Thanh Hóa Của Tôi

Thơ Trần Quốc Bảo

Ngày xưa Thanh Hoá của tôi ơi !

Kỷ niệm vàng son buổi thiếu thời

Hè tới Đoàn Sinh Công cắm trại

Sầm Sơn lồng lộng gió trùng khơi

 

Ôi Thanh Hóa, trùng trùng nỗi nhớ

Đất Lam Sơn, trang sử rạng ngời

Vùng Núi Nưa địa linh nhân kiệt

Triệu Trinh Vương oanh liệt một thời

 

Miền Đông Sơn, Trống Đồng Ngọc Lũ

Nền Văn Minh Lạc Việt muôn đời

Vào núi Giáp Sơn, Hang Từ Thức

 Người xưa nhập động lên Thiên Thai

 

Thanh Hóa oai hùng trang sử máu

Ba Làng Tân Đạo, những đầu rơi

Nơi pháp trường ngàn người tử đạo

Vinh danh Thiên Chúa đến muôn đời

 

Những ngày nghỉ học về thăm Ấp

Cánh đồng chiêm vàng óng chân trời

Mẹ già cười, răng đen rưng rức

”Được mùa Nông Cống, sống mọi nơi”

 

Cầu Hàm Rồng vươn mình đứng giữa

Chín mươi chín ngọn núi Đá Vôi

Điền Hộ, Nga Sơn vào Tam Tổng

Con tầu ngừng lại ở Ga Gôi

 

Đường lên Cẩm Thủy xa tăm tắp

Chênh vênh nhà sàn ngang lưng đồi

Nàng Thái Hồi Xuân ngồi dệt lụa

Tay ngà thoăn thoắt chuyển con thoi

 

Mùa lũ, nước dâng tràn Sông Mã

Mênh mông Nhân Lộ, khúc gò bồi

Mỗi năm mỗi lụt, ôi vất vả !

Rứa tề, cuộc sống vẫn êm trôi

 
Ngược dòng Sông Chu về Bái Thượng

O Mường Lang Chánh nặng vai gùi

Thơm thơm mùi quế, mùi măng, nấm

Váy chàm, yếm chẽn đẫm mồ hôi

 

Đến Thường Xuân, rượu cần nếp núi

Say hò : ” Dắc cành dinh, tày ơi ! ”   (*)

Dân ”Tày” sơn cước hồn mộc mạc

Yêu thương nhau, trao nhau tình người

 

Thanh Hóa trong tôi nguyên nỗi nhớ

Nhớ thầy, nhớ bạn, nhớ khôn nguôi

Cội hoàng mai giữa vườn Thanh ấy

Hoa cũ, người xưa . . . tản mạn rồi

 

Tôi vẫn nhớ người tình Thanh Hóa

Kỷ niệm yêu đương buổi thiếu thời

Nụ hôn đầu, trên đồi hoa tím

Bây giờ nhìn lại qúa xa xôi !

 

 – Có phải Bạn là người Thanh Hoá

Đang đọc thơ tôi ở cuối trời ?

Xin nhận nơi đây, dù xa lạ

Tấm Tình Quê, tự đáy lòng tôi.

 

Trần Quốc Bảo

Richmond, Virginia
Địa chỉ điện thư của tác giả: quocbao_30@yahoo.com

(*) Dắc cành dinh, Tày ơi = Đánh (khua, gõ) cồng lên, bạn Tày ơi!

Tiến Trình Bầu Cử Tổng Thống Hoa Kỳ

Trần Xuân Thời

Hầu hết chúng ta đã tham dự các cuộc bầu cử tự do tại Việt Nam trước 1975 và tại các quốc gia tự do mà chúng ta đang cư ngụ sau năm 1975. Trong các quốc gia tự do, dân chủ, phương thức bầu cử tự do được áp dụng trong các cơ chế công quyền và các hiệp hội tư nhân để chọn người đại diện.

Tại Hoa Kỳ, các chính quyền tiểu bang đảm trách công tác tổ chức bầu cử các viên chức công cử tiểu bang và liên bang. Thể thức bầu cử được quy định bởi các đạo luật do chính quyền tiểu bang ban hành, do đó có một số khác biệt về kỹ thuật tổ chức giữa các tiểu bang.

1. Quyền bầu cử

Hiến pháp Hoa Kỳ năm 1787 không quy định quyền bầu cử cho mọi công dân Hoa Kỳ. Vì thế các Tu chính án thứ 15 ban hành năm 1870 quy định thêm quyền bầu cử cho người Mỹ thiểu số…Tu chính án thứ 19 ban hành năm 1920 công nhận quyền bầu cử cho cử tri nữ giới…..Hiến pháp quy định bầu cử Tổng Thống Hoa Kỳ cứ bốn năm một lần vào ngày Thứ Ba sau ngày thứ hai tuần thứ nhất tháng 11.

2. Ghi danh bầu cử

Mọi công dân hội đủ điều kiện đều được ghi danh bầu cử: Công dân Hoa Kỳ, 18 tuổi, không can án hay bị tước quyền bầu cử, phải là cư dân hợp lệ tại tiểu bang nơi bầu cử hay ứng cử, cử tri có thể ghi danh trước hoặc tại phòng phiếu trước khi bầu cử… hoặc theo thủ tục do tiểu bang ấn định.

Năm 1965, Quốc Hội Hoa Kỳ ban hành đạo luật “Voting Rights Act” bãi bỏ các điều kiện cử tri phải biết đọc, biết viết (literacy tests), đóng thuế bầu cử (poll taxes). Các điều kiện này thường được áp dụng tại các tiểu bang miền Nam Hoa kỳ gọi chung là “Jim Crow Laws”. Tuổi được bầu cử cũng thay đổi qua thời gian từ năm 1776 và Tu chính Án thứ 26 (1971) đã thống nhất tuổi được bầu cử là 18 tuổi cho công dân trên toàn quốc cho các cuộc bầu cử tiểu bang và liên bang.

3. Chứng Minh Thư (ID Card)

Đến năm 2016, khoảng 30 tiểu bang buộc phải xuất trình căn cước (ID) trước khi cho ghi danh bầu cử.  Khoảng 20 tiểu bang chưa có luật buộc phải xuất trình căn cước.  Hai đảng CH và DC có hai đường lối khác nhau về vấn đề này.

Đảng Cộng Hòa ủng hộ tiểu bang cấp căn cước cho cử tri nhằm tránh sự gian lận như bầu cử nhiều lần, không đủ điều kiện bầu cử vẫn được đi bầu cử, không phải là công dân Hoa Kỳ, di dân bất hợp pháp,, người chết đi bầu … Vấn đề gian lận bầu cử (election fraud) đã được nêu lên trong nhiều cuộc bầu cử.

Đảng Dân chủ chủ trương ngược lại để cho mọi người được bầu cử tự do không cần chứng minh thư (ID) vì lý do nhiều người không có giấy tờ tùy thân… (Phát biểu của ông Eric Holder, US Attorney General, Pres. Obama Administration).

Sự tranh chấp này khiến cho Tối Cao Pháp Viện (US Supreme Court) phải phân xử.   Năm 2008 Tối Cao Pháp Viện công nhận luật tiểu bang Indiana đòi hỏi cử tri phải có căn cước.  Các tiểu bang khác như Texas, Tennessee, Rhode Island, Kansas, Georgia… năm 2012 đã thông qua luật đòi hỏi cử tri phải có căn cước. Tuy nhiên một số tiểu bang khác còn lại vẫn còn tranh cãi về luật ID card. Trong năm 2016, 17 tiểu bang đã ban hành luật đòi hỏi phải xuất trình khai sinh, chứng chỉ nhập tịch… nhưng vẫn gặp khó khăn khi áp dụng.

4. Các chức vụ dân cử

Có rất nhiều loại chức vụ dân cử tiểu bang và liên bang tại mỗi tiểu bang.  Mỗi tiểu bang, như một tiểu quốc, có đầy đủ cơ chế dân cử:  Lập Pháp với lưỡng viện Quốc hội, Hành Pháp với Thống Đốc và các Bộ, Phủ  và Tư pháp với một  hệ thống tòa án.  Tiểu bang như Nebraska … chỉ có một viện (unicameral), không có lưỡng viện Quốc hội (bicameral) như các tiểu bang khác.

Nghị Sĩ Liên bang (US Senator): Mỗi Tiểu bang đồng đều có 2 Nghị Sĩ Liên bang, nhiệm kỳ 6 năm. Dân biểu Liên bang (US Representative): Có nhiều dân biểu Liên bang cho mỗi tiểu bang tùy theo dân số của tiểu bang, nhiệm kỳ 2 năm. Từ khi lập quốc, khoảng 30,000 dân được bầu một Dân biểu. Ngày nay số Dân biểu gia tăng theo dân số căn cứ trên bảng thống kê dân số cứ 10 năm một lần. Một dân biểu hiện nay có thể đại diện cho trên nửa triệu dân. Tiểu bang nhỏ nhất có 1 dân biểu và 2 Nghị Sĩ. Tiểu bang lớn nhất như CA có 52 Dân biểu và 2 Thượng Nghị Sĩ. Số Thượng Nghị Sĩ không thay thay đổi. Số Dân biểu có thể thay đổi tùy theo dân số gia tăng.

5. Phân khu bầu cử

Vì dân số gia tăng nên có vấn đề tái phân chia khu bầu cử (Congressional redistricting).  Khi tái phân khu như vậy có thể sẽ gây thất lợi cho một trong hai đảng Dân Chủ hay Công Hoà.  Sự tái phân cử tri là nhiệm vụ của chính quyền tiểu bang và có ảnh hưởng đến vấn đề bầu cử dân biểu liên bang và các viên chức công cử tiểu bang nên thường tạo nên các cuộc tranh luận sôi nổi trong quốc hội tiểu bang. Sự tranh dành vấn đề tái phân ranh giới và cử tri lợi cho khu bầu cử, có trường hợp phải nhờ Tối Cao Pháp Viện HK phân xử.

Trường hợp có nhiều cử tri cùng chung khuynh hướng chính trị được tái phân vào một khu bầu cử tạo nên hiện tượng “Vote packing”, có lợi cho vị dân biểu đương nhiệm (incumbent). Ngược lại vị dân biểu đương nhiệm có thể bị thất cử nếu có nhiều cử tri thuộc các khuynh hướng khác chiếm đa số hoặc cử tri thường hỗ trợ dân biểu đương nhiệm bị phân tán “Vote cracking”. Vấn đề tranh cãi là phải phân khu như thế nào để dung hòa các khuynh hướng chính trị trong địa phương liên hệ.

6. Vấn đề tài trợ các cuộc vận động bầu cử

Ứng cử mà thiếu tài chánh thì không có hy vọng đắc cử. Mặt trái của vấn đề vận động tài chánh là các ứng cử viên, sau khi đắc cử, có thể lo “ơn đền, nghĩa trả” cho những người đóng góp tài chính bằng cách thỏa mãn nhu cầu của những người tài trợ, những nhóm quyền lợi (interest groups) áp lực các  viên chức đắc cử. “Pay and play- tiền trao cháo múc”, thay vì dùng thì giờ hay công khố để phục vụ công ích.  Để giảm thiểu vấn đề thiên vị phục vụ cho phe phái đã giúp họ đắc cử. bằng nhiều mánh khóe khác nhau, năm 1907 đạo luật Tillman Act được ban hành để cấm các đại công ty đóng góp tài chính cho các cuộc vận động bầu cử các viên chức liên bang và ấn định mức chi tiêu tối đa cho mỗi ứng cử viên.  Luật Federal Corrupt Practices Act được ban hành năm 1925 ấn định mức đóng góp. Luật Federal Election Campaign Act được ban hành năm 1971 bắt buộc các ứng cử viên tường trình số tiền đóng góp nhận được trong thời gian vận động tranh cử.  Năm 1974, Quốc Hội thành lập cơ quan Federal Election Commission (FEC) do 3 Ủy viên Cộng Hoà và 3 Ủy Viên Dân Chủ kiểm soát tài chính của các cuộc tranh cử…. Dù luật lệ có quy định nhưng trong thực tế các nhóm áp lực vẫn đóng góp tài chính cho các ứng cử viên để được hưởng lợi lộc sau khi các ứng cử viên được đắc cử qua nhiều phương thức khác nhau.

7. Các Uỷ Ban Hoạt Động Chính Trị

Chúng ta thường nghe nói đến danh từ PAC. PAC là Political Action Committee. Các ủy ban vận động chính trị được thành lập tại các tổ chức, công ty, đảm trách vấn đề gây quỹ đóng góp cho các cuộc vận động tranh cử như GOPAC (Republican leadership PAC).  Nhiều đoàn thể chính trị tại các tiểu bang cũng thành hình các ủy ban vận động chính trị.  Những nhóm này được thành lập theo Section 527 của Internal Revenue Code/ IRS Code. Trong cuộc bầu cử năm 2004, cơ quan Swift Boat Veterans for Truth vận động tài chánh để ủng hộ George W. Bush và bài bác John Kerry. Ngược lại, cơ quan America Coming Together (ACT) ủng hộ Kerry chống Bush.  Cả hai cơ quan này đã bị phạt bạc triệu vì hoạt động ngoài sự kiểm soát của Federal Election Commission. (FEC)

Al Gore khi làm Phó Tổng Thống cũng bị khiếu nại vì dùng điện thoại của văn phòng Phó TT vận động tài chánh cho ứng cử viên của đảng DC và Tổng Thống Clinton cũng bị báo chí phanh phui khi mời các mạnh thường quân (donors) đến nghỉ ngơi tại Toà Bạch Ốc.  Thống Đốc Illinois Ron Blagojevich, đảng DC, bị tù vì bán ghế Thượng Nghị Sĩ của Barack Obama để trống của tiểu bang Illinois để lấy tiền tranh cử.

Trong vụ án Citizens United v. Federal Election Commission, (2011) Tối Cao Pháp viện cấm không được hạn chế sự đóng góp của các nghiệp đoàn, công ty thương mại cho các cơ quan bất vụ lợi. Đồng thời xác nhận các hiệp hội sinh lợi và bất vụ lợi có tư cách pháp nhân (không những là legal entity và cũng là legally persons) nên có quyền nhận đóng góp như quyền tự do ngôn luận dành cho mọi công dân! Phán quyết này cũng gây nên sự kinh ngạc cho một số người. Kết quả, các PAC có quyền nhận sự đóng góp vô giới hạn của tư nhân cũng như của các hiệp hội, các công ty  thương mãi và  được mệnh danh là Super PACs, rồi sau đó Super super PAC tha hồ nhận tiền đóng góp để hỗ trợ cho ứng cử  viên gà nhà …khiến cho Lawrence Lessig, giáo sư tại Trường Luật Harvard, viết sách “ Republic, Lost: How Money Corrupts Congress – and a Plan to Stop It ” để chống đối sự nhũng  lạm do tiền tài gây nên tại Washington DC, để cảnh giác  thành viên của chính quyền, Hành Pháp, Lập Pháp không nên chỉ lo vận động tài chánh để tranh cử mà lơ là quốc sự…

Nhiêm vụ của Tối Cao Pháp Viện rất quan trọng trong tiến trình hình thành hệ thống pháp luật Hoa Kỳ. Chánh nhất Hughes (1862- 1948) đã nhận xét rằng ý nghiã của Hiến pháp do Tối cao pháp viện giải thích. Tổng Thống Woodrow Wilson sánh Tối Cao Pháp Viện như là một “Quốc Hội Lập Hiến thường trực” vì vai trò của TCPV như là cơ  quan cuối cùng giải thích Hiến pháp, nói khác đi giải thích Hiến pháp của TCPV có tính cách chung thầm.

Theo Tổng Thống Thomas Jefferson, giao trọng trách giải thích Hiến pháp cho Tối Cao Pháp Viện là một tập tục nguy hiểm. TT Jefferson cho rằng quyền của nhân dân Hoa Kỳ phải để cho nhân dân Hoa Kỳ định đoạt hơn là chấp nhận sự giải thích có tính cách khống chế của riêng một cơ quan. Để cho công dân Hoa kỳ định đoạt qua lá phiếu cũng là một phương cách tốt.

Trước sự kiện  đảng Dân  chủ tấn công TT Trump từ khi đắc cử tháng 11, năm 2016 qua các chiến dịch như  “Russia collusion” tốn phí công khố hơn 30 triệu USD, không có kết quả,  đến “Abuse of Power, Obstruction of Congress” versus “ Executive power” của Tổng Thống.  Tuy nhiên, đảng Dân chỉ có 47 phiếu trên Thượng Viện, làm sao kiếm thêm 20 phiêú hầu có đủ 67/100 thượng Nghị Sĩ để bãi miễn TT Trump. Sau thời gian luận tối Thượng Viện đã phán quyết Trump vô tội.  Vì vậy, dù muốn, dù không, cuộc bầu cử tháng 11, 2020 sẽ có đáp số, xem thử quốc dân Hoa kỳ vẫn tín nhiệm TT Trump hay Dân chủ sẽ đắc cử.

