ở dưới gốc. Ta hỏi mi sao chẳng chịu đi về cho rồi; đã nửa đời chìm trong cảnh bụi bậm mà cứ còn bon chen hoài. Vạn chuông, chín vạc [* sống trong cảnh giàu sang, thành ngữ Trung quốc ‘ chung minh đỉnh thực 鍾鳴鼎食 ‘ : nhà nhiều khách khứa khi ăn phải đánh chuông báo hiệu, và nấu bằng những vạc lớn. Chung 鍾 : một loại nhạc khí thời cổ và đỉnh 鼎 nồi lớn nấu cơm cho nhiều người ăn. Tới bữa, đánh chuông và nồi bày la liệt. Cụm từ xuất phát từ Sử kí 史記 của Tư mã Thiên, chương Hoá thực liệt truyện 貨殖列傳:” Sái tước, bạc kĩ dã , nhi Chất thị đỉnh thực. Mã y thiển phương, trương lí kích chung 灑削, 薄技也, 而郅氏鼎食. 馬醫淺方, 張裏擊鍾 ( Đã không có tài mài dao mà anh chàng họ Chất lại đãi ăn bằng đỉnh , Không biết cách xử sự khi gặp cảnh khó khăn , mà trong nhà lại khua chuông) “. Đời Đường 唐, Vương Bột 王勃 , trong bài “ Đằng vương các tự 滕王閣序” có viết : ” Lư diêm phác địa, chung minh đỉnh thực chi gia 闾閻撲地, 鍾鳴鼎食之家 *] có ra cái gì đâu; uống nước lã, ăn rau, cứ theo phận mình là đầy đủ rồi. Mi lại không thấy sao : Đổng Trác [* Đổng Trác 董卓, tên người, ?? – 192 tự là Trọng Dĩnh 仲穎, người tời Hán 漢 vùng Lâm-thao 臨洮 ( nay là huyện Mân 岷縣 tỉnh Cam-túc 甘肅省 ) . Đời vua Tuyên đế 桓帝 , giữ chức vũ lâm lang 羽林郎, sang đời vua Linh đế 靈帝 nắm chức tiền tướng quân 前將軍. Khi Linh đế qua đời mang quân về kinh sư, giết bọn hoạn quan, bỏ vua Thiếu đế 少帝, lập vua Hiến đế 獻帝, giết thái hậu , tự đảm nhiệm chức thái sư , dâm loạn hung bạo . Phe đảng Viên Thiệu 袁紹 nhân đó khởi binh thảo phạt Đổng Trác, nhưng sau đó y bị Lữ Bố 呂布 giết chết. *] có vàng chất đầy kho; Nguyên Tải [* Nguyên Tải 元載 , tên người , ?- 777 , tự là Công Phụ 公輔 , người vùng Kì-sơn 岐山, Phượng- tường 鳳翔 ( nay là Kì sơn, Thiểm tây 陝西 ) . Thời nhỏ gia đình nghèo khổ . Đời vua Túc tông làm quan tới chức thị lang bộ hộ , chức độ chi sứ 度支使 kiêm chư đạo chuyển vận sứ 諸道轉運使 coi về tổng ngân khố nhà nước. Sau này câu kết cùng hoạn quan Lí phụ Quốc 李輔國, được thăng giữ chức tể tướng 宰相. Khi Đại tông 代宗 lên ngôi, y vẫn còn được làm tể tướng . Hắn thâm thụt ngân quỹ , dùng tiền mua chuộc hoạn quan Đổng Tú 董秀, nên càng được Đại Tông tin dùng. Hắn càng lộng hành, nhưng cuối cùng vào năm Đại lịch thứ mười ( 777 ) bị nhà vua ra lệnh giết. *] có đến tám trăm thùng hồ tiêu [* Khi kiểm tra tài sản nhà Nguyên Tải ngoài vàng bạc châu báu , còn có đến tám trăm thùng hồ tiêu ( Hồ tiêu sao xuất bát bách thạch胡椒抄出八百 石 ) *]. Mi cũng chẳng thấy : Bá Di với Thúc Tề [* Bá Di 伯夷 : vào cuối đời nhà Thương 商, là con của vua nước Cô Trúc 孤竹 cùng với em là Thúc Tề 叔齊 đã phản đối nhà Chu vì đã không ngăn cản được vua nhà Chu là Chu vũ Vương 周武王 diệt nhà Thương. Hai ông đã bỏ vào núi Thủ-dương hái rau vi mà sống, không chịu ăn thóc nhà Chu cho đến chết *] ; không chịu ăn thóc [* của nhà Chu *] đã thà chết đói nơi núi Thủ-dương [* Thủ dương 首陽 : tên núi, còn có tên là Lôi thủ sơn 雷首山, tương truyền là nơi Bá Di, Thúc Tề náu ẩn hái rau vi mà sống. Trong Thi Kinh 詩經, phần Quốc phong 國風 chương Đường phong 唐風, chương Thái linh 採苓 : “Thái linh thái linh, Thủ dương chi điên 採苓採苓, 首陽 之巔 ( Hái rau, hái rau, Trên đỉnh Thủ-dương ) “.” Họ Mao 毛 chú : ’ Thủ dương , sơn danh dã 首陽, 山名也 ‘ Theo Mao thi chính nghĩa 毛詩正義, chương Đường phổ 唐譜 thì “ Đường 唐 là tên nước mà vua Chu thành Vương 周成王 phong cho người em Nghiêu 虞, con ông này là Tiếp 燮 đối tên nước thành Tấn 晉, là dải đất chạy dọc sông Phần 汾水 vùng Thái-nguyên 太原 thuộc tỉnh Sơn-tây ngày nay . Vậy toàn thể chương “ Đường phong ” trong Kinh Thi là những bài dân ca mô tả sinh hoạt của vùng này. Chu Hi 朱熹 , người đời Tống, khi chú giải Kinh Thi, có nói :” Kì thi bất vị