Nhiều vấn đề khó khăn khác được bàn cãi hiện nay với ý kiến chống đổi nhau như vấn đề phá thai, đạo và đời, tự do cá nhân, vấn đề nhân quyền, vấn đề tự do kết liễu sinh mạng… Theo quan niệm của một số giới chức, Tối Cao Pháp Viện đi hơi xa trong vấn đề giải thích Hiến Pháp, do đó hai đảng cố gắng thay đổi chiều hướng giải thích Hiến pháp theo quan điểm của mỗi đảng.  Công Hoà chủ trương Hiến pháp phải được giải thích theo ý chỉ của những bậc khai quốc công thần đã đại diện nhân dân Hoa Kỳ soạn thảo Hiến pháp năm 1787.  Dân Chủ thì muốn thay đổi, cho nên hai đảng phải tranh cho được chức vụ Tổng Thống mới có thẩm quyền bổ nhiệm các vị Thẩm Phán Tối Cao Pháp Viện theo khuynh hướng của mỗi đảng.

8. Đề cử đại biểu

Thủ tục thông thường cho các đảng chính trị (1) tuyển chọn các đại biểu (delegate) từ các phiên hội sơ bộ (caucus) tại các precinct (khu tuyển cử) trong các thành phố. (2) Các đại biểu được các precinct bầu sẽ tham dự đại hội cấp County (County Convention) để bầu đại biểu tham dự đại hội cấp tiểu bang (State Convention) (3) Đại hội cấp tiểu bang sẽ họp để bầu đại biểu tham dự  đại hội đảng Toàn Quốc (National Convention). Tuy vậy, thủ tục có thể thay đổi tùy theo tiểu bang.

Đảng Dân Chủ chọn ứng viên từ các cuộc bầu cử sơ bộ tại cấp tiểu bang.  Các đại biểu cấp tiểu bang sẽ tham dự đại hội toàn quốc để chọn ứng cử viên đại diện cho đảng ra tranh cử Tổng Thống. Số đại biểu đảng Dân Chủ thay đổi trong mỗi kỳ bầu cử, khoảng trên dưới 4000 đại biểu được chọn để tham dự Đại hội đảng toàn quốc để bầu đại diện đảng ra ứng cử Tổng Thống. Các ứng cử viên chỉ cần đa số phiếu tương đối (simple majority) đã được định trước, số phiếu nầy là số đại biểu riêng của mỗi mỗi đảng, để được chọn làm đại diện đảng ra tranh cử Tổng Thống.  Các đại biểu này được gọi là đại biểu có cam kết “Pledged delegates”. Họ thường đã gặp các ứng cử viên tại các phiên hội tại các Precinct, County và State convention hay National Convention. Ngoài các đại biểu chọn từ cấp tiểu bang, cấp lãnh đạo đảng chọn thêm một số đại biểu khác làm “Superdelegates” trong số các Dân biểu, Nghị Sĩ, Thống Đốc của đảng. Trong cuộc vận động bầu cử TT năm 2016, bà Clinton có nhiều Superdelegates và Ông Sanders tỏ ra bất bình về vấn đề phe phái này.   Năm 2008, Đảng DC có đến 796 Superdelegates, là những người có chức vụ, quyền thế và có ngân qủy, có khả năng hỗ trợ cuộc bầu cử. Đa số là thành viên của nhóm Establishment, “Áo xiêm buộc trói lấy nhau”, tạo thành một thành trì bảo vệ quyền lợi của đảng.

Đảng Cộng hòa cũng chọn đại biểu từ cấp Precinct, County, State Conventions, để tham dự National Convention, nhưng chọn khoảng trên dưới 2000 đại biểu mỗi kỳ bầu cử. Đảng CH cũng chọn thêm các đại biểu từ các đại hội tại các tiểu bang và từ giới lãnh đạo đảng, nhưng không dùng danh xưng “superdelegates” mặc dù một số delegates được chọn từ trong giới lãnh đạo đảng CH, hay những thành viên của nhóm Establishment của đảng CH.

Các cuộc bầu cử sơ bộ thường được tổ chức qua ba hình thức: (1) Họp sơ bộ khoáng đại (open primary) trong đó không phân biệt Dân chủ hay Cộng hoà. Đảng viên CH có thể bầu cho ứng viên DC hoặc ngược lại. (2) Họp sơ bộ bán khoáng đại (semi-open system) trong đó các cử tri độc lập (independent voter) có thể bầu cho ứng viên DC hoặc CH. (3) Họp sơ bộ kín (closed primary) chỉ dành cho cử tri ghi danh vào đảng mới được tham dự bầu cử.

9. Vận động tranh cử

Trong tiến trình chọn ứng cử viên từ hàng chục người (contender) của các đảng ghi danh tranh cử cho đến khi chọn được ứng cử viên chính thức đại diện đảng ra tranh cử kéo dài khoảng 2 năm.  Trong cuộc bầu cử Tổng Thống HK, nhiệm kỳ 2016-2020, theo danh sách ứng viên ghi danh với Federal Election Committee có 37 người ghi danh dự tranh và trên phiếu bầu Tổng Thống Hoa Kỳ 2016, có ghi danh ứng cử Viên của chín (9) đảng ra tranh cử.

Trong cuộc chạy đua vào Toà Bạch Ốc, đa số ứng viên đã lần lượt rút lui sau những lần vận động tại một số tiểu bang mẫu như Iowa, New Hampshire và South Carolina… và sau các cuộc tranh luận ”so tài” do các cơ quan ngôn luận tư nhân tổ chức và đặc biệt dựa trên kết quả của các cuộc bầu cử sơ bộ tại các tiểu bang.

Ngoài các tiểu bang đông dân cư, có một số tiểu bang không phải là những tiểu bang đông dân số, nhưng là những tiểu bang tiêu biểu cho các khuynh hướng của cử tri và có tính cách thử thách các ứng viên,  xem thử các ứng viên có được các tiểu bang nhỏ ủng hộ, như Iowa tiêu biểu cho cử tri ngành nông nghiệp.

Từ năm 1976, UCV Dân Chủ Jimmy Carter thắng hạng nhì tại cuộc bầu cử sơ bộ tại Iowa, sau đó đắc cử Tổng Thống. Đảng DC xem sự thành công sơ khởi tại Iowa một dấu hiệu tốt cho sự thành công trên toàn quốc. Thử thách thứ hai thường được thực hiện tại New Hampshire, nơi đây đa số cử tri không thuộc DC hay CH mà đa số là cử tri độc lập (independent voter). NH là một địa bàn tốt thử thách các ứng viên xem thử họ có khả năng thuyết phục các cử tri độc lập? Ngoài hai tiểu bang nêu trên, đảng CH cũng xem tiểu bang South Carolina là một thí điểm tốt để đo lường tâm lý của cử tri và khả năng của UCV.

Các đảng buộc lòng phải hỗ trợ những UCV được nhiều phiếu nhất đại diện đảng ra tranh cử Tổng Thống. Không có chuyện đảng cử những ƯCV không xứng đáng và buộc dân phải bấu như các chế độ độc tài đảng trị. Nhờ thế mà, dù muốn dù không, UCV naò đắc cử sẽ trở thành Tổng Thống của toàn dân.

Các đại hội sơ bộ thường do các tiểu bang tổ chức theo thời gian và địa điểm thuận tiện ấn định như California đã đổi đại hội sơ bộ từ tháng 6 qua ngày 5 tháng 2.  Michigan và Florida tổ chức vào tháng 1.  Các đại hội sơ bộ được tổ chức vào ngày thứ ba trong tuần của nhiều tiểu bang được mệnh danh: “Super Tuesday”. Trong trường hợp không có ứng viên được đa số phiếu cấp bầu cử sơ bộ ấn định để được đại diện đảng ra tranh cử TT, đại hội đảng toàn quốc sẽ bỏ phiếu quyết định theo phương thức “Brokered Convention” như đảng CH đã dự trù trước đây, nếu UCV Trump không đủ phiếu tín nhiệm theo luật định trong cuộc bầu cử  2016, nhưng trường hợp nầy đã không xảy ra.

Hiến pháp Hoa Kỳ ấn định cuộc bầu cử Tổng Thống được tổ chức vào NGÀY THỨ BA sau ngày thứ Hai đầu tiên của tháng 11. Các tiểu bang có tính cách phụ trợ quyết định thắng cử như New Hampshire, Iowa, Ohio, Michigan, Pennsylvania, Florida, New Mexico là những Swing states mà các ứng cử viên cần tranh thủ cử tri ngoài những tiểu bang có số cử tri tương đối cố định như các ”Green states” bầu cho ứng viên Dân chủ hay “Red states” thường bầu cho ứng viên Cộng hoà. Ứng viên đảng DC thường thắng phiếu tại các tiểu bang Minnesota, Washington State, Oregon, California, New York.  Đảng CH thường thắng phiếu tại các tiểu bang taị Trung và Đông Mỹ.  Có những tiểu bang “yellow” là những tiều bang có nhiều cử tri độc lập hay “swing state”mà các ứng cử viên Dân Chủ hay Cộng Hoà cần nỗ lực tranh thủ đế thắng.

10. Thể thức đầu phiếu

Bầu phiếu phổ thông được áp dụng cho hầu hết các cuộc bầu cử cấp tiểu bang và liên bang theo thể thức bầu cử phổ thông (popular), đa số tương đối (simple majority), trực tiếp (direct) và kín (secret). Đa số tương đối có nghĩa là ứng cử viên nào được nhiều phiếu phổ thông thì được đắc cử.

Tuy nhiên, đắc cử vào chức vụ Tổng Thống Hoa Kỳ không chỉ căn cứ vào phiếu phổ thông (popular vote) mà còn căn cứ vào Phiếu của Cử Tri Đoàn (electoral vote). Thông thường, ứng cử viên nào thắng phiếu phổ thông tại một tiểu bang thì thắng luôn phiếu cử tri đoàn (Winner-take all). Nhưng thỉnh thoảng có những trường hợp thất cử dù thắng phiếu phổ thông nhưng thua phiếu cử tri đoàn. “Thi không ăn ớt thế mà cay”!

Trong cuộc bầu cử Tổng Thống Hoa Kỳ  năm 2000, ứng cử Viên Albert “AL” Gore có 600,000 phiếu phổ thông cao hơn phiếu phổ thông của ứng Cử Viên George  W. Bush. Tuy nhiên ứng cử viên George W. Bush thắng phiếu tại Florida nên số phiếu cử tri đoàn cao hơn Al Gore.  Al Gore khiếu nại và Tối Cao Pháp Viện tuyên bố George W. Bush đắc cử Tổng Thống Hoa Kỳ nhiệm kỳ 2000-2004. UCV Bush không phải vì thắng phiếu phổ thông mà nhờ được thắng phiếu cử tri đoàn. Muốn hiểu rõ thêm trường hợp này xin đọc thêm án lệ (Bush v. Gore, 531 US 98 (2000).  Sự kiện này cũng cho chúng ta thấy vai trò của Tối Cao Pháp Viện quan trọng như thế nào.  Tân Tổng Thống nhiệm kỳ 2016-2020 …đã  có cơ hội bổ nhiệm các thẩm phán Tối Cao Pháp Viện có cùng  khuynh hướng chính trị trong thời gian 4 hay 8 năm tới vì hiện nay có 3 vị thẩm phán Tối Cao pháp Viện trên 78 tuổi.

11. Phiếu Phổ Thông và Phiếu Cử Tri Đoàn (Popular vote & Electoral vote)

Mỗi tiểu bang có một số “cử tri đoàn” (electoral college) gồm 2 Nghị Sĩ Liên bang và một số Dân biểu Liên bang tuỳ theo dân số.

Hoa Kỳ có 538 phiếu cử tri đoàn gồm có: 100 Nghị Sĩ Liên bang (US Senator) và 438 Dân biểu Liên bang (US House of Representatives). Số dân biểu có thể được điều chỉnh tuỳ theo dân số…  Muốn đắc cử Tổng Thống, ứng cử viên phải hội đủ 270 phiếu cử tri đoàn trên 538 phiếu. Nghĩa là ít nhất phải hơn đối thủ 2 phiếu. Ứng cử viên nào thắng phiếu phổ thông tại tiểu bang sẽ thắng luôn phiếu của cử tri đoàn tạị tiểu bang đó.

 Bản đồ Phiếu Cử Tri Đoàn theo tiểu bang

Trong lịch sử bầu cử Tổng Thống Hoa kỳ có vài trường hợp bất thường xảy ra. Năm 1787 Quốc Hội Hoa Kỳ đã tranh luận về vấn đề bầu cử Tổng Thống và để dung hoà hai ý kiến: Tổng thống do Quốc hội bầu hay do dân chúng bầu?  Quốc hội đã biểu quyết dùng cả hai phương thức. Ngoài phiếu phổ thông, Tiểu bang có nhiệm vụ chọn đại biểu với Cử tri đoàn (electoral college) cho mỗi tiểu bang. Tổng số đại biểu của cử trì đoàn tại mỗi tiểu bang bằng tổng số dân biểu liên bang và 2 nghị sĩ liên bang. Ví dụ: Tiển bang X có 8 dân biểu liên bang và 2 nghi sĩ liên bang: Tổng số cử tri đoàn là 10 người (10 phiếu).  Cử tri đoàn của 50 tiểu bang gốm.  (100 US nghị sĩ + 438 US dân biểu=538)

Lịch sử bầu Tổng Thống Hoa Kỳ cũng đã ghi lại năm 1800, ứng cử viên Thomas Jefferson và ứng cử viên AAron Burr mỗi người nhận 73 phiếu. Sự kiện này đã được trình Hạ Nghị Viện, chiếu Hiến Pháp Hoa Kỳ để quyết định và UCV Jefferson đã đắc cử.  Cuộc bầu cử năm 1824 và 1876 cũng do Hạ Nghị Viện Hoa Kỳ quyết định mặc dù ứng cử viên trong hai cuộc bầu cử này không nhận được đa số phiếu phổ thông.

Năm 2000, Tối Cao Pháp Viện phán xét cho George W.  Bush đắc cử chức vụ Tổng Thống nhờ có phiếu cử tri đoàn cao hơn phiếu cử tri đoàn của Al Gore, nhưng phiếu phổ thông của Al Gore cao hơn phiếu phổ thông của George W. Bush.   Hiện nay, có khuynh hướng vận động bãi bỏ phiếu phiếu cử tri đoàn. Nếu khuynh hướng này thắng thế thì những tiểu bang đông dân số sẽ đè bẹp các tiểu bang có dân số thấp, tạo nên sự bất công giữa các tiểu bang.

12. Bầu Cử Tổng Thống nhiệm kỳ 2020-2024           

Năm 2020, dân số Hoa Kỳ được phỏng định là 332,528,000 (US population). Trong đó khoảng 235,097,000. công dân đủ điều kiện đi bầu (population eligible to vote). Cử tri đi bấu  khoảng 60%  = 141.000.000. (Source: Weldon Cooper Center, University of Virginia). Dân số người Mỹ gốc Á Châu, gồm 21 sắc tộc. : 22,500.000. Dân số người Mỹ gốc Viêt : 2,100,000, Công dân Viêt Mỹ đủ điếu kiện đi bầu khoảng  1,500,000. Cử tri đi bầu 60% hay khoảng 900,000..

Trên phiếu bầu năm 2020 có ứng cử viên của 9 đoàn thể chính trị ra tranh cử: (1) Republican: Donald J. Trump & Michael Pence; (2) Democratic-Farmer-Labor: Joseph R. Biden & Kamala Harris; (3) Independence-Alliance: Roque De La Fuente  & Darcy Richardson; (4) Green Party:  Howie Hawkins & Angela Walker; (5) Independent: Kanye West& Michelle Tidball ; (6) Independent: Brock Pierce & Karla Ballard; ( 7) Socialism and Liberation: Gloria La Riva & Leonard Peltier; (8) Socialist Worker Party: Alyson Kennedy & Malcolm Jarret; (9) Libertarian Party: Jo Jorgenson & Jeremy “Spike” Cohen.

Ứng cử Tổng Thống nào thắng đa số phiếu phổ thông (popular vote) sẽ thắng (winner-take all) phiếu cử tri đoàn (electoral vote) tại tiểu bang đó.  Muốn thắng cử UCV Tổng Thống phải đạt được ít nhất 270 phiếu cử tri đoàn trên 538 phiếu.  Trong kỳ bầu cử năm 2016, UCV Trump, đảng CH đạt được 309 phiếu cử tri đoàn và đã đánh bại bà Clinton chỉ có 229 phiếu.

Vấn đề sai biệt giữa phiếu cử tri đoàn và phiếu phổ thông có thể xảy ra vì sự sai biệt dân số và số cử tri đoàn giữa các tiểu bang. Tiểu bang không thể quân phân dân số chính xác khi ấn định số dân biểu Liên bang. Do đó đã xảy ra trường hợp, một ứng viên có đa số phiếu phổ thông nhưng lại không có đủ số phiếu cử tri đoàn như trường hợp Al Gore năm 2000 và trường hợp của bà Clinton năm 2016.

Tất cả các khiếu nại, nếu có, về bầu cử Tổng Thống Hoa Kỳ sẽ được chung quyết bởi Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ (US Supreme Court) nếu các biện pháp giải hóa hành chính (administrative mediation) không đạt được kết quả.

Trần Xuân Thời

Con Nai Vàng Ngơ Ngác

Tâm Minh Ngô Tằng Giao

Vùng thủ đô Hoa Kỳ đã bắt đầu vào Thu.  Tháng 10 trời bớt nóng bức. Virginia vẫn được mệnh danh là tiểu bang của những người yêu nhau (“Virginia is for Lovers”).  Nhưng nếu trời cứ tiếp tục nóng bức và hạn hán thì những cặp tình nhân cũng chịu không nổi mà phải “tắt lửa lòng” sớm thôi. Bởi thế mùa Thu đến đã được mọi người chào đón nồng nhiệt, nhất là những người từng có một thời sinh sống tại Đà Lạt.

Nói đến mùa Thu những người yêu thơ lại nhớ đến một bài thơ dễ thương thuở trước mà tác giả là Lưu Trọng Lư, đó là bài “Tiếng Thu”:

Em không nghe mùa Thu

Dưới trăng mờ thổn thức?

Em không nghe rạo rực

Hình ảnh kẻ chinh phu

Trong lòng người cô phụ?

 

Em không nghe rừng Thu,

Lá thu kêu xào xạc,

Con nai vàng ngơ ngác

Đạp trên lá vàng khô?

Người Đà Lạt tìm thấy trong bài “Tiếng Thu” cái hình ảnh “trăng mờ” bồng bềnh trên đỉnh núi, lênh đênh qua ngọn đồi, chập chờn ẩn hiện trong lũng sương hay lấp ló qua các rặng thông ngút ngàn của núi rừng Lâm Viên. Lại còn cái âm thanh “xào xạc” của cả một thảm lá cây rừng nữa chứ! Cái âm thanh êm ái thân thương từng nhẹ vang giữa đất trời Đà Lạt như còn mãi mãi vang vọng trong lòng người xa xứ.

Câu thơ “con nai vàng ngơ ngác đạp trên lá vàng khô” đã vẽ ra cả một bức tranh thơ mộng, tuyệt mỹ của rừng núi Lâm Viên mà những người từng sống lâu năm tại đây thỉnh thoảng vẫn có dịp được chiêm ngưỡng! Tiếc thay người yêu thơ được biết tác  giả “Tiếng Thu” đã bị phê bình gắt gao về bài thơ này. Đại ý như sau: “Lưu Trọng Lư là nhà thơ tiêu biểu cho một thời đại trong thi ca, tiêu biểu cho một thế hệ thanh niên Việt Nam mà một số rất đông còn bơ vơ trước một ngã ba đường, đang đi tìm một hướng đi cho bản thân và cho dân tộc nhưng chưa tìm thấy, có lúc trong hoang mang và tuyệt vọng tưởng đâu chỉ có thể tìm thấy con đường đó ở trong thơ”.

Sau 1975 nhà thơ Lưu Trọng Lư đã từ Bắc vào Nam và đi đây đi đó để nói chuyện văn thơ và nhân đó tự thanh minh cho mình, tự biện hộ cho bản thân mình về bài “Tiếng Thu”. Nhà thơ họ Lưu ngỏ ý đã tìm ra “lý tưởng” rồi và sửa lại một cách gượng gạo là: “Con nai vàng không ngơ ngác nữa, Em ơi!”

Trên báo chí trong nước sau 1975  người yêu thơ được đọc những bài báo phê bình gay gắt chú nai vàng ngơ ngác: thái độ ngơ ngác là “đáng trách”, là không tự “giác ngộ” để nhập cuộc với “cách mạng trong cả nước”, là thái độ “tiểu tư sản”, là “chây lười lao động” v.v… Các bài báo nhấn mạnh thêm là con nai vàng sao lại chỉ ngơ ngác đạp trên đống lá vàng khô xào xạc  mà không nhân dịp này lấy chân vun vén cái thảm lá vàng khô đó lại thành từng đống để nhân dân có thể dùng làm… “chất đốt”. Thật tội nghiệp cho chú nai vàng!

Ở nước ngoài người ta được đọc một bài của nhà văn Vũ Ký viết về Lưu Trọng Lư với tiêu đề: “Những giọt nước mắt của nhà thơ Lưu Trọng Lư”. Vũ Ký kể lại là trong một cuộc đi chơi với Lưu Trọng Lư vào năm 1979 khi Vũ Ký nhắc lại những vẩn thơ nổi tiếng của Lưu Trọng Lư, trong đó có bài “Tiếng Thu” thì Lưu Trọng Lư nói: “Ồ! Anh hay quá, làm sao mà anh thuộc được thơ của tôi nhiều vậy? Thú thực, anh đọc lên, tôi cứ tưởng là của ai, chính tôi cũng không nhớ được bài thơ nào của mình mà cũng không ai nhắc cho tôi nhớ nữa…”

Sau đó nhà văn Vũ Ký viết tiếp: “Tôi sửng sốt và giật mình. Té ra tôi đang chứng kiến một hiện tượng nhị phân nhân cách về tâm lý học: con người thứ hai của họ Lưu không nhớ gì đến con người thứ nhất nữa. Hay con người thứ nhất trong thể xác của họ Lưu đã hoàn toàn bị hủy diệt bởi con người thứ hai do sự tẩy não thành công của một quái đản ma mị!”

Lưu Trọng Lư giờ đây đã ra người thiên cổ. Mùa thu Virginia đã gợi cho người Đà Lạt nhớ về thành phố đầy niềm thương nỗi nhớ này và đồng thời nhớ về Lưu Trọng Lư, một nhà thơ từng được coi là “nhà thơ của tình yêu và mộng tưởng”, “giàu tính lãng mạn, mơ mộng, đắm đuối và say mê cuồng nhiệt.” Nhà thơ mà một thời đã được Hoài Thanh nói là: “Giá một ngày kia Lư có nhảy xuống sông ôm bóng trăng mà chết ta cũng không nên ngạc nhiên chút nào”.

Tâm Minh Ngô Tằng Giao

Đêm Trung Thu

Thơ Cao Nguyên

Tháng Tám nhớ Rằm Trung Thu
xa trong vằng vặc tít mù xuân em
nhớ xưa Phố rợp Hoa Đèn
chân chen, tay vẫy – chê khen bạn mình

Đèn mày xấu. Đèn tao xinh
chòng qua ghẹo lại cái tình trẻ con
chia nhau miếng bánh thơm ngon
miệng cười ha hả vun tròn tuổi mơ

Anh còn nhớ mấy câu thơ
em viết từ dạo ngẩn ngơ vì tình:
” đêm nay Trăng đẹp. Trăng xinh
Chị Hằng, Chú Cuội – phải mình không anh? “

Vậy mà đã mấy mươi năm
Cuội – Hằng xa cách, tình thành chiêm bao
dõi em theo một ánh sao
tim còn rung nhịp ra vào tuổi thơ

Đêm Trung Thu – anh vẫn chờ
em về trẩy hội giữa Thơ và Đèn
Hằng ơi! Cuội vẫn nhớ em
ngọn đèn xưa ấy sáng lên rồi nè !

Cao Nguyên

Dịch COVID-19 Với Suy Nghĩ Của Tuổi Già

Phạm Thành Châu

Biết bạn đang trải qua một thời gian dài tự cô lập trong lo lắng và buồn bực vì nạn Covid-19, tôi sẽ viết linh tinh “đủ thứ bà rằng” và cố gắng thêm thắt sao cho bạn nằm trong chăn, vừa hưởng cái thú gây gây lạnh của mùa thu vừa mĩm cười với những dòng chữ lẩm cẩm nầy. Tuy chẳng nghiêm trang, nhưng cũng được “một vài trống canh”.

Từ tháng 3 năm 2020, dịch Covid-19 bùng phát khắp thế giới. Tử thần Covid khởi hành từ thành phố Vũ Hán bên Tàu. Đó là một trong những thứ vũ khí sinh hóa, giết người tàn độc nhất mà tất cả các quốc gia, từ văn minh đến chậm tiến đều bó tay chịu chết. Nó tàn sát, đa số là những người lớn tuổi. Đã già mà còn thêm bịnh nền (có sẵn) trong người thì lưỡi hái của nó vung lên lấy mạng trong chớp mắt. Người lớn tuổi khiếp vía. Họ không dám ra đường, không dám tiếp xúc với ai. Có một bà già sợ đến nỗi không đi chợ, không lấy thức ăn mà bạn bè, con cháu để trước cửa, sợ vi rút dính ở bao bì, nên cứ để đó suốt mấy ngày, hàng xóm thấy lạ, gọi cảnh sát. Hóa ra bà ta gần chết vì đói. Chưa bao giờ người lớn tuổi nhìn thấy rõ cái chết của người khác (cỡ tuổi mình) bằng lúc nầy. Bạn bè, thân quyến chết hằng ngày, chết liệt địa! Tuần trước, ông X. mới gọi nói chuyện, hôm qua đã nghe “đi” rồi. Ông K. mình mới đến nhà thăm hôm kia, thấy vẫn mạnh khỏe, cười nói vui vẻ, vậy mà vừa nghe, đã được đưa vô bịnh viện, thở Oxy. Giở tờ báo, mấy trang sau đầy cáo phó với chia buồn. Tính đến hôm nay (thời điểm tháng 9 năm 2020) trên thế giới, đã có gần 30 triệu người nhiễm Covid-19 với gần 1 triệu người chết. Bịnh dịch đã giết hơn 7,000 bác sĩ, y tá, y công, là những người làm công tác chống đỡ, cứu chữa người bị lây nhiễm. Riêng nước Mỹ, số người nhiễm dịch Covid-19 gần 7 triệu người và số người chết đã trên 200 nghìn. Điều buồn cười là một quan chức y tế hàng đầu của Canada, Therese Tam khuyên mọi người không hôn và cần đeo “khẩu trang?” (che miệng lại!) khi quan hệ tình dục để bảo vệ bản thân khỏi virus corona.

Sau đây là những suy nghĩ vụn vặt của một người lớn tuổi, đang bị Cô (tên) Vít ám ảnh trong đầu. Như người lính ra trận, trước kẻ thù mà run sợ thì có mà bỏ mạng sớm. Nhưng kẻ thù thì có thể thấy được, chứ với cái “Cô Vít-19” nầy thì dung nhan chỉ thấp thoáng trong kính hiển vi điện tử với hình chụp như trái banh có gai màu sắc sáng chói, thấy đã lạnh người. Cá nhân tôi,  “thí mạng cùi”, cứ nhởn nhơ khắp nơi, cà phê, cà pháo với bạn bè mà vẫn bình yên vô sự. Mà giả sử như thình lình Cô Vít-19 (tuổi) nhảy đến ôm chầm lấy tôi thì sao? Sao trăng gì! Sống đến tuổi nầy, trên bảy mươi, quá đủ rồi, Còn gì phải lưu luyến chốn trần ai nầy nữa? Đời chỉ là vở hài kịch mà tôi là tên hề giễu dỡ, hạ màn thì vừa. Nhưng, cũng giống như trong tuồng cải lương, Nhân vật sắp chết mà vẫn ngóc đầu ca đủ sáu câu vọng cổ mới chịu tắt thở. Tôi cũng vậy, nhưng chỉ nói chuyện vui thôi vì “Khóc lóc, rên rỉ là hèn nhát”.

Mỗi người, sinh ra đời có ba giai đoạn. Giai đoạn đầu, “tin” có ông già Noel (Santa Claus), giai đoạn kế tiếp là “không tin” có ông già Noel và giai đoạn cuối cùng là “làm” ông già Noel. Giai đoạn đầu, trẻ con, ăn chơi và học hành, không có gì đáng nói. Đoạn giữa mới nhiều chuyện rắc rối cuộc đời, mà cái rắc rối nhất là tình yêu, rồi  tiến đến hôn nhân (lập gia đình), có cặp  chia tay (ly dị) và cuối cùng kéo nhau chui xuống đất (xuống “âm phủ!).

Xin nói chuyện tình yêu trước. Yêu ai phải tìm cách cho người ta biết. Người ta yêu lại mình mới ngỏ lời xin cầm bàn tay tức là cầu hôn. Mà muốn cầu hôn phải làm gì? Quì xuống dưới chân người đẹp với bó hoa hoặc với chiếc nhẫn hột xoàn. Khi người đẹp đã khoái mình thì dù nói “ba hoa thiên địa” gì nàng cũng gật đầu. Ngược lại người ta không ưng mà mình cứ lải nhải thì coi chừng ăn guốc lên đầu. Có vài màn cầu hôn đáng chú ý như sau.

Ngày 8 tháng 3, 2020, một cậu ở đường Abbeydale, nam Yorkshire, nước Anh, sửa soạn một buổi tối long trọng gồm hàng trăm ngọn nến được thắp lên, rượu, bong bóng bay và thức ăn bày lên bàn rồi vội vã lên xe đi đón người yêu. Lúc quay về thì căn nhà đang cháy tưng bừng với ba xe cứu hỏa đang xịt nước vào đám cháy một cách tuyệt vọng. Người đẹp khoái quá, nhận ngay lời cầu hôn của cậu ta trước đống tro tàn. Chả cần, hoa lá, đèn đóm phiền phức.

Một chuyện khác. Cậu Jérémy đưa người đẹp Athina Yalias vào công viên quốc gia Kruger, Nam Phi. Đến một nơi vắng vẻ, rậm rạp, cậu Jérémy quì xuống, thiết tha ngỏ lời yêu thương. Người đẹp cảm động, cúi xuống, hôn lên trán cậu ta. Thình lình, một con nhện có nọc cực độc tanratula, chích cho cậu ta một phát vào mông đít. Cậu Jérémy hét lên đau đớn, người đẹp cũng suýt ngất xiu vì lo sợ. Cũng may, con nhện không chích vào “điểm chiến lược” nên cậu vẫn là vợ chồng được như thường.

Một cậu khác, có sáng kiến lặn xuống nước, ngỏ lời cầu hôn với người đẹp đang đứng trên cầu nhìn xuống, lắng nghe. Cậu nói cách nào mà nước tràn vào họng và cậu chết đuối. Kính lạy ngài Allah! Xin ngài nhận cậu ta lên thiên đường và tặng cho cậu bảy (7) nàng trinh nữ kẻo tội nghiệp.

Rồi đến chuyện gia đình. Có mấy ông thần ve chai ngồi nhậu, gật gù với nhau. Một ông đề nghị, mọi người thử gửi tin nhắn (message) bằng điện thoại về cho vợ câu “Anh yêu em” để xem các bà trả lời ra sao? Bà vợ 20 tuổi trả lời “Em cũng yêu anh” Bà 30 tuổi “Xỉn rồi phải không?” Bà 40 tuổi “Ông điên rồi hả?” Bà 50 tuổi “Ông gửi lộn cho con đĩ chó nào hở? Về đây, bà thiến tận gốc cho biết tay bà”                            

Sống với nhau qua thời gian, làm gì cũng xảy ra chuyện “Ông ăn chả, bà ăn nem”, nghĩa là ngoại tình. Đã là vợ chồng mà còn ngoại tình thì gia đình trở thành địa ngục. Khi một người ngoại tình cũng giống như cây đinh đã đóng vào tường. Cây đinh có được nhổ đi nhưng cái lỗ đinh vẫn còn đấy. Nó ám ảnh suốt đời sống vợ chồng. Nhiều khi cố quên để hàn gắn tình cảm gia đình, nhưng đã thật sự nguội lạnh, thấy ghê tởm, hết phương cứu chữa, đành sống với nhau như đóng kịch, coi như bạn “share” phòng. Hiếm có những cặp vợ chồng lớn tuổi sống hòa hợp bên nhau tuy người ngoài nhìn vào tưởng như họ đang hạnh phúc, vì trải qua bao nhiêu năm, làm gì cũng có lúc họ vi phạm nghĩa vụ vợ chồng (nghĩa vụ đồng cư, chung thủy). Với người Âu, Mỹ, hễ có xích mích nhỏ là họ chia tay. Người Việt thường vì sĩ diện, vì con cái, vì xã hội mà miễn cưỡng chịu đựng nhau “Ở chung với người nghịch như nếm mật nằm gai” Không gì khổ sở bằng sống dưới một nhà mà hằng ngày phải nhìn thấy mặt người mà mình không dám nhìn. Có mấy ông già ngồi uống cà phê. Một ông hỏi các bạn “Ở tuổi gần đất xa trời. các ông ghét nhất là điều gì?” Người thì nói “Cái mặt lầm lì của mụ vợ khi có chuyện không vừa ý. Nó như người câm, miệng như dán băng keo” Người khác “Vợ tôi mở miệng ra là gầm gừ như sủa. Hỏi nó thì nó hỏi ngược lại. Nó cũng có học mà không hiểu sao càng ngày nó càng hỗn hào, mất dạy. Tôi là chồng nó mà nó nạt tôi như đứa ở”  Ông khác “Mình già rồi, đâu thiết chuyện lăng nhăng. Vậy mà cứ ghen bóng ghen gió. Hết chuyện mới lại đem chuyện xưa rích ra kể lễ, đay nghiến. Ước gì được như mấy ông độc thân. Sống không có vợ sung sướng như đang ở trên thiên đàng”. Báo chí thường đăng chuyện nhiều ông chồng sợ vợ đến nỗi phải vào nhà băng cướp tiền rồi ngồi chờ cảnh sát đến bắt đi. Hỏi tại sao? Ông ta bảo, mong được ở tù còn hơn là phải về nhà nhìn thấy mặt bà vợ. Muốn “thoát ly” khỏi tay bà vợ đâu phải chuyện dễ. Trốn đi dâu mà không bị “dẫn độ” về nhà? Ăn uống, sinh hoạt ra sao? Ai săn sóc khi bịnh hoạn? Chỉ có nhà tù là tốt nhất. (xin lưu ý. Tốn kém mỗi năm để giam giữ một tù nhân ở Mỹ là trên ba mươi nghìn USD, thời giá năm 2000)

Bây giờ nói qua chuyện ly dị. Ở Việt Nam ta, ngày xưa, có luật “Thất Xuất” (7 lý do chồng đuổi vợ ra khỏi nhà)

1- Tuyệt tự. Không con trai nối dõi tông đường.

2- Dâm dật (không chung thủy)

3- Không thờ cha mẹ chồng.

4- Lắm điều (chua ngoa, khiến người khác khó chịu).

5- Trộm cắp.

6- Ghen tuông vô cớ.

7- Có ác tật (bịnh tật, không đảm đương được việc nhà, có thể truyền bịnh cho người nhà, con cái)

Xem ra, người chồng, chỉ cần viện cớ mơ hồ (điều 4, điều 6) là có thể tống xuất vợ ra khỏi nhà. Tuy nhiên, cũng có luật “Tam Bất Khả Xuất” để bảo vệ người đàn bà dù người vợ phạm “Thất Xuất”.

1- Người vợ đã từng để tang cha mẹ chồng trong ba năm.

2- Trước nghèo, sau giàu (người vợ đã góp công sức vào gia đình nhà chồng)

3- Không còn chỗ nương thân (thông thường, chồng trả vợ về bên nhà vợ. Nếu cha mẹ vợ không còn thì không được đuổi vợ)

Tôi không thấy luật cho vợ được phép bỏ chồng?! Luật xưa, coi cho biết, chứ thời bây giờ, không ưa nhau, thì lôi nhau ra tòa xin li dị mà không cần nêu lí do. “Anh đi đường anh, tôi đường tôi…” Ly hôn chớp nhoáng được luật Hồi giáo chấp nhận. Người chồng chỉ nói, (có thể gọi điện thoại) 3 lần, 2 tiếng “Galak” (ly hôn) là coi như đã ly hôn (Xin báo một tin vui. Tôi đã theo đạo Hồi sáng nay. Chiều nay tôi sẽ về nói với vợ tôi “Galak. Galak. Galak!” Hê Hê Hê!)

Sau đây là một vài lý do (vui) khiến vợ chồng đưa nhau ra tòa. Một bà vợ đòi li dị ông chồng vì “Ông ta cứ gài ngược cuộn giấy vệ sinh khiến tôi bực mình hết sức”. Một bà vợ phát hiện chồng dẫn gái về nhà trong lúc bà ta đi vắng, vì con vẹt cứ nói “Vào nhà đi em. Anh nhớ em, thèm em quá!” Một bà khác thưa chồng vì tội phỉ báng “Hắn nói tôi là con khỉ già” Quan tòa hỏi “Ông ta nói như thế với bà từ khi nào?”Cách nay 20 năm” “Sao bây giờ bà mới thưa ông ta ra tòa?” “Tuần trước tôi đi sở thú mới thấy rõ con khỉ già nó như thế nào” Một bà khác đưa chồng ra tòa vì nói nhiều quá, chịu hết nỗi, quan tòa hỏi lý do, ông chồng trình bày sự việc suốt bốn tiếng đồng hồ khiến quan tòa cũng phải phát khùng! Một bà khác thưa với quan tòa “Buổi sáng, tôi chiên trứng cho thằng chả ăn thì hắn nói “Sao không làm ốp-la?”(chiên hơi sống). Bữa sau tôi làm ốp-la, thằng chả lại hòi “Sao không chiên trứng mà làm ốp-la?” Bữa sau nữa tôi làm ốp-la một trứng, chiên một trứng khác. Thằng chả lại nói “Trứng chiên thì làm ốp-la, trứng ôp-la thì lại đem chiên. Ai ăn cho được?”                                                                                                          

Vậy thì vợ là người như thế nào? Một ông bố nhận được thiệp hồng (thư mời đám cưới)  của con trai, ông ta trả lời thư như sau. “Một số người nói. Khi hai người kết hôn, họ trở thành những người thân. Nhưng bố muốn nói với con rằng. Cho dù con kết hôn bao nhiêu năm, con phải nhớ. Cha mẹ, con cái mới là người thân, còn vợ chỉ là người yêu. Vợ con không phải là người thân của con. Con có thể la lối, hờn trách bố mẹ vì bố mẹ là người sinh ra con. Mối liên hệ nầy không thể chối bỏ được, nhưng vợ thì không. Quan hệ với cô ấy là hai bên cùng có lợi. Nếu con phạm lỗi, cô ấy có thể rời con bất cứ lúc nào” (và thành vợ người khác)

Nói vậy tôi không có ý đánh giá thấp tình vợ chồng. Người Á Đông như người Việt, nhất là vùng thôn quê, hiếm có chuyện vợ chồng bỏ nhau. Họ yêu  thương nhau cho đến trọn đời. (Ngày xưa, vợ gian dâm với người không phải chồng mình thì bị gọt đầu, bôi vôi, đóng bè cho trôi sông, không ai dám cứu). Ở hải ngoại, vợ chồng sống giữa xã hội văn minh với người bản xứ, ngôn ngữ bất đồng, như người câm điếc, cảm thấy bơ vơ, lạc lỏng nên vợ chồng phải nương tựa, che chở cho nhau, tình nghĩa vợ chồng càng trở nên sâu đậm. Thế nên khi đôi vợ chồng già mà một người từ giả cõi đời thì người kia đau khổ, nhớ nhung dẫn đến suy sụp cả tinh thần lẫn thể chất. Người đàn ông chịu đựng mất mát tình cảm kém hơn đàn bà nên thường gục ngã rất nhanh sau khi vợ chết.

Có vài chuyện kể, khiến ta cảm động.

Cụ ông John Wilson 92 tuổi, cụ bà Marjorie 88 tuổi sống bên nhau gần 62 năm. Cụ bà bị bịnh phải vào nằm nhà thương Queen Hospital Burton ở Staffordshire, nước Anh. Rồi cụ ông mắc bịnh ung thư giai đoạn cuối phải vào cùng bịnh viện. Lúc đó cụ bà bịnh đã ổn định sẽ được đưa về nhà dưỡng lão. Nhận thấy, có thể hai người sẽ không còn dịp gặp nhau, bịnh viện sắp xếp hai giường của hai cụ gần nhau. Cụ ông nắm tay cụ bà, nói lời vĩnh biệt rồi mỉm cười, nhắm mắt đi vào cõi hư vô.

Đôi vợ chồng đều mù. Ngày cưới về, chồng nắm tay vợ dẫn đi khắp nhà cho vợ quen biết mọi vật. Nay cả hai đã gần tám mươi tuổi. Chồng làm nghề thổi kèn đám cưới, lúc nào cũng nắm tay vợ, dẫn theo, coi như thổi kèn cho vợ nghe “Trăm con phượng hoàng”, “Niềm vui đầy nhà”. Trong đám đông lao xao tiếng cười nói, chỉ cần nghe tiếng gọi nho nhỏ, chỉ cần nghe hơi thở, họ cũng tìm thấy nhau. Một lần, chồng ngã gãy chân, phải nằm bệnh viện. Vợ bốn ngày không ăn hạt cơm. Không sờ thấy bàn tay quen thuộc kia, bà không còn hồn vía nào nữa.

Bây giờ đến “Cái vấn đề” mà các cụ ông, cụ bà quan tâm, lo lắng. Đó là cái Chết.

Đứa bé, vừa lọt lòng mẹ đã chào đời bằng tiếng khóc “Oe oe!”. Trần có vui sao chẳng cười khì? Lớn chút nữa, chập chửng biết đi. Bước đi đầu tiên cũng là bước tiến đến bức tường trước mặt. Bức tường vô hình nhưng không người nào, kể cả vua chúa hay thánh nhân có thể vượt qua. Đó là cái Chết.

Nhưng chết là hết hay còn gì xảy ra?

Lai như lưu thủy hề, thệ như phong.

Bất tri hà xứ lai hề, hà sở chung.

(Đến như nước chảy, như gió thoảng.

Không biết ta từ đâu đến, rồi về đâu?)

Nếu người có linh hồn thì khi chết, hồn đi đâu? Lang thang trong cõi âm tăm tối, mịt mù, không thấy đường đi, không có lối về, bơ vơ, trơ trọi. Ai? Có ân nhân nào ra tay cứu vớt, đưa đường, dẫn lối cho linh hồn về với ánh sáng, thoát khỏi trầm luân? Thế là các triết gia, các ngài giáo chủ các tôn giáo đứng ra giải thích, rằng có những thế giới khác. Nó ở “trên cao” là thiên đường, nát bàn, cõi tiên… sướng lắm! Nó ở “dưới” địa ngục, hỏa ngục, âm phủ… đau đớn, khổ sở?

Triết gia Epicure (341-270 tcn) viết “Ta không sợ chết. Nó chẳng là gì đối với ta cả, vì khi ta sống, nó chưa có, đến khi nó có mặt thì ta không còn tồn tại”. Phái Khắc Kỷ, đặc biệt là Senèque và Epitète, lại có một lý luận khác để chiến thắng nỗi sợ chết. Họ coi sự chết là một tất yếu của thiên nhiên. Con người là một phần của thiên nhiên. Thiên nhiên có lý tính và con người tham dự vào lý tính ấy. Với cái chết, cá nhân sẽ tan biến, nhưng thiên nhiên là cái toàn thể vẫn tồn tại. Vì thế ta hãy chấp nhận cái chết như một “tất yếu theo định luật thiên nhiên”.

Đa số những lời giải thích của các tôn giáo thường siêu hình và áp đặt. Tôi không có thẩm quyền trên tôn giáo nên chỉ trích đăng một vài đoạn ngắn về phát biểu của các tín đồ của tôn giáo họ.

Trước hết là bài viết vui của luật sư Nguyễn văn Chức, một tín đồ Thiên Chúa Giáo. Ông tưởng tượng, sau khi mình chết, linh hồn mình sẽ “sinh hoạt” như sau. (bài của vip kk)… Sau khi đi thăm một vài nơi ở thế giới của Dante, tôi được đưa ra trước tòa phán xét của Thượng Đế. Tôi là người Công Giáo, tôi phải trả lời về tất cả những hành vi và ý nghĩ của tôi lúc còn sống. Ôi “ngày của thịnh nộ” (Dies irae, dies illa). Nếu linh hồn tôi có tội trọng (mortal sin), tôi sẽ phải xuống hỏa ngục, chịu lửa thiêu đốt đời đời. Nếu linh hồn tôi không có tội trọng và trong trắng như gương, tôi sẽ được lên Thiên Đàng ngay lập tức. Nhưng nếu linh hồn tôi, tuy không có tội trọng, nhưng không trong sáng như gương, nghĩa là còn lợn cợn bụi trần, thì tôi sẽ đi đâu? Tôi sẽ phải xuống ngục luyện tội (purgatory) một thời gian để lửa đốt con người tôi cho sạch những lợn cợn, và sau đó tôi mới được lên Thiên Đàng. Thời gian ở luyện tội, có thể là 10 năm, 20 năm, 50 năm . . . Tùy trường hợp nặng nhẹ. Mà tôi thì như cụ đã biết, nhiều lợn cợn lắm, thể xác cũng như tâm hồn. Có lẽ phải ở luyện tội cả mấy trăm năm.   Tôi được đưa đến tòa phán xét. Chưa đầy 5 phút, có tiếng loa. “Ai có vợ, và đã sống với vợ từ 30 năm trở lên, hãy đứng sang bên phải.” Tôi lễ mễ chạy theo tiếng loa, đứng sang bên phải. Đông lắm, người nào trông cũng thiểu não quá sức. Hai phút sau, có tiếng vọng từ trời cao: “Các con yêu mến, lúc còn sống, các con có vợ và đã ở với vợ trên 30 năm, như thế các con được coi như đã ở luyện tội cả mấy trăm năm rồi, các con sạch mọi tội lỗi và đáng được lên Thiên Đàng ngay lập tức để hưởng Thiên Nhan Chúa”. Mọi người đều hoan hô. Một ông già Mỹ móm mém, phều phào “All right!”. Tôi cũng phều phào “All right!”.                                              

Sự chết đối với người Hồi giáo.  Theo Qur an: Thiên Chúa định trước thời điểm một người chết trước khi được sinh ra. Không ai có thể đẩy nhanh hoặc trì hoãn cái chết của chính mình hoặc cái chết của người khác nếu điều ấy trái với ý muốn của Thiên Chúa, bất kể nguyên nhân cái chết. Theo Kinh Qur an 45:26: “ Allah sẽ ban cho bạn sự sống, sau đó giết bạn, và sau dó Ngài sẽ tập hợp bạn đến Ngày Phục sinh, trong đó không còn nghi ngờ gì nữa. Tuy nhiên, hầu hết mọi người không biết điều nầy”.  Có người nói rằng, người chiến binh Hồi giáo chết vì kẻ thù, linh hồn sẽ được lên thiên đàng và được Allah thưởng cho bảy (7) trinh nữ. Trước kẻ thù mà người chiến binh Hồi giáo bỏ chạy thì đàn bà cũng có quyền chém chết.                                                                                                   

Phát biểu của đức Đạt Lai Lạt Ma (Phật giáo) về cái chết.    

Với những người chuyên tạo ác nghiệp thì hơi ấm của thân thường thất thoát ở phần trên của thân trước tiên và sau đó mới thất thoát ở các phần khác của thân. Ngược lại, người chuyên tạo nghiệp thiện, thì hơi ấm thường thất thoát từ dưới chân trước tiên. Trong cả hai trường hợp trên, hơi ấm sau cùng tụ lại ở nơi tim, và từ đấy lìa khỏi thân. Các phần tử vật chất này, gồm tinh cha và huyết mẹ kết hợp lại, là nơi thần thức nhập vào lúc đầu tiên để vào tử cung mẹ khi bắt đầu sự sống. Các phần tử vật chất này biến thành trung tâm luân xa tim, và chính từ những điểm nầy mà thần thức cuối cùng lìa khỏi thân. Ngay khi thần thức lìa luân xa tim, thân trung ấm bắt đầu, trừ trường hợp của các vị tu hành cao, thác sinh trong cảnh trời vô sắc của các cõi không vô biên giới, thức vô biên giới, các “cõi Không” hoặc là các cảnh giới cao nhất của cõi luân hồi, thì đi tái sinh ngay sau khi chết. Những người thác sinh vào các cõi dục giới và sắc giới thì vẫn phải trải qua thân trung ấm, ở trong đó những người này sẽ mang hình dạng của thân tái sinh tương lai. Thân trung ấm có đầy đủ 5 giác quan và có cả nhãn thông, có khả năng đi xuyên qua vật chất, và bay ngay lập tức đến nơi mình muốn. Thân trung ấm cũng có thể thấy được các thân trung ấm khác cùng thể loại (tức là cùng cõi đi tái sinh). Các thể loại khác nhau là địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, người, a tu la và trời. Khi thân trung ấm chưa tìm được nơi đi tái sinh thích hợp với nghiệp lực của mình sau 7 ngày thì nó sẽ phải trải qua sự chết của trung ấm và tái sinh trong một thân trung ấm mới. Tái sinh trung ấm chỉ có thể diễn ra nhiều nhất là 6 lần, có nghĩa là thần thức chỉ có thể trải qua tối đa là 49 ngày trong cõi trung ấm. Điều đó cũng có nghĩa là khi một thần thức sau khi chết đi một năm trời, hiện ra và cho biết vẫn chưa được tái sinh, không còn ở trong cõi trung ấm nữa, thì thần thức đó đã tái sinh thành ma. (hết  trich) 

 Tóm lại đạo Thiên Chúa, đạo Hồi, đạo Do Thái tin rằng, sau khi chết, linh hồn sẽ bất diệt, được về với Thiên Chúa nơi thiên đàng. Đạo Phật thì cho rằng, linh hồn không bất diệt mà được  đầu thai vào kiếp khác tùy theo cái nghiệp mà mình đã tạo nên. Thế thì với người Á Đông (đặc biệt Trung Hoa, Triều Tiên, Việt Nam, Đài Loan, Nhật Bản) chịu ảnh hưởng của ba tôn giáo Phật giáo, Nho giáo, và Đạo giáo, nhận định ra sao về cái chết?

Như đã nói ở trên, với Phật giáo, con người khi chết, thân xác tiêu tan nhưng linh hồn sẽ đầu thai vào sáu cõi tùy nghiệp chướng do mình tạo ra khi còn sống. Lão giáo (Đạo gia) cho rằng, ngoài thân thể, là phần vật chất hữu hình còn có hồn và phách (vía).  Lão Tử không bàn đến Thượng Đế, linh hồn, thiên đàng, địa ngục mà chỉ nói một cách tổng quát về nguồn gốc của con người và vạn vật là từ Đạo mà ra, và cuối cùng trở về Đạo, hòa với Đạo. “Đạo khả đạo, phi thường đạo. Danh khả danh, phi thường danh” (Đạo mà có thể nói ra được không phải là đạo thường hằng vĩnh cửu, Tên mà có thể gọi ra được không phải là tên thường hằng bất biến)  Xin trích một bài báo: Đạo giáo thâm nhập vào Việt Nam từ khoảng cuối thế kỷ thứ 2. Đạo giáo có hai phái tu là nội tu và ngoại dưỡng, phái nội tu phổ biến ở Việt Nam hơn. Thời Bắc thuộc, Đạo giáo chỉ phổ biến trong dân gian, đến thời phong kiến độc lập, các nhà Đinh, Lê, Lý, Trần đều coi trong các đạo sỹ không kém các tăng sư, bên cạnh Tăng quan còn có cả Đạo quan. Từ đời Lê Trung hưng Đạo giáo bắt đầu suy thoái, những đạo quán bị Phật giáo hóa, trở thành chùa. Bên cạnh tượng các thánh của Đạo giáo còn có thêm tượng Phật[3]. Ngày nay, Đạo giáo Việt Nam với tư cách là một tôn giáo không còn tồn tại nữa, tuy nhiên những ảnh hưởng của nó đến tư duy và đời sống xã hội của người Việt thì vẫn còn. Thuật phong thủy, các phương pháp dưỡng sinh, các môn võ thuật, các hình thức bói toán, cúng bái, trừ tà của Đạo giáo vẫn phổ biến tại Việt Nam. Tại Hà Nội vẫn còn một số đạo quán của Đạo giáo như Thăng Long tứ quán bao gồm Trấn Vũ quán, nay gọi là đền Quán Thánh ở phố Quán Thánh; Huyền Thiên quán, nay là chùa Huyền Thiên ở phố Hàng Khoai; Đồng Thiên quán, nay là chùa Kim Cổ ở phố Đường Thành; Đế Thích quán, nay là chùa Vua ở phố Thịnh Yên.

 Đạo giáo đi vào Việt Nam, đặc biệt là Đạo giáo phù thủy, tìm thấy ngay rất nhiều điểm tương đồng với tín ngưỡng ma thuật của người Việt nên Đạo giáo ăn sâu vào người Việt rất dễ dàng. Trước đó người Việt đã từng sùng bái ma thuật, phù phép. Họ tin rằng những lá bùa, những câu thần chú có thể chữa được bệnh tật và trị được tà ma. Tương truyền Hùng Vương vì giỏi phù phép nên có uy tín thu thập được 15 bộ để lập nên nước Văn Lang. Dưới thời Bắc thuộc, Đạo giáo rất phát triển ở Việt Nam. Nhiều quan lại Trung Hoa sang Việt Nam cai trị đều thích phương thuật, ví dụ Cao Biền đời Đường từng “cưỡi diều tìm long mạch” để triệt nguồn nhân tài Việt Nam. Thế nên, nếu Nho giáo phải đến thời Lý mới được thừa nhận thì Đạo giáo hòa trộn với tín ngưỡng ma thuật đến mức không còn ranh giới. Từ Trung Quốc vào Việt Nam, Đạo giáo cũng vẫn giữ hai phái là Đạo giáo nhân gian thờ Đức Ngọc Hoàng Thượng đế, Thái Thượng Lão Quân, thần Trấn Vũ (Huyền Vũ), Quan Thánh Đế Quân. Bên cạnh đó, có sự kết hợp với tín ngưỡng dân gian, Đạo giáo còn thờ nhiều vị thần thánh khác của người Việt như Đức thánh Trần, Thánh mẫu Liễu Hạnh, cùng với Tam Phủ, Tứ Phủ, cho thấy sự hòa quyện giữa Đạo giáo và tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt. Ngoài ra, các pháp sư Việt Nam từ Bắc chí Nam còn thường hay thờ các thần Ngũ Hổ bằng bức tranh con hổ hay Quan Lớn Tuần Tranh là hai con rắn Thanh Xà và Bạch Xà quấn trên xà nhà trước bàn thờ. Đặc biệt, Đạo giáo đã đem sang Việt Nam phương pháp cầu Tiên (hết trích).

Tóm lại, theo đạo Giáo, ngoài thân thể, phần vật chất hữu hình, còn có hồn và phách (vía). Hồn là phần tinh thần. Khi thân thể chết đi thì phách không còn nữa, hồn tiếp tục tồn tại trong thế giới vô hình. Nguồn gốc của con người và vạn vật là từ Đạo mà ra, và cuối cùng về với Đạo hòa với Đạo. “Sống chết là do khí tụ lại hay tan mà thôi” (Trang Tử). Đạo giáo là một triết lý, sau biến thành một thứ mê tín dị đoan, ma thuật, phù thủy, bùa chú.

Còn theo Nho giáo thì người có khí, có hồn, có phách. Chết không phải là hết. Chỉ chết cái hình hài, còn cái khí tinh anh, cái hồn khí ấy thì lại về với chỗ sáng tỏ của vũ trụ. Tuy nhiên, đạo Nho chỉ hướng sự quan tâm về những vấn đề nhân sinh, nên xiểng dương phương châm “Sự quỉ thần” (khí, phách được gọi cung kính là sự quỉ thần) “Kính nhi viễn chi” và dụng đạo thần minh làm phương tiện giáo hóa tức đề cao khía cạnh phong hóa mà không bàn về khía cạnh siêu hình. Có người hỏi Khổng Tử “Con người có số mệnh không?” Khổng tử đáp “Có số mệnh nhưng không nên đứng dưới bức tường sắp đổ” “Chưa biết chuyện sống, sao biết được chuyện chết?”

Còn người Việt ta nghĩ gì về cái chết, về linh hồn?

Người Việt đa số, có đi chùa lễ Phật, xin lễ cầu siêu cho thân nhân, tin lời Phật dạy nhưng vẫn tự cho rằng mình theo “Đạo Ông Bà”. Họ vẫn tin rằng thân nhân mình, chết đi không phải đầu thai kiếp khác, không phải lên Niết Bàn hay xuống địa ngục mà vẫn ở cùng với con cháu trong gia đình. Trong nhà, chỗ trang trọng nhất là bàn thờ tổ tiên, thân nhân người đã khuất. Ngày xưa, trên bàn thờ có bài vị (thần chủ), là nơi linh hồn người đã khuất ẩn náu, ngày nay thay bài vị bằng di ảnh, tưởng như người đã chết vẫn hiện diện trong gia đình. Khi người thân trong gia đình bị “bất tỉnh nhân sự”. Để hồi sinh, chủ nhà đứng trước sân kêu lớn “Hú ba hồn chín vía (bảy vía nếu là nam) X. về nhập xác” đồng thời thắp đèn nhang trên bàn thờ, cầu xin ông bà phò hộ cho con cháu tai qua nạn khỏi. Khi người thân bị tai nạn hay bịnh tật mà “chết đường, chết chợ” thì gia chủ ra nơi người đã chết kêu lên “Hú ba hồn chín vía Nguyễn, hay Lê… X. theo tôi về nhà” Họ tin rằng nếu không gọi như vậy, hồn người chết sẽ không biết nhà ở đâu mà về để hưởng sự cúng kiếng, sẽ thành ma đói, ma khát. Người chết đuối phải nhờ thầy cúng đến lập đàn trục vong, hướng dẫn hồn về chùa nghe kinh kệ mà siêu thoát, nếu không hồn vẫn phải ở dưới nước cho đến khi (lôi kéo) một người khác chết (đuối) thay, hồn mới thoát khỏi trầm luân. Họ tin rằng, những người chết đuối, chết oan, chết “bất đắc kỳ tử”, linh hồn vất vưởng (oan hồn uổng tử) không nơi nương tựa thành ma, thành quỉ nên ngày rằm, mồng một thường có lẽ vật cúng ngoài trời (bàn thiên) cho các hồn ma đến hưởng và chấp nhận lời cầu xin của gia chủ đừng quấy phá, gây xáo trộn trong nhà đồng thời phù hộ cho mọi người được mạnh khỏe, vạn sự như ý. Vào dịp cuối năm âm lịch có lễ “rước ông bà” về đoàn tụ, vui xuân với con cháu. Sau ba ngày tết có lễ “tiễn ông bà”. Đa số người Việt tin rằng, linh hồn thân nhân vẫn đoàn tụ với nhau  ở một thế giới (vô hình) khác gọi là Âm Phủ. Âm Phủ không phải là địa ngục như Phật giáo mô tả mà là nơi linh hồn những người đã chết vẫn sinh hoạt, đi lại, giao tiếp, chuyện trò với nhau giống như một xã hội bình thường nơi dương thế. Vì vậy đến ngày giỗ chạp, rằm tháng bảy, ngoài lễ vật còn đốt theo “giấy tiền vàng bạc”, áo quần, nhà lầu, xe hơi, đô la… để người thân nơi cõi âm được sung sướng. Người bịnh nặng thường kể lại. Họ thấy cha, me, vợ, chồng… (đã khuất) đến nắm tay đòi dẫn đi. Trong cuộc chiến vừa qua “Mười phần chết bảy còn ba, chết hai còn một mới ra thái bình”. Mạng người như hạt gạo trên sàng. Sống sót được là nhờ phước đức ông bà.

Bây giờ mới thực sự là những suy nghĩ của bọn đàn ông già của chúng tôi. Người trẻ thường hỏi người già “Có sợ chết không?” Xin trả lời “Không sợ chết, chỉ sợ bịnh” Già lão đi đôi với bịnh tật. Nhiều người lớn tuổi ngồi với nhau thường nói về bịnh hoạn của mình như chuyện thời sự. Sau đây là những lời đối đáp của mấy ông già. Một ông nói “Tôi không muốn đến thăm người bịnh, vì thấy chính mình sẽ như vậy. Nằm một chỗ, cựa mình cũng đau, thở không nỗi, ăn uống, tắm rửa, thậm chí đi vệ sinh cũng phải có người giúp đỡ… Khổ như thế thà chết quách còn hơn” Một ông khác thở dài “Vậy mà lúc đó lại muốn sống. Chẳng phải lưu luyến cuộc đời mà vì bản năng sinh tồn của một sinh vật. Hơn nữa, người bịnh chẳng nghe ai nói mình sẽ chết mà an ủi rằng không sao đâu, bịnh sẽ hết. Ngay đến bác sĩ cũng quả quyết rằng bịnh đang được cải thiện, nhưng ra bảo nhỏ với người thân rằng. Bịnh nhân khó qua khỏi, về chuẩn bị tang lễ là vừa” Một ông có vẻ vô tư “Người chết có số. Mới thấy đó mà đã bịnh chết, còn người khác bị ung thư cả mấy chục năm vẫn sống nhăn. Có người cho rằng, do di truyền. Ông bà, cha mẹ sống thọ được bao nhiêu tuổi thì con cháu thọ được khoảng tuổi đó. Vậy tôi xin hỏi. Mấy ông có lưu luyến cuộc đời nầy không?” “Ra đi tay không. Chết là hết. “Gia tài” theo mình là cái “Quan tài”. Giờ thì chỉ cầu sao ngủ một giấc và không hề thức dậy nữa” .

               Đọc  đến đây, làm gì bạn cũng sẽ phàn nàn “Viết dài dòng quá! Tôi chỉ muốn biết ông đã chuẩn bị những gì trước khi ông từ giã cõi đời?” Xin thưa “Tôi chả làm gì cả ngoài việc viết mấy dòng di chúc, đại ý: Khi đưa tôi vô bịnh viện, thấy không hi vọng gì thì rút ống trợ thở. Liên lạc với nhà quàng, lo quan tài, tẩn liệm. Không làm lễ tang ma, không cáo phó, không thăm viếng, không phúng điếu. Tẩn liệm xong đưa quan tài thẳng ra nghĩa trang. Thế là xong một đời người!” Hết!

Phạm Thành Châu

tháng 9/2020

         

Liên Bang Chế Hoa Kỳ (American/US Federalism)

Lê Văn Bỉnh

                                     Người ta không thể luôn luôn ở tâm trạng chống đối quê hương mình. Phải có điều gì đó vui với chi phí mà nó đài thọ.

A man cannot always be in a battle mood about his country. There is some fun  to be had at her expense.(Franks Moore Colby.  The Colby Essays, Vol. 2)

          Tôn giáo và  chủ nghĩa quốc gia đồng hành tay nắm tay trong lịch sử Tây Phương ….Hoa Kỳ … gần đứng đầu trong cả hai lãnh vực này.

   Religious and nationalism have gone hand in hand in the history of the West…  America ranks… close to the top of both dimensions. (Samuel P. Huntington. Who Are We?)

Trong những năm gần đây, đặc biệt kể từ khi Tổng Thống Donald Trump bước vào Tòa Bạch Ốc, người Việt chúng ta, tại Hoa Kỳ cũng như ở nhiều nước khác, tỏ ra rất chú trọng đến sinh hoạt chính trị nước này.  Trên các phương tiện truyền thông cũng như qua những trao đổi thư tín, người ta không ngừng bày tỏ ý kiến cá nhân về đường lối chính sách của Hoa Kỳ đối với các nước đồng minh, hay đối thủ về nhiều mặt chính trị, kinh tế, tài chánh, ngoại giao quân sự, tài chánh vv.  Về phương diện quốc nội Hoa Kỳ, những chính sách lớn ban hành trước đây do Hành Pháp lãnh đạo bởi đảng Dân Chủ, như y tế, thuế khóa, nhập cư, hôn nhân giữa những người đồng tính, công bằng xã hội vv. cũng được đem ra mổ xẻ để so sánh.  Đây là một biểu hiện tích cực, cho thấy chúng ta, sau khi đã tương đối “an cư lạc nghiệp”, nay có khuynh hướng tham gia vào “dòng chính” chính trị, không còn xem mình là người “tạm dung, ăn nhờ ở đậu” nữa.  Người theo, kẻ chống đưa ra những lập luận –dựa theo truyền thông, hay những hiểu biết và suy nghĩ riêng tư của mình– nghe đều có lý.

***

Bài viết này –của một người vừa tìm hiểu vừa viết — nhằm mục đích khiêm tốn là cung cấp thêm một góc nhìn để chúng ta có những hiểu biết cơ bản về Liên Bang Chế Hoa Kỳ (US/American Federalism).  Sự hiểu biết thêm về thể chế chính trị này có thể giúp chúng ta thấy rõ hơn mối liên hệ –gắn bó lẫn xung đột– giữa chính quyền liên bang (federal/national government), với các tiểu bang, cũng như giữa hai cấp chính quyền này đối với các chính quyền địa phương* (xin xem thêm Ghi Chú phiá dưới bài).  Ngay từ đầu, có thể nói rằng liên bang chế Hoa Kỳ đã, đang và sẽ định hình quá khứ, hiện tại và tương lai của quốc gia này; và  sự phân chia quyền lực giữa chính quyền liên bang và các tiểu bang ảnh hưởng đến sự thịnh vượng, an ninh và sinh hoạt thường nhật của mỗi người dân Mỹ.  Nhiều chính sách đối ngoại của chính quyền liên bang, trong quá trình hình thành cũng như khi thực hiện, đã không thể nào bỏ qua các mối liên hệ này. Thậm chí có người còn lý luận rằng hầu hết các vấn đề lớn của nước Mỹ, kể cả đối ngoại, đều có thể giải quyết êm đẹp nếu các xung đột giữa liên bang và tiểu bang và địa phương được giải quyết thỏa đáng – nghĩa là “đầu xuôi, đuôi lọt.” Nói cách khác, người ta khó có thể gọi là hiểu biết rõ về các chính sách của Hoa Kỳ khi chưa biết vai trò của liên bang chế nước này.

Một Chút Lịch Sử

Chính quyền của đa số các quốc gia trên thế giới (chẳng hạn Anh, Pháp, Nhật, Việt Nam Cộng Hòa trước 1975) theo đơn nhất chế (unitary system), nghĩa là quyền lực quốc gia được tập trung vào bộ phận chính trị cao nhất.  Đó là chính quyền trung ương; từ đó quyền lực được phân tản hoặc ít hoặc nhiều đến các địa phương mà khi thấy cần, chính quyền trung ương có thể tập trung trở lại, thậm chí  quyết định thay cho chính quyền các địa phương.   Hoa Kỳ thì lại theo liên bang chế, nghĩa là quyền lực không tập trung vào một bộ phận duy nhất, tức cấp quốc gia (thường được gọi là cấp liên bang hay trung ương), gồm Tổng Thống, và Lưỡng Viện Quốc Hội, mà còn nằm trong tay các tiểu bang mà Hiến Pháp năm 1879 đã ghi khá rõ.  Dưới đây là một chút lịch sử về sự hình thành của Liên Bang Chế Hoa Kỳ.

Như chúng ta nhớ lại, trong thời gian chiến tranh với Anh quốc để giành độc lập (1775 – 1783), 13 thuộc địa miền Đông Hoa Kỳ ngày nay (4 thuộc Miền Bắc là NH, MA, RI và CT; 5 Miền Trung là NY, PA, NJ, DE, MD; và 4 thuộc Miền Nam là VA, NC, SC và GA) đã cùng nhau soạn thảo bản “Tuyên Ngôn Độc Lập” (năm 1776).  Một năm sau lại cùng tụ tập lại soạn dự thảo bản Hiếp Pháp đầu tiên của Hiệp Chúng Quốc Hoa Kỳ, tên gọi  là The Articles of Confederation. Bản dự thảo này lần lượt được các thuộc địa phê duyệt, và có hiệu lực từ năm 1781.  Theo Hiến Pháp 1781 này, Hiệp Chúng Quốc Hoa Kỳ là một “liên minh thân hữu” (league of friendship).  Đó là một thứ liên minh lỏng lẻo:  các tiểu bang giữ lại hầu hết chủ quyền (sovereignty) của mình, lớn nhỏ đều bình đẳng và độc lập với nhau.  Chính quyền “trung ương”, tuy có quyền hạn về hòa bình (nhờ đó mới ký hòa ước với Anh năm 1783, và có “tổng thống” John Hancock được bầu năm 1785), nhưng không được quyền thu thuế và điều hành thương mại giữa các tiểu bang.  Chính quyền trung ương này tỏ ra không hữu hiệu và đáp ứng kịp thời khi tình thế đòi hỏi, vì các quyết định quan trọng cần phải được 9 trên 13 các tiểu bang lớn nhỏ đồng thuận.

Vì những lý do đó mà các tiểu bang thấy Hiến Pháp 1781 cần phải có những sửa đổi.  Mùa Xuân năm 1787, 12 tiểu bang đã gửi 55 đại biểu đến họp tại Philadelphia (Pennsylvania) để bàn nhau tu chính Hiến Pháp The Articles of ConfederationTiểu bang Rhode Island không gửi đại biểu vì lo sợ nếu “một chính quyền quốc gia” (a national government, tức theo đơn chế) có thể hình thành như lời đồn đoán, thì sẽ không lợi cho tiểu bang nhỏ bé và ít dân của mình (chỉ 35 ngàn dân, so với 500 ngàn của Virginia, và 200-300 ngàn của nhiều tiểu bang còn lại) .  Các đại biểu họp phiên đầu tiên ngày 25/5/1787.  Sau đó, thay vì tìm cách tu chính bản Hiến Pháp cũ, các đại biểu lại bàn tán tranh luận sôi nổi về sự hình thành lưỡng viện quốc hội liên bang, và về vai trò của các tiểu bang.  Có hai khuynh hướng khác nhau rõ rệt.  Một nhóm đại biểu xem cần phải có chính quyền trung ương mạnh; cho rằng các tiểu bang sẽ là trở ngại nếu cứ muốn duy trì chủ quyền của mình. Khuynh hướng kia cho rằng các tiểu bang nhỏ lo sợ sẽ bị nuốt chững nếu khuynh hướng trước thắng thế.  Vì vậy các đại biểu nghĩ ra một giải pháp dung hòa hai khuynh hướng, nhằm quân bình quyền lực trung ương và quyền lực các tiểu bang.  Cuối cùng một bản dự thảo Hiến Pháp mới được hình thành vào ngày 6/8/1787.  Trong thời gian hơn một tháng sau đó (7/8/1787 – 10/9/1787), các đại biểu còn ở  lại vẫn tiếp tục bàn về nội dung của bản dự thảo này.

Trong khi thảo luận, cũng như khi bản Hiến Pháp thành văn, thì chữ federalism không hề xuất hiện, chỉ được nói đến sau này khi các tiểu bang đem ra phê chuẩn.  Theo Drake & Nelson (1999), federal do tiếng Latin foedus có nghĩa là một hợp đồng giữa đôi bên bình đẳng.  Theo dự thảo Hiến Pháp mới, các quyền của trung ương và địa phương đều được liệt kê ra.  Vì vậy, các chế độ liên bang trên thế giới khó có thể hoàn toàn giống nhau, vì tùy theo hoàn cảnh lịch sử của mỗi nước, mà mối quan hệ đôi bên có thể định hình khác nhau.

Để thuyết phục các tiểu bang, đăc biệt  New York, bấy giờ thương mại trở nên phồn thịnh nhờ Hiến Pháp cũ,  đồng ý phê duyệt dự thảo bản Hiến Pháp mới, hai đại biểu tài ba và tích cực nhất trong việc soạn thảo, Alexander Hamilton, đại biểu 30 tuổi của New York và James Madison, đại biểu 35 tuổi của Virgina, đã cùng John Jay, một chuyên viên ngoại giao kinh nghiệm đang làm việc tại New York, dùng chung bút danh Publius viết ra 85 bài báo, khởi đầu bằng “To the People of the state of New York,” để giải thích các vấn đề mới mẻ trong bản dự thảo Hiến Pháp . Bài báo đầu tiên xuất hiện ngày 27/10/1787.  Về sau, những bài báo đó được tập hợp lại, hiệu đính và xuất bản thành sách với tựa đề là The Federalist Papers, rất hữu ích cho việc tìm hiểu Hiến Pháp Hoa Kỳ –giá trị tương tự những biên bản thảo luận tại Quốc Hội được ghi lại trong  Công Báo Việt Nam Cộng Hòa của chúng ta –Trong bài báo số 45, Madison viết: “Các quyền hành ủy thác cho chính phủ liên bang theo dự thảo Hiến Pháp thì hiếm hoi và giới hạn. Còn quyền hành dành lại cho chính quyền tiểu bang thì nhiều và vô hạn…. Những quyền dành cho tiểu bang sẽ nới rộng tới mọi thứ đời thường liên quan đến cuộc sống, tự do, tài sản nhân dân, và trật tự, cải tiến và thịnh vượng của tiểu bang.”

Theo điều cuối cùng của bản dự thảo, thì chỉ cần 9 tiểu bang thông qua là đủ túc số. NH là tiểu bang thứ 9, thông qua ngày 21/6/1788; không lâu sau đó là VA, NY, NC.  Rhode Island là tiểu bang sau cùng, mãi đến 29/5/1790 mới chịu phê duyệt.  Bản Hiến Pháp mới với cái tên The Constitution of the United States đã có hiệu lực từ ngày thứ Tư 3/4/1789, tức là ngày họp đầu tiên của Quốc Hội mới theo Hiến Pháp này.  Bản Hiến Pháp 1789, cùng với 27 tu chính án lần lượt ra đời sau đó,  là cơ sở pháp lý cao nhất chi phối mọi sinh hoạt chính trị và đời sống của mọi công dân Hoa Kỳ.

Liên Bang Chế Qua Hiến Pháp

Người Mỹ, do sinh ra hay do nhập tịch, là công dân (citizen) của cả liên bang và tiểu bang mình đang ở, có quyền lợi và nghĩa vụ đối với cả 2 thực thể này.  Có vài tác giả còn gọi họ là công dân của các địa phương nữa, nghĩa là dưới cấp tiểu bang.  Theo nhận xét của người viết, Hiến Pháp 1789 chỉ gọi họ là “công dân của liên bang (Điều I, Khoản 2) và “công dân của tiểu bang (Điều IV, Khoản 2) mà thôi.  Như chúng ta biết, dưới chính thể cộng hoà, công dân bầu ra các chính quyền.   Trong quốc gia theo đơn nhất chế (unitary system), công dân bầu ra chính quyền trung ương, và chính quyền trung ương này san xẻ, phân tán quyền hành đến các cấp chính quyền địa phương – được bổ nhiệm hay có thể  được bầu ra.  Trong các quốc gia theo liên hiệp chế (confederation), công dân bầu ra các chính quyền tiểu bang (state governments); các tiểu bang này giữ lại hầu hết chủ quyền của mình, chỉ uỷ nhiệm cho “chính quyền trung ương” một số quyền nào đó mà thôi (thường là quốc phòng, ngoại giao vv.) Còn trong các quốc gia theo liên bang chế (federalism), công dân bầu ra chính quyền liên bang và chính quyền tiểu bang mình đang cư trú để 2 chính quyền này cùng thực thi các quyền hạn được ghi trong Hiến Pháp.  Theo Gordon Grodzins , người ta không nên so sánh  chính quyền Hoa Kỳ như một chiếc bánh nhiều tầng (a layer cake) với những tầng có chất liệu và màu sắc phân biệt rõ ràng, mà nên so sánh nó   như “chiếc bánh cẩm thạch” (a marble cake) với những tầng màu sắc quện nhau như  trong những viên bi  mà chúng ta hay chơi khi còn bé.  Ông viết:

Như những màu sắc pha trộn nhau của “chiếc bánh cẩm thạch”, những nhiệm vụ trong chế độ liên bang Hoa Kỳ cũng pha trộn nhau …. Chế độ liên bang Hoa Kỳ chưa bao giờ là những hoạt động chính quyền riêng biệt.  Không có lúc nào có thể ghi lên nhãn hiệu gọn gàng cụ thể  nhiệm vụ  “liên bang”, “tiểu bang” và “địa phương” cả [Xin xem  Chú Thích]  Trước khi được tổ chức đầy đủ, quốc gia này đã thiết lập ra nguyên tắc đầu tiên của liên bang chế Hoa Kỳ: Đó là chính quyền quốc gia sẽ dùng tài nguyên siêu việt của mình để khởi tạo và yểm trợ các chương trình quốc gia, chủ yếu được quản lý bởi các tiểu bang và địa phương. (Elaza, Carroll, Levine & Angelo, p. viii)

Những quyền của liên bang (được hiểu chủ yếu là Quốc Hội Liên Bang) được liệt kê trong các Điều Khoản của Hiến Pháp 1789.  Dưới đây là một số quyền của LB:

  • Điều I

Khoản 8  về điều hành thương mại (commerce clause) với nước ngoài và giữa các tiểu bang với nhau; ra những luật cần thiết và thích hợp (necessary and proper clause) để thực thi các trách nhiệm của chính quyền liên bang do Hiến Pháp qui định; vay mượn; in tiền; bưu điện (nhân số trên 900 ngàn so với 2,6 triệu nhân số LB); quảng bá tiến bộ khoa học và nghệ thuật; tổ chức tòa án LB dưới Tối Cao Pháp Viện LB; tổ chức quốc phòng; thu thuế vv.

Khoản 9 về di trú, nhập cư; quan thuế; tàu bè, bến cảng

  • Điều IV

Khoản 3 về việc thu nhận các tiểu bang mới vào Liên Bang

Khoản 4 về việc bảo đảm dân chủ cho các tiểu bang, cũng như bảo vệ chống xâm lăng và nội loạn

  • Điều VI, về sự tối thượng của Hiến Pháp, các luật Liên Bang và các hiệp ước quốc tế, nghĩa là có giá trị pháp lý cao hơn luật lệ của các tiểu bang.
  • Tu Chính Án XIII (phê chuẩn ngày 6/12/1865) hủy bỏ chế độ nô lệ trên toàn quốc
  • Tu Chính Án XIV (phê chuẩn ngày 9/7/1868) qui định bầu cử các giới chức chính quyền LB
  • Tu Chính Án XVI (phê chuẩn ngày 3/2/1913) cho phép chính quyền LB thu thuế lợi tức
  • Tu Chính Án XVII (phê chuẩn ngày 8/4/1913) cho phép công dân trực tiếp bầu 2 thượng nghị sĩ thay vì do quốc hội các tiểu bang chọn lựa như trước đó.
  • Tu Chính Án XXVII đặt điều kiện về sự thay đổi lương bỗng cho các Dân Biểu và Thượng Nghị Sĩ. Dự thảo Tu Chính Án này dự trù sẽ được phê duyệt ngày 25/9/1789 chung với 10 Tu Chính Án đầu tiên (gọi chung là Bill of Rights), nhưng nó lại bị quên đi!  Mãi trên 200 năm sau, nó mới được phát hiện, rồi trở thành Tu Chính Án sau cùng của HP 1789, sau khi tiểu bang Michigan bỏ phiếu thông qua vào ngày 15/12/1992.

Những quyền hành các tiểu bang được Hiến Pháp qui định qua:

  • Điều I, Khoản 10: Cấm không được gia nhập ký kết với nước ngoài, phát hành tiền tệ; nếu không được QHLB cho phép thì không được quyền ban hành thuế xuất nhập cảng; không được quyền có quân đội, tàu chiến trong thời bình, không được quyền gây chiến với tiểu bang khác hay ngoại quốc.
  • Tu Chính Án X (cùng với 9 Tu Chính Án I – IX, gọi chung The Bill of Rights, được phê chuẩn ngày 15/12/1791) được xem là vô cùng quan trọng trong việc xác lập quyền hạn của các tiểu bang. Tu Chính Án này viết như sau: Những quyền hành không được Hiến Pháp ủy thác cho Liên Bang, hay bị cấm đoán đối với các tiểu bang, thì sẽ được duy trì cho các tiểu bang, hay cho nhân dân (The powers not delegated to the United States by the Constitution, nor prohibited by it to the States, are reserved to the States respectively, or to the people).  Có thể khẳng định rằng Tu Chính Án này ra đời nhằm bảo đảm những quyền hạn rộng rãi, tuy không được nêu rõ ra, dành cho các tiểu bang và toàn dân, được xem như là bộ phận đối kháng với chính quyền liên bang.
  • Tu Chính Án XIV (được phê chuẩn ngày 9/7/1868, tức sau Nội Chiến 1861- 1865) Khoản 4 cho phép tiểu bang (và liên bang) không phải chịu trách nhiệm về nợ nần đối với các vụ nổi dậy chống Hoa Kỳ; cũng như những đòi hỏi về mất mát hay giải phóng người nô lệ; những nợ nần liên hệ bị xem là bất hợp pháp.

 Hai Tu Chính Án X và XIV nói trên được Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ (US Supreme Court) sử dụng triệt để giải thích về những vấn đề được xem như là “xám” trong Hiến Pháp nhằm giải quyết các vụ kiện giữa Liên Bang và Tiểu Bang, cũng như trong các vụ án về kỳ thị chủng tộc.

Vai trò của các tiểu bang quan trọng đến nỗi danh từ “tiểu bang” được nêu ra minh thị hay trực tiếp hàm ý đến 50 lần trong 42 khoản riêng biệt của Hiến Pháp 1789. Tuy nhiên nếu Tu Chính Án X nói trên cũng không cấm nỗi các thẩm phán các tòa liên bang thường  viện dẫn câu cuối cùng của Khoản 8 Điều I cho phép Quốc Hội “Làm mọi thứ luật cần thiết và thích hợp để hành xử các quyền đã nêu, hay những quyền mà Hiến Pháp này cho phép chính quyền Hoa Kỳ hay bất kỳ Bộ hay Viên Chức của chính quyền này” (“To make all Laws which shall be necessary and proper for carrying into Execution the foregoing Powers, and all other Powers vested by this Constitution in the Government of the United States, or in any Department or Officer thereof.” )

Chúng ta cũng không quên rằng các tiểu bang đều có Hiến Pháp riêng.  Tuy nhiên điều quan trọng về  song hành chủ quyền này không phải các “công dân” Mỹ ai ai cũng  biết.  Trong một cuộc thăm dò toàn quốc năm 1988, chỉ có 44% số người trả lời cho rằng tiểu bang mình đang ở cũng có Hiến Pháp! Thật ra ngay trong thời gian lập quốc (1776 – 1788), 13 tiểu bang đầu tiên cũng đã được Quốc Hội Liên Bang khuyên nên soạn những bản Hiến Pháp riêng cho tiểu bang mình (Những bản HP nguyên thủy này ngày nay cũng được đánh giá là rất dân chủ). HP các tiểu bang đều tam quyền phân lập.  Hành Pháp đứng đầu bởi Thống Đốc, ai cũng biết. Lập Pháp thì tên gọi khá khác nhau: đa số TB gọi đó là Legislature, một số lại gọi là General Assembly, thậm chí Massachusetts gọi General Court –dễ đưa đến hiểu lầm.  Tất cả các TB đều gọi Viện Trên (Upper House) là Senate, nhưng lại gọi Viện Dưới (Lower House) với các tên khác nhau: đa số gọi House of Representatives, vài TB gọi là House of Delegates, hay đơn giản chỉ là Assembly. Riêng Nebreska sau năm 1934 chỉ còn độc viện  –Senate, vì viện dưới bị xem là quá tốn kém.  Tổ chức Tư Pháp cũng phức tạp không kém. Có TB thì hệ thống tòa án có 4 cấp; có TB chỉ có 3 cấp, với các tên gọi khác nhau. Vai trò của tòa án tiểu bang đối với liên bang cũng có sự thay đổi. Vào đầu thập niên 1970, vấn đề liên bang chế thuộc lãnh vực tư pháp (judicial federalism)  đặt ra sau khi Warren Burger được bổ nhiệm làm Chánh Thẩm Phán.  Như chúng ta biết, khi xét xử, Tòa Án Tiểu Bang dựa theo Hiến Pháp tiểu bang cùng luật lệ tiểu bang và địa phương.  Do hoàn cảnh dân số, kinh tế  vv. thay đổi, Hiến Pháp các tiểu bang thỉnh thoảng cũng được tu chính để đáp ứng.

Qua các textbooks về chính quyền Hoa Kỳ (US Government), hay chính quyền tiểu bang và địa phương (State and Local Government), cũng như qua các sinh hoạt hằng ngày, chúng thấy các tiểu bang có ít nhất những quyền hạn cụ thể sau đây:

  • Tổ chức các cuộc bầu cử bầu các giới chức liên bang như Tổng Thống, Thượng Nghị Sĩ LB, Dân Biểu LB, và phê chuẩn các tu chính án cho Hiến Pháp Hoa Kỳ
  • Điều hành thương mại trong tiểu bang
  • Thu các loại thuế (trừ thuế xuất nhập cảng với nước ngoài), vay mượn nợ để đài thọ các công chi
  • Thanh tra kiểm soát hoạt động các hoạt động ngân hàng, công ty
  • Điều hành các định chế dân chủ cho tiểu bang như Thống Đốc, Quốc Hội, chính quyền địa phương
  • Làm luật và thi hành luật và điều hành tư pháp
  • Cung cấp, bảo vệ cư dân trong tiểu bang qua các dịch vụ y tế công cộng, giáo dục, cảnh sát, cùng các hoạt động văn hóa và tinh thần

Chống Tập Trung Quyền Hành

Như chúng ta đã biết, khi đồng ý ngồi lại để cùng soạn bản Tuyên Ngôn Độc Lập 1776, rồi kế tiếp bản Hiến Pháp 1781, các cựu thuộc địa muốn đoàn kết để đủ sức mạnh chống lại vương quốc Anh, nhưng đồng thời không muốn có một nhà nước giống vương quốc Anh, tức quá tập trung quyền bính vào một người, cũng không muốn tập quyền vào tay một nhóm nào.  Hiến Pháp 1781 thành công trong việc duy trì chủ quyền cho các thuộc địa này, tức không quá tập trung quyền lực, nhưng không thành công ở chỗ không hình thành được một chính quyền mạnh đủ khi cần thiết.

Hiến Pháp Hoa Kỳ- Trang 1            Nguồn: National Archives

Mục đích chủ yếu của cuộc họp mặt của các đại biểu tại Philadelphia là để tu chính bản Hiến Pháp 1781. Sau khi làm việc trong thời gian tương đối ngắn –chỉ 2 tháng rưỡi (từ 25/5/1787 đến 6/8/1787– bản dự thảo Hiến Pháp mới đã hoàn thành, nội dung khác rất nhiều với bản Hiến Pháp cũ.  Có hai khác biệt nổi bật.  Thứ nhất, Hiến Pháp mới hàm ý (tức không minh thị) nguyên tắc tam quyền phân lập theo chiều ngang, tức là Hành Pháp, Lập Pháp và Tư Pháp, mà đối với Tư Pháp, theo sử liệu, các đại biểu đã không mất nhiều thì giờ để tranh cãi;  lại còn không “dân chủ” bằng hai bộ phận kia, vì không  do dân bầu!  Thứ hai, có sự phân quyền theo chiều dọc giữa liên bang và các tiểu bang.  Nếu vấn đề đơn nhất chế trở thành nghị trình chính của hội nghị, thì đại biểu của nhiều tiểu bang, trong đó có ít nhất 3 tiểu bang dân số dưới 100 ngàn người sẽ ra về; và chắc chắn sẽ không có một Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ như ngày nay!

Một số đại biểu có địa vị quan trọng ở tiểu bang còn sợ rằng nếu quyền hành quá tập trung vào trung ương, thì mình có thể bị biến hay lu mờ đi, và dọa  sẽ bỏ họp nếu vấn đề tập trung quyền lực tiếp tục bàn.  Ngoài ra, khi bàn về quyền của các tiểu bang, có một vấn đề lớn khác không được đề cập tới. Đó là vấn đề nô lệ, vốn đã bắt đầu nhen nhúm những xung đột, Liên Bang hay tiểu bang, ai là người có trách nhiệm giải quyết sớm?  Các đại biểu đều lặng thinh. Nếu nó được đưa ra, thì chắc chắn sẽ có tranh cãi dữ dội, và 4 tiểu bang miền Nam, trong đó có Virginia đông dân nhất có thể sẽ rút lui khỏi hội nghị. Tuy đã dung hòa, nhưng các đại biểu cũng nghĩ rằng chủ trương dung hoà này cũng không dễ thuyết phục được các tiểu bang.  Vì thế các bài báo của “Publius” mới ra đời, như đã nói trên. Khi Hiến Pháp bắt đầu áp dụng, thì những tranh tụng kiện cáo thuộc lãnh vực liên bang chế đã xảy ra, và vẫn còn tiếp tục dai dẳng đến ngày nay và trong tương lai nữa. Do đó, có thể khẳng định rằng muốn tìm hiểu thêm về sự vận hành hay tiên đoán về định chế phức tạp này, người ta không thể không đề cập đến vai trò của hệ thống Tòa Án Liên Bang.

Một Chút Về Tòa Án Liên Bang

Theo Hiến Pháp 1789, Hoa Kỳ chỉ có 2 cấp chính quyền: Liên Bang (Quốc Gia) và Tiểu Bang.  Các xung đột giữa Liên Bang (Lập Pháp lẫn Hành Pháp) và các Tiểu Bang sẽ được giải quyết qua hệ thống Toà Án Liên Bang,  cấp thấp nhất là Tòa Quận Hạt (US District Court).  Thông thường, mỗi tiểu bang có ít nhất một tòa; các tiểu bang lớn như Califonia, Texas, New York, mỗi nơi có đến 4.  Toàn quốc tổng cộng 94 (kể cả 1 cho thủ đô Wahsington, DC).  Tòa Quận Hạt quan trọng vì đây là tòa xét xử (trial court), nghĩa là qua đầy đủ thủ tục:  mở hồ sơ, nghe nguyên cáo, bị cáo và luật sư; nghe bồi thẩm đoàn.  Các vụ tranh chấp liên quan đến Hiến Pháp hay tranh chấp quyền hành giữa Liên bang và Tiểu bang thường được xét qua các phiên tòa gồm 3 thẩm phán (three-judge district court) –thay vì 1 trong các vụ thông thường– và nếu khiếu kiện thì lên thẳng Tối Cao Pháp Viện, không qua Tòa Phúc Thẩm.

Cấp cao hơn:  Tòa Phúc Thẩm (US Circuit Court, hay US Court of Appeals), được tổ chức theo vùng (region hay circuit),  gọi tên theo thứ tự.  Thí dụ Tòa Phúc Thẩm Thứ Chín (the Ninth Court of Appeals) phụ trách các tiểu bang WA, OR, CA, AZ, NV, ID, MT, AK, HI và đảo Guam; Tòa Phúc Thẩm Thứ Mười phụ trách WY, UT, CO, NM, KS và OK).  Có tất cả 13 trong đó 11 cho các tiểu bang và vùng lãnh thổ Puerto Rico và Virgin Islands, 1 ở thủ đô và 1 gọi là Federal Circuit Court dành cho các trường hợp đặc biệt.  Tòa Phúc Thẩm không phải là tòa xét xử như Tòa Quận Hạt, mà là tòa “xem lại” (review) hình thức đúng sai của các vụ đưa lên từ các tòa quận hạt, hay đôi khi từ các cơ quan hành chánh;  có thể nghe luật sư của đôi bên trình bày ngắn gọn (thường chỉ 10 phút); tranh luận miệng (oral argument). Vì Tối Cao Pháp Viện chỉ nhận “xem lại” rất ít vụ, cho nên có thể xem Tòa Phúc Thẩm là nơi giải quyết cuối cùng (last resort).  Tòa này không tìm kiếm bằng chứng thực tế mới (new factual evidence), mà chỉ đi tìm các sơ hở trong hồ sơ chuyển lên.  Tòa này cũng giải quyết các tranh chấp và cho thi hành án.  Nó cũng tìm ra và đưa phương thức giải quyết cho các vụ mà Tối Cao Pháp Viện có thể nhận để xem xét.

Cấp cao nhất là Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ (US Supreme Court).  Với 9 vị thẩm phán, trong đó Chánh Thẩm Phán (Chief Justice), tất cả đều do Tổng Thống đề nghị và phải thông qua Thượng Viện (giống như các vị quan tòa ở 2 cấp trên).  Vị Chánh Thẩm Phán này cũng chỉ được bỏ một phiếu như đồng viện, nhưng đôi khi lại là lá phiếu quyết định (5/4). Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ cũng là nơi nhận những vụ do các tòa án cao cấp nhất của tiểu bang (đôi khi cũng mang tên tối cao pháp viện) đưa lên.   TCPV Hoa Kỳ có quyền chọn lựa và chỉ nhận rất ít các vụ được đưa lên (trên dưới 1%).  Một cách tổng quát,  tất cả các quyết định của TCPV Hoa Kỳ, cũng như một số lớn của Toà Phúc Phẩm và một số nhỏ của Tòa Quận Hạt là những quyết định có tính cách chính sách (policymaking decisions). TCPV Hoa Kỳ cũng thụ lý các vụ chuyển từ TCPV Tiểu Bang lên.

Trụ Sở Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ tại Washington D.C.

Vì vậy có thể nói một cách không thái quá rằng, các quyết định nói trên về môi trường, hôn nhân đồng tính, nhập cư di trú, sử dụng cần sa ma túy, vv. của 3 cấp tòa án liên bang này có tác dụng định hình các đường lối chính sách liên hệ của các cấp chính quyền trong quản hạt (jurisdiction) của mình.    Tuy nhiên, các quyết định này cũng có thể không giống nhau cho những trường hợp tương tự xảy ra sau này. Lý do biện giải có thể là vì tiến bộ kỹ thuật, hoàn cảnh vật chất hay nhân sinh quan thay đổi!   Tất cả các vị quan tòa liên bang (judges dùng chỉ thẩm phán 2 cấp dưới và justices chỉ 9 vị ở Tối Cao) đều phải do Tổng Thống đề cử và Thượng Nghị Viện biểu quyết. Vì vai trò của họ quan trọng (họ còn xử các vụ vi phạm luật pháp liên bang, ngoại giao đoàn, các tiểu bang với nhau, cũng như giữa các công dân các tiểu bang trong một số trường hợp vv.) và thời gian tại nhiệm lại không hạn định (chỉ chấm dứt khi bị bãi chức vì lý do đạo đức –rất hiếm hoi– hay từ chức, từ trần), cho nên sự bổ nhiệm họ thường mang nhiều màu sắc chính trị đảng phái và không ít kịch tính.

 Ngoài tính cách thực dụng nói trên của cách giải thích, người Mỹ còn tin tưởng khá nhiều vào “khả  năng” và  “lý lịch” của các vị quan tòa.  Nước Mỹ có khá nhiều người học luật (trung bình có 1 luật sư trên 240 dân), Hơn một nửa số thẩm phán Tòa Quận Hạt tốt nghiệp đại học từ các trường uy tín (Ivy League Schools) và sau đó theo đuổi ngành luật tại những trường nổi danh.  Các thẩm phán Tòa Phúc Thẩm còn đáng tin cậy hơn về quá trình học vấn và kinh nghiệm trong nghề. Ngoài ra, khi được bổ nhiệm, họ cũng khá giả về tài chánh. Một nghiên cứu cho thấy rằng trong mấy thập niên gần đây, 90% thẩm phán Tòa Sơ Thẩm tuy được Tổng Thống cùng một đảng bổ nhiệm, nhưng những phán quyết của họ không đi theo lằn ranh đảng phái như trước  năm 1992 (Carp, Sitdham & Manning, 2014, pp 25-47).  Đây là một nhận xét được đưa ra từ nhiều năm trước.

Liên Bang Chế Hoa Kỳ Qua Các Giai Đoạn Lịch Sử

Qua hơn 200 năm nay, sự cân bằng quyền lực giữa liên bang và các tiểu bang không mấy khi được hòa thuận.  Lý do chính yếu là do nhu cầu càng ngày càng thay đổi  trên trường quốc tế cũng như  quốc nội, mà  liên bang càng muốn tăng quyền hành của mình về cường lực cũng như về các lãnh vực, trong khi các tiểu bang –đã tăng từ 13 lúc lập quốc lên 50–  cũng muốn kéo lại chủ quyền đã “mất” vào tay liên bang. Mặt khác, tiểu bang lại phải đối phó với các vấn đề địa phương của mình, do sự tạo lập các đơn vị hành chánh mới, những vấn đề mới về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội vv.  Tìm hiểu nước Mỹ mà quên yếu tố thứ hai này sẽ là một thiếu sót quan trọng. Nói một cách đại cương, Tổng Thống, Lưỡng Viện Quốc Hội và Tối Cao Pháp Viện, và cả các tiểu bang đều có phần đóng góp vào sự mất cân bằng quyền lực này.  Nhưng công bằng mà nói, một khi Tổng Thống hay Quốc Hội muốn thay đổi, Tối Cao Pháp Viện thường khó ngăn cản.  Để dễ có những nhận xét tổng quát, các nhà nghiên cứu, trong đó có Smith & Greenblatt (2018) khảo sát sự biến chuyển liên bang chế Hoa Kỳ qua những thời kỳ sau đây:

  • Thời Kỳ Liên Bang Chế Lưỡng Tính — Dual Federalism  (1789 – 1933)

 Do quyền hành đã được phân định rõ trong Hiến Pháp còn chưa ráo mực, hai bên –Liên Bang và các Tiểu Bang– phần ai nấy làm, hơn là hợp tác với nhau.  Các tiểu bang cùng các địa phương củng cố việc nội bộ.  Thậm chí, có tiểu bang còn nghĩ tới việc rút ra, vì nghĩ vào được thì rút được. Đã vậy, Chánh Thẩm Phán Roger B. Taney của TCPV (một  định chế lúc ấy đang chia rẽ trầm trọng)  trong vụ Dred Scott v. Sandford (1857, Scott là một nô lệ, sau khi chủ cũ chết, đã đến sinh sống  nhiều năm ngoài tiểu bang cũ, nơi  không công nhận nô lệ, nay bị kiện đòi mang về)  lại tuyên bố rằng những nô lệ không là, không được nhập xếp vào  ‘những công dân’ ghi trong hiến pháp, và do đó không có quyền và đặc ân kiện tụng dành cho công dân trước các tòa án liên bang.  Các ý kiến của Taney được các luật gia về sau này xem là tệ hại nhất trong lịch sử TCPV Hoa Kỳ, và là một trong những lý do dẫn tới Nội Chiến. Năm 1860, các tiểu bang miền Nam rút khỏi Hợp Chủng (Union, tiếng dùng để chỉ  tổ chức mới gồm 13 cựu thuộc địa thành lập theo HP 1789), và lập ra “the Confederation States of America”, và Jefferson David được bầu lên làm Tổng Thống  ngày 18/2/1861.  Không bao lâu sau, Abraham Lincoln được bầu làm Tổng Thống của “the United States of America” (trong cả 2 HP 1781 và HP 1789, tên nước đều là như thế). Trong bài diễn văn nhậm chức đầu tiên ngày 8/3/1861, Lincoln tuyên bố ông không có quyền hành pháp định để can thiệp vào định chế nô lệ đang hiện hữu tại các tiểu bang.  Nhưng ông khẳng định Hợp Chủng là vĩnh viễn; không thể muốn rút ra thì rút … không thể tách rời.  Nội Chiến chính thức khởi đầu, chỉ hơn một tháng sau đó, ngày 12/4/ 1861, và kéo dài đến năm 1865 mới chấm dứt với sự đầu hàng của Tướng Lee, Chỉ Huy Trưởng của Confederation Miền Nam.  Giữa lúc chiến tranh, năm 1865, Abraham Lincoln tuyên bố chấm dứt chế độ nô lệ.

 Sau Nội Chiến, 4 Tu Chính Án  quan trọng ra đời như đã được đề cập ở trên.  Trong thời kỳ này, chính quyền liên bang xây dựng hệ thống đường sắt (bắt đầu  năm 1887) nối liền các tiểu bang với nhau, tạo thuận lợi cho sự giao thông và chuyên chở hàng hóa.  Đây là một phương tiện vô cùng quan trọng đưa đến sự hội nhập lớn lao của nước Mỹ,  không những về phát triển kinh tế, mà còn về văn hóa, xã hội  nữa khi mà phương tiện truyền thông chưa mở mang. Cũng nhờ Tu Chính Án XVI (phê chuẩn ngày 3/2/1870) cho phép thu thuế lợi tức (income tax) mà Liên Bang mới có dư tiền mặt để giúp đỡ các tiểu bang qua các chương trình cho không qua trợ giúp (grants-in-aid), tổng cộng có tới 15 chương trình. Thời kỳ này chấm dứt khi xảy ra cuộc Đại Khủng Hoảng Kinh Tế bắt đầu năm 1930. Đáng lưu ý là  sau khi Hiến Pháp được thi hành , những phán quyết của Tối Cao Pháp Viện do Chánh Thẩm Phán John Marshall đứng đầu (1801-1835) đã giúp chính quyền Liên Bang có những quyền lực cơ bản, và đồng thời cũng tạo thế đứng cho các cấp Tòa Án Liên Bang, dù các quan tòa  không do dân trực tiếp bầu lên như chúng ta đã biết.

  • Thời Kỳ Liên Bang Chế Hợp Tác – Cooperative Federalism (1933 -1964)

 Vừa khi bước vào Tòa Bạch Ốc, trong 100 ngày đầu trăng mật, Tổng Thống Franklin D. Roosevelt đã lần lượt gửi sang Quốc Hôi nhiều dự thảo luật để đối phó với tình trạng kinh tế toàn quốc quá tệ hại với 25% lực lượng lao động không có công việc làm, mà thủa đó trong hầu hết  gia đình chỉ có người chồng làm việc. Tất cả đều được Quốc Hội thông qua, nhưng một số lớn lại bị Tối Cao Pháp Viện bác đi, với tỷ lệ 5/9.  Quá tức giận, Tổng Thống Roosevelt bí mật soạn kế hoạch để có thể lần lượt bổ thêm những thẩm phán mới của mình vào TCPV: hễ có một vị tại chức tới tuổi 70 và đã phục vụ 10 năm nhưng không chịu về hưu, thì  ông sẽ bổ nhiệm một vị của mình, tổng cộng TCPV sẽ có thể lên đến 15!  Để cứu định chế có thể có quá nhiều thẩm phán này, TCPV đã nghĩ lại và quyết định thuận lợi cho Hành Pháp!  Nhờ vậy mà nhiều cơ quan mới được thành lập (thí dụ TVA, phát triển canh nông vùng thung lũng Vanderbuilt), biện pháp kinh tế xã hội mới được thực hiện, trong đó có chương trình an sinh xã hội (social security), mà nay vẫn còn hiệu lực, giúp cho người già có tiền hưu sau ít nhất 40 quý (10 năm)  làm việc.  Thế Chiến II lại càng khiến cho Liên Bang và Tiểu Bang hợp tác chặt chẽ hơn.  Roosevelt làm Tổng Thống đến bốn nhiệm kỳ (1933- 1944, mất vào đầu nhiệm kỳ thứ tư), do đó mà nhiều biện pháp cải tổ cũng như các cơ quan mới kinh tế  xã hội  đã được đưa ra.  Sau chiến tranh, kinh tế Hoa Kỳ phục hồi và phát triển nhanh, tạo ra nhiều công ăn việc làm (cho cả phụ nữ vốn đã đi làm trong thời kỳ chiến tranh để thay thế nam giới nhập ngũ), thuế thu được nhiều hơn, nên chính quyền liên bang có thêm phương tiện mở rộng các chương trình hợp tác với các tiểu bang qua các chương trình cho không thông qua trợ giúp, như đề cập ở trên.   Đến cuối 1960, Liên Bang thực hiện tới 132 chương trình cho không thông qua trợ giúp, tức đã bắt đầu ảnh hưởng khá nhiều đến sinh hoạt và “thẩm quyền” của các tiểu bang.

  • Thời Kỳ Liên Bang Chế Tập Trung –Centralized Federalism (1964 – 1980)

Bắt đầu với Tổng Thống Lyndon Johnson. Song song với cuộc chiến Việt Nam, ông còn có  tham vọng mở thêm cuộc chiến nhân quyền và chống nghèo đói trong quốc nội qua chương trình Xã Hội Vĩ Đại (Great Society), chủ trương chính quyền liên bang phải lãnh đạo các chính sách dân sinh của quốc gia,  còn các chính quyền tiểu bang và địa phương sẽ giúp thực hiện các chính sách này. Johnson chủ trương sự giúp tặng phải kèm theo những điều kiện ràng buộc rõ ràng, chẳng hạn phải có sự đóng góp tài chánh tối thiểu, sự đóng góp nhân sự do tiểu bang đài tho.  Trong 4 năm tại chức, chính quyền Johnson đã tung ra trên 200 chương trình loại này, trong đó có Chương Trình Medicare nay vẫn còn hiệu lực.  Thêm vào đó còn có những chương trình hợp tác với các điều kiện “kỳ lạ” từ liên bang, thí dụ như qua các chương trình gọi là “cấm chéo” (crossover sanctions), thì muốn được nhận ngân quỹ trợ giúp xây đựng đường sá, tiểu bang phải ra luật cấm dưới 21 tuổi không được uống rượu.  Đi xa hơn, còn có một số chương trình hợp tác bắt buộc (mandated) mà không đem lại tiền bạc (unfunded) đã tạo bực bội cho tiểu bang và địa phương, chẳng hạn như chương trình về các tiêu chuẩn nước sạch, lương tối thiểu.  Quốc Hội Liên Bang càng ngày càng lấn lướt, ra những đạo luật buộc các tiểu bang và địa phương phải thi hành, tạo tốn kém cho họ –131 tỷ đô la trong 4 năm 2004-2008, theo một ước tính.

 Trong thời gian này, Tối Cao Pháp Viện đã đưa ra nhiều phán quyết có hiệu lực làm giảm bớt sự kỳ thị chủng tộc. Trong lãnh vực Tư Pháp, vấn đề liên bang chế cũng được đặt ra (judicial federalism).  Như chúng ta rõ, khi xét xử, các tòa án tiểu bang dựa vào Hiến Pháp và luật tiểu bang, cũng như luật lệ địa phương; chỉ khi thấy thiếu căn bản để giải quyết thì mới tham khảo Hiến Pháp và luật liên bang.  Với sự bổ nhiệm Chánh Phẩm Phán mới Warren Burger (bảo thủ, do Tổng Thống Nixon, 1969), phe cấp tiến lo ngại chủ trương công bằng xã hội (social equality), cùng với các phong trào khác như khan hiếm năng lượng, khí hậu toàn cầu thay đổi vv.  có thể sẽ bị cản trở.  Nhưng lo ngại này thiếu căn cứ, vì đó là những lãnh vực mà  Quốc Hội Liên Bang phải có tiếng nói trước (Simon & Steel & Lovrich, 2011).

  • Thời Kỳ Tân Liên Bang Chế –New Federalism (1980 – 2002)

 Thật ra thời kỳ này phải nói là bắt đầu trước đó.  Thật vậy, ngay sau khi Nixon vào Tòa Bạch Ốc, tại đây đã tổ chức những cuộc tranh luận nội bộ giữa 2 nhóm giới chức cao cấp về “tập quyền” và “tản quyền”.  Tân Liên Bang Chế được hình dung như “chủ nghĩa địa phương mang tính quốc gia (national localism), hay một hệ thống tản quyền hành chánh nhìn nhận thực tế tập quyền trong khi về hình thức thì nói là trả quyền hành và các quyết định quản trị về cho các tiểu bang và dân địa phương.  Tổng Thống Nixon tuyên bố: “Tinh túy của Tân Liên Bang Chế là đạt được sự kiểm soát vận mạng quốc gia bằng cách trả sự kiểm soát lại cho các tiểu bang và địa phương; [nghĩa là] quyền hành, ngân khoản, và quyền lực (power, funds, and authority) sẽ được tăng cường chuyển đến cho những chính quyền gần nhất với dân.”  Nixon còn nhấn mạnh là các tiểu bang sẽ có thêm quyền nhận sự giúp đỡ tài chánh của liên bang, và quan trọng hơn nữa, “các quyền của các tiểu bang nay được miêu tả chính xác hơn là nhiệm vụ của các tiểu bang” (Banks, 2018, p. 4)

Nixon sử dụng đầu tiên thuật ngữ này khi ông muốn trao trả quyền hành về cho các tiểu bang và địa phương, mà không đưa ra những điều kiện trói buộc, và đồng thời để giảm các khoản tiền cho không  (tặng dữ) thông qua trợ giúp (grants-in-aid) từ liên bang mà ngân sách liên bang  bấy giờ đang túng thiếu.  Tuy nhiên Nixon không có những hành động cụ thể.  Chính Tổng Thống Reagan mới là người nâng chủ trương này thành ý thức hệ cùng với chính sách giải tỏa các rào cản khác (de-regulations) của ông.  Thật ra khi ông hùng hồn tuyên bố “Chính quyền không là giải pháp cho vấn đề của chúng ta; chính quyền mới là vấn đề” (Government is not the solution to our problem; government is the problem), thì người ta không nghĩ ông hoàn tin tưởng ở khả năng của các chính quyền tiểu bang và địa phương; trái lại ông chỉ muốn bớt gánh nặng cho trung ương mà thôi. Và điều này thì phù hợp với chủ nghĩa cá nhân mà ông cổ võ.  Khi được giao việc, các Chính quyền Tiểu Bang (CQTB) và Chính quyền Địa Phương (CQĐP) cũng được Chính quyền Liên Bang (CQLB) giúp những ngân khoản (block grants) để đài thọ chính sách phát triển của họ. Về lý thuyết, căn bản của khuynh hướng tân bảo thủ này dựa trên chủ trương rằng để đối phó với tình trạng kinh tế xã hội cả nước, thì chính quyền trung ương không hiệu quả và hiệu năng bằng 50 CQTB và hằng chục ngàn CQĐP, vì 2 loại chính quyền sau này gần gủi dân chúng hơn. Reagan đưa William Rehnquist, vị thẩm phán đứng hàng thứ năm về thời gian tại chức  lên chức vị Chánh Thẩm Phán; rồi sau đó người kế nhiệm của ông, George H. W. Bush, lại bổ thêm 2 vị nữa, tạo nên một Tối Cao Pháp Viện bảo thủ giúp chính quyền liên bang hạn chế bớt quyền lực mình, và đưa quyền hành về cho các tiểu bang. Trong thời kỳ này, có nhiều vụ xử mà Tối Cao Pháp Viện dành phần thắng cho tiểu bang.  Chẳng hạn, trong vụ United States v. Lopez, TCPV gạt bỏ một luật LB cấm mang vũ khí gần các trường công lập; đây là lần đầu tiên TCPV hạn chế quyền QH theo điều khoản về điều hành thương mại giữa các tiểu bang. Trong vụ Printz v. United States (1997), TCPV bác một điều luật mà LB buộc phải kiểm tra lý lịch trước khi mua súng.

 Nhân đây, xin trình bày với  chút chi tiết vụ Bush v Gore (2000) liên quan đến cuộc bầu cử,  nhằm minh họa ảnh hưởng qua lại giữa Liên Bang và Tiểu Bang. Như lịch sử ghi lại, qua kiểm phiếu phổ thông toàn quốc, Gore hơn Bush trên nửa triệu phiếu.  Tuy nhiên nếu ai thắng phiếu phổ thông ở Florida, thì sẽ chiếm trọn 25 số phiếu cử tri đoàn của tiểu bang này, và sẽ trở thành Tổng Thống. Do số phiếu phổ thông Gore thua Bush rất ít, nên các luật sư phía của Gore yêu cầu đếm lại. Như chúng ta đã biết, tổ chức bầu cử Tổng Thống tại Florida là do Florida đảm nhiệm theo sự phân quyền của Hiến Pháp 1789; và kiện tụng nếu có cũng phải do các Toà Án tiểu bang này thụ lý.  Khi vụ kiện được đưa lần đến Tối Cao Pháp Viện Florida tháng 12/2000,  thì cơ quan này ra phán quyết cho đếm lại bằng tay tất cả số phiếu bầu tại 4 quận trong 67 quận (counties)  của Florida.  Các luật sư phía Bush liền đưa vụ kiện này lên Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ.  Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ phán rằng việc đếm phiếu lại phải được xử lý công bằng với tất cả các phiếu bầu trong tiểu bang.  Với tỷ lệ 5-4, ngày 12/12/2000, Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ ra lệnh ngưng đếm tiếp, nhưng vẫn giữ kết quả cuả cuộc đếm số đang tiến hành tới lúc đó, mà Bush đang hơn 537.  Nghĩa là Bush thắng số phiếu phổ thông tại Florida, do đó chiếm trọn 25 số phiếu cử tri đoàn của Florida, nâng số phiếu cử tri đoàn toàn quốc lên 271, chỉ hơn Gore 1 phiếu và trở thành Tổng Thống thứ 43 của Hoa Kỳ.

  • Thời Kỳ Liên Bang Chế Vụ Việc –Ad Hoc Federalism (2002 – Nay)

 Trong thời kỳ này, những tiêu chuẩn có tính cách tổng quát kể trên không còn được sử dụng nữa. Thay thế vào đó là tùy vụ việc mà chọn lưạ, dựa trên quan hệ đảng phái, xem ai sẽ đóng vai trò chủ yếu –liên bang hay tiểu bang và địa phương. Trong thời kỳ này, Luật “No Child Left Behind” Act ban hành năm 2002 được chính quyền George W. Bush xem là rất quan trọng nhằm nâng cao và giảm cách biệt quá đáng đối với  trình độ học sinh trung tiểu học toàn quốc, một bước ngoặc trong lịch sử giáo dục Hoa Kỳ, mà trước đó hoàn toàn nằm trong tay các CQTB và CQĐP.  Theo Luật này, trợ cấp Liên Bang ít hay nhiều sẽ tùy thuộc thành quả đạt được (performance) của các trường công lập tiểu bang và địa phương.  Tiến trình như sau (1) CQLB đặt ra tiêu chuẩn cấp LB –> (2) CQ TB dựa vào đó đặt ra tiểu chuẩn cấp TB, ra bài thi để đo lường thành quả học sinh –> (3) Các trường địa phương thực hiện giảng dạy, thi cử hằng năm -> (4) Các trường phúc trình kết quả thi cử lên CQ TB -> (5) CQTB đúc kết trình lên CQ LB –> (6) CQ LB xem xét thành quả –> (7) CQLB  và CQTB  xét cấp ngân quỹ cho các trường tùy theo thành quả.  Một cách tổng quát, CQLB cấp ngân quỹ cho địa phương qua CQTB; nhưng cũng có trường hợp cấp trực tiếp cho điạ phương.  Dưới thời G.W. Bush, trong vụ tiểu bang Massachsetts cùng 12 tiểu bang khác kiện cơ quan môi sinh Environment Protection Agency EPA (viện lý do sự thay đổi khí hậu không hẳn là do nhà kính)  đã không chịu thi hành luật Clean Air Act ban hành từ năm 1999, Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ vào tháng 4 năm 2007, đã ra phán quyết với số phiếu 5/4  nghiêng về phía các tiểu bang, mặc dầu Chánh Thẩm Phán John Roberts đại diện cho phía thiểu số viết rằng EPA đã không đưa ra lời giải thích hợp lý để từ chối. Phán quyết TCPV 2007 này đưa đến những thay đổi về phương diện bảo vệ môi sinh trong nội bộ Hoa Kỳ, cũng như khi Hoa Kỳ (thời Obama) ký kết Hiệp Định Khí Hậu Paris, mà sau đó Tổng Thống Donald Trump tuyên bố rút khỏi.

Tổng Thống Barack Obama, giống như Tổng Thống Bill Clinton, cũng muốn sử dụng CQLB để thực hiện các chương trình dân sinh của mình.  Đạo luật Affordable Care Act, thường được gọi là Obama Care, được Quốc Hội thông qua lại bị kiện cáo tại Tối Cao Pháp Viện.  Chánh Thẩm Phán John Roberts, do George W. Bush bổ nhiệm, lại bỏ lá phiếu quyết định thuận, với lý luận rằng đó là ý của nhân dân (hàm ý Lưỡng Viện Quốc Hội và Tổng Thống đều thuộc đảng Dân Chủ, do dân bầu lên).  Tuy nhiên, sau đó 24 tiểu bang trên toàn quốc từ chối hợp tác với chính quyền Liên Bang, bằng cách không chịu đóng góp 31 tỷ đô la để dân chúng trong địa phận mình có thể hưởng một ngân khoản lớn 423, 6 tỷ dành cho chương trình Medicaid (2013 – 2022) sẽ đến từ Liên Bang.  Trường hợp tương tự cũng xảy ra khi các tiểu bang từ chối đóng góp thêm phần mình để kéo dài trợ cấp thất nghiệp trong tiểu bang, theo ý muốn của chính quyền Obama. Trong cả 2 trường hợp, lý do chủ yếu là vì lập trường chính trị hơn là do phải đóng phần mình.  Trong vụ Arizona v. United States (2012), TCPV phán rằng các tiểu bang không có quyền làm và thi hành luật về di trú; tuy nhiên lại cho phép các tiểu bang thực hiện các qui định đòi hỏi giấy tờ (“show me your papers” regulations) để chứng minh về tình trạng di trú.

Trong 2 thập niên vừa qua, trong thời đại phát triển toàn cầu hóa, nhiều CQTB và CQĐP lần lượt chấp nhận từ nước ngoài –đặc biệt Á Rập, Nga, Trung Cộng– các khoản đầu tư, cho thuê các thương cảng, mướn các nhà thầu xây dựng thiết lập hệ thống giao thông trong TB mình vv. khiến cho CQLB phải lo ngại.  Ngoài ra, việc các thành phố trong nước “kết nghĩa” với các thành phố ngoại quốc, việc giao lưu văn hoá và khoa học của các trường đại học Mỹ với các đối tác nước ngoài cũng được CQLB lưu ý.  Tuy chưa có kiện tụng giữa CQLB và các thực thể địa phương này, nhưng cũng có thể đây sẽ trở thành động cơ, nếu CQLB không thuyết phục được các địa pương về những nguy cơ có thể xảy đến.

Chính quyền dưới thời Tổng Thống Donald Trump trong 3 năm đầu tiên đã tận dụng quyền lực hành pháp nhằm hạn chế nhập cảnh, nhập cư;  không trợ cấp các thành phố chứa chấp di dân nhập lậu; không triển hạn DACA;  không tính di dân bất hợp pháp trong cuộc Kiểm Tra Dân Số Năm 2020; mở cửa các cơ sở thương mại và trường học, chủ trương gửi quân đội/vệ binh tới các địa phương mất trật tự do biểu tình;  vv. Tuy nhiên hầu hết các biện pháp này đều bị khước từ bởi các CQTB; hoặc bác bỏ bởi các tòa án liên bang (US District Courts, hay US Court of Appeals). Tranh chấp vẫn còn tiếp tục: mới vừa qua trong tháng 9/2020, Tòa Phúc Thẩm Thứ Mười Một đã xử không cho phe Dân Chủ Texas mở rộng nổ lực bỏ phiếu qua thư tín.  Chúng ta nên nhớ theo tinh thần Hiến Pháp 1789, thì quốc phòng, ngoại giao, tiền tệ được phân công cho Liên Bang; những công tác còn lại là do các tiểu bang, trong đó có y tế sức khỏe, an ninh trật tự, giáo dục, điều hành các cuộc bầu cử liên bang, vv. Đối với một số các công tác này, một số tiểu bang chọn lựa hợp tác với các tiểu bang khác hơn là với CQLB.

Nói tóm lại, nếu chỉ nhìn qua những nhiệm kỳ Tổng Tống, chúng ta có thể nói các Tổng Thống sau đây chủ trương chính quyền trung ương mạnh và gần gủi với nhân dân: John Quincy Adams, Abraham Lincoln, Theodore Roosevelt, Woodrow Wilson, Franklin D. Roosevelt, Harry Truman, Lyndon B. Johnson, Jimmy Carter, Bill Clinton, Barack Obama, và có lẽ cả Tổng Thống Donald Trump nữa! Và những Tổng Thống sau đây cổ vũ cho sự gần gũi