chi Tấn nhi vị chi Đường , cái nhưng kì thủy phong chi cựu hiệu nhĩ 其詩不謂之晉 而謂之唐,蓋仍其始封之舊號耳 ( Những bài thơ này không gọi là phong tục vùng Tấn mà gọi là phong tục vùng Đường chỉ vì rằng muốn tôn trọng cái tên được phong tặng trước kia ) “ *]. Người hiền với kẻ ngu, dù không giống nhau; nhưng họ đã cùng đạt được cái mình muốn. Trong đời người dài trăm năm; cuối cùng cũng như cây cỏ thôi. Vui, mừng, sướng khổ cứ đổi thay nhau; lúc tươi khi héo cứ tuần tự thay nhau. [* Dù là khi chết *] Gò núi [* sơn khâu 山丘, chỉ phần mộ 墳墓 , mồ mả khi chết. Giang Yêm 江淹 ,444 – 505, nhà thơ nước Lương 梁 , thời Nam Bắc triều 南北朝, trong Hoài cựu thi thương Vương Kham 懷舊詩 傷王諶 :“Hoan yến vị chung tất, Linh lạc ủy sơn khâu 歡宴未終畢, 零落委山丘 ( Tiệc vui chưa chấm dứt, Lạnh lẽo vùi dưới mồ. ) “ *] hay [* khi còn sống *] nhà đẹp [* Hoa ốc 華屋 : căn nhà lộng lẫy lúc sống. Tào Thực 曹植 , 192 – 232, nhà thơ nước Ngụy 魏 thời Tam quốc 三國 trong Không hầu dẫn 箜篌引 :” Thịnh thì bất khả tái, Bách niên hốt ngã tù. Sinh tồn hoa ốc xứ, linh lạc qui sơn khâu 盛時不可再,百年忽我遒; 生在華 屋處,零落 歸山丘 ‘ ( Lúc vui không có mãi, Trăm năm cứ qua vù. Lúc sống ở nhà đẹp, chết rồi về núi gò )*] đó cũng là do ngẫu nhiên; sau khi chết rồi có còn ai vinh với ai nhục. Đời nay nếu có người nào giống như Sào, Do [* Sào Do 巢由 : nói gom tên hai người Sào Phủ 巢父 và Hứa Do 許由, hai vị cao sĩ thời vua Nghiêu, Trung quốc, không muốn nghe nói đến lợi, danh, ở ẩn trong núi rừng . Hứa Do tự là Vũ Trọng 武仲, vua Nghiêu nghe nói ông ta là người hiền , bèn đem đất nước mà trao cho ông, ông bèn lánh vào trong rừng, mạn bắc sông Dĩnh , dưới núi Kì ( Dĩnh thủy chi dương, Kì sơn chi hạ 潁水之陽,箕山之下 ) . Sào Phủ dữ Hứa Do : khi vua Nghiêu ngỏ ý nhường thiên hạ , Hứa Do đã bỏ vào rừng rồi, mà vua Nghiêu còn tiếp tục mời ông làm chủ chín châu ( Cửu châu 九州: chỉ lãnh thổ Trung Hoa thời cổ ), Hứa Do xuống suối rửa tai. Ngay khi đó có Sào Phủ 巢父 đang cho trâu uống nước, thấy cảnh Hứa Do rửa tai, hỏi nguyên nhân. Đáp rằng “ Vua Nghiêu muốn tôi ra làm chủ chín châu, ghét nghe câu đó, nên xuống suối rửa tai ( Nghiêu dục triệu ngã vi cửu châu trường, ố văn kì thanh, thị cố tẩy nhĩ 堯欲召我為九州長, 惡聞其聲, 是故洗耳 ). Sào Phủ nghe thế nói rằng :” Ông đã ở trong vùng núi cao hang sâu , người đi không tới, Ai là kẻ có thể gặp được ông. Lòng ông vẫn còn ham cảnh phù du , muốn được người nghe nói đến tên mình , tôi sợ nước rửa tai của ông làm bẩn miệng con trâu của tôi.( Tử nhược xử cao ngạn thâm cốc, nhân đạo bất thông , thùy năng kiến tử ? tử cố phù du , dục văn cầu kì danh dự. ô ngô độc khẩu 子若處高岸深谷, 人道不通, 誰能見子?子故浮游, 欲聞求其 名譽. 污吾 犢口 )’. Nói xong Sào Phủ giắt trâu lên đầu nguồn cho trâu uống nước. *], Thì xin mời lắng nghe ta hát bài ca trong núi.
Dịch vần :
A.
Côn-sơn suối mát,
Tiếng nước rơi róc rách,
Ta coi là đàn hát.
Côn-sơn đá phẳng,
Mưa tưới rêu mượt bóng,
Ta lấy làm chiếu chõng.
Trong khe có thông,
Vạn dặm xanh một vùng,
Ta nương bóng nghỉ ngơi thật thong dong.
Trong rừng có trúc,
Ngàn mẫu in màu lục,
Ta nhờ đó mà nghêu ngao dưới gốc.
Hỏi ngươi sao chẳng về cho rồi,
Nửa đời bụi bám, còn lăn lóc.
Vạn chuông, chín vạc có ra gì,
Nước lã, cơm rau, đủ tùy lúc.
Ngươi chẳng thấy :
Đổng Trác, vàng bạc đầy một kho,
Nguyên Tải, hồ tiêu tám trăm hộc.
Lại chẳng thấy :
Bá Di với Thúc Tề,
Thủ Dương đói chết, không ăn thóc.
Hiền, ngu hai cái tuy khác nhau,
Nhưng cái mình ước đều đạt được.
Trăm năm, một đời người,
Như cây cỏ, rốt cuộc.
Vui buồn, lo sướng cứ thay phiên,
Khi tươi, lúc héo thường liên tục.
Gò núi, lầu hoa do ngẫu nhiên,
Chết rồi còn có ai vinh, nhục.
Đời nay bạn Sào, Hứa nếu còn,
Hãy vào núi nghe ta ca khúc.

B.
Côn-sơn có suối trong veo,
Thác nước đổ xuống tiếng reo rầm rầm.
Ta coi đó là đàn cầm,
Côn-sơn có đá như bàn phẳng phiu.
Mưa rơi thấm ướt nẩy rêu,
Chiếu êm thảm mượt là điều ta mong.
Trong núi có mọc đầy thông,
Muôn dặm xanh biếc một vùng mênh mông.
Tha hồ ta nghỉ ở trong,
Lại thêm trúc mọc đầy rừng xanh tươi.
Ngàn mẫu in sắc lạnh người,
Thảnh thơi bên gốc ta thời ngâm nga.
Còn ngươi sao chẳng về cho,
Nửa đời cát bụi vẫn lò dò đi.
Muôn chung ngàn đỉnh ra gì,
Cơm rau nước lã miễn khi đủ dùng.
Ngươi chẳng thấy :
Đổng Trác vàng bạc đầy vung,
Nguyên Tải, có tám trăm thùng hồ tiêu.
Lại chẳng thấy :
Bá Di, Thúc Tề rủ nhau
Thủ-dương đói chết, chẳng cầu thóc Chu .
Hiền ngu có khác gì đâu,
Nhưng cùng thoả mãn điều cầu đấy thôi.
Trăm năm là cõi con người,
Cuối cùng tàn rũ như đời cỏ cây.
Vui buồn, sướng khổ luôn thay,
Khi tươi, khi héo kéo bày theo nhau.
Ngẫu nhiên : gò núi, lầu cao,
Chết rồi vinh nhục ai nào biết cho.
Đời nay còn có Sào, Do,
Xin mời vào núi nghe ta hát hò.

Vụ án vườn Lệ-chi

• Mọi việc đang diễn ra tốt đẹp, thì đánh đùng một cái, vụ án Lệ Chi viên xảy ra như một tiếng sét làm tan nát cuộc đời Nguyễn Trãi và gia tộc ông.Đầu đuôi vụ án như sau:

• Ngày 27 tháng 7 năm Nhâm Tuất niên hiệu Đại Bảo thứ ba tức ngày mồng 1 tháng 9 năm 1442, vua Lê Thái tông đến Côn-sơn thăm Nguyễn Trãi. Nguyễn Trãi có một người vợ lẽ yêu là Nguyễn Thị Lộ vừa đẹp vừa hay chữ. Thị Lộ từng được vua Thái tông vời vào triều phong cho chức Lễ nghi học sĩ giữ công việc dạy dỗ cung nhân. Khi Lê Thái Tông đến Côn-sơn thì Thị Lộ đã về đấy thăm Nguyễn Trãi từ trước. Lúc nhà vua rời Côn-sơn thì Thị Lộ được lệnh theo nhà vua về Thăng Long. Ngày mồng 4 tháng 6 năm Nhâm Tuất tức ngày mồng 7 tháng 9 năm 1442, xa giá vua Thái Tông về đến Lệ Chi viên tục gọi là Trại Vải ở làng Đạo Lai, huyện Gia Bình tỉnh Bắc Ninh (nay là huyện Gia Lương). Nửa đêm hôm ấy, nhà vua bị cảm, và đến sáng thì mất. Các quan hộ giá giữ kín tin, và đến ngày mồng 6 tháng 8 mới rước linh cữu vua về Thăng Long, Thị Lộ cũng bị bắt. Thị Lộ cũng như Nguyễn Trãi bị buộc tội là âm mưu với nhau giết vua. Tại sao triều đình nhà Lê lại khoác vào cổ Nguyễn Trãi, người đã dày công chiến đấu gian khổ để dựng ra nó, cái tội tày đình như thế?
• Lê Thái tông có 5 vợ. Trong số năm người vợ này có Nguyễn Thị Anh và Ngô Thị Ngọc Dao. Nguyễn Thị Anh sinh ra Bang Cơ được phong làm thái tử. Nguyễn Thị Anh biết bà phi Ngô Thị Ngọc Dao đang có mang và nằm chiêm bao thấy Ngọc Hoàng thượng đế sai một vị tiên đồng đầu thai vào bà Ngọc Dao. Thị Anh sợ rằng khi bà Ngọc Dao sinh hạ quý tử, thì cái ngôi thái tử của Bang Cơ sẽ không còn nữa. Thị Anh bèn tìm đủ cách để hãm hại bà Ngô Thị Ngọc Dao. Thị Anh đã từng vu cho bà Ngọc Dao có dính líu vào vụ làm bùa của bà Huệ phi và có ý làm hại thái tử. Chính Thị Anh đã xui Thái tông khép bà Ngọc Dao vào tội voi giày.
• Nguyễn Trãi đã tìm cách cứu bà Ngọc Dao. Ông bảo Thị Lộ khuyên vua Thái tông không nên nghe lời xúc xiểm mà làm một việc thất đức. Nghe lời Thị Lộ, vua Thái tông đã cho phép đưa bà Ngô Thị Ngọc Dao giấu ở chùa Huy Văn. Ở đây vài tháng sau, bà Ngọc Dao đã sinh ra một người con trai đặt tên là Tư Thành (vua Thánh Tông sau này). Để tránh sự mưu hại của Nguyễn Thị Anh, Nguyễn Trãi đưa hai mẹ con bà Ngọc Dao ra An Bang (Quảng Ninh ngày nay). Những việc này cuối cùng đến tai Nguyễn Thị Anh. Từ đấy Thị Anh đâm thù Nguyễn Trãi và Thị Lộ. Thị đang chờ cơ hội để trả thù, thì xảy ra vụ Thái tông đột nhiên chết ở Lệ Chi viên. Thế là bà nắm ngay lấy việc này để trả thù. Bà lại càng dễ trả thù, sau khi Bang Cơ, mới hai tuổi, được lên ngôi vua và bà được ra thính chính. Bọn gian thần cũng căm thù Nguyễn Trãi, chúng vẫn coi Nguyễn Trãi là cái gai ở triều đình. Khi xảy ra vụ án Lệ Chi viên, chúng liền vào hùa với nhau để cùng với Thị Anh hãm hại Nguyễn Trãi và gia tộc ông.
• Như trên đã nói, sau khi đưa linh cữu Thái tông về Thăng Long, Nguyễn Thị Lộ bị bắt, và sau đó Nguyễn Trãi cũng bị bắt. Nguyễn Thị Lộ bị tra tấn cực kỳ dã man. Khi mang Thị Lộ ra thẩm vấn, trước sau hình quan chỉ hỏi Thị Lộ có một câu: – Có phải mày đã tiến độc cho đức Đại Hành Hoàng đế, và cáo mưu thị nghịch là do Nguyễn Trãi không? Do bị tra tấn quá tàn nhẫn, Thị Lộ đành phải nhận tất cả các tội lỗi mà bọn hình quan đã bày đặt ra theo một lệnh không biết từ đâu. Thế rồi cả gia quyến Nguyễn Trãi bị bắt giam: con gái bị sung làm nô tỳ ở cung vua hay ở các nhà quan, con trai thì chờ ngày ra pháp trường chịu tội tử hình.
• Vào cái ngày đau xót không những cho Nguyễn Trãi mà còn cho cả dân tộc nữa, là ngày 16 tháng 8 năm Nhâm Tuất tức ngày 19 tháng 9 năm 1442: Nguyễn Trãi và gia tộc đã rụng đầu dưới lưỡi dao oan nghiệt của cái triều đình hèn hạ và ngu muội mà chính ông đã chiến đấu gian khổ để dựng nên.
• Hai mươi hai năm sau, vào năm Quang Thuận thứ 5 tức năm 1464, nhìn thấy nỗi oan uổng của Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông mới xuống chiếu tẩy oan cho ông. Nguyễn Trãi được vua Lê Thánh Tông truy phong chức Đặc tiến kim tử Vinh Lộc đại phu trước Tán trù bá và cho một người con duy nhất trốn , thoát nạn tru di là Nguyễn Anh Vũ làm tri huyện. Nhà vua lại cấp cho gia đình họ Nguyễn một trăm mẫu ruộng để dùng vào việc thờ cúng. Và vua Lê thánh Tông đã ca ngợi tấm lòng trong sáng của Nguyễn Trãi :

Ức Trai tâm thượng quang khuê tảo.
抑 齋 心 上 光 奎 早
( Ức Trai lòng sáng tựa sao Khuê )

Lê Thánh Tông

Phạm Doanh

Góp ý xin l/l Phamdoanh1999@gmail.com

( Trích đoạn trong Nguyễn phi Khanh  & Nguyễn Trãi : Hai đời chung một luồng thơ Chữ , sắp xuất bản).


Tư liệu tham khảo :

1. Văn Tân et als ( Eds ) : Nguyễn Trãi Toàn Tập , Nhà xuất bản Khoa-học Xã-hội, Hà-nội 1969 , 798 pps.
2 Lê cao Phan (Trans. ) : Ức Trai thi tập , Nhà xuất bản Văn-học, 2000, 447 pps.
.3 Phan sĩ Tấn et als ̣( Eds ): Thơ văn Nguyễn Trãi , Nhà xuất bản Giáo-dục 1980, 256 pps.
4 Hoàng công Khanh : Vằng vặc sao Khuê, Nhà xuất bản Văn-học, Hà-nội , 1998 779 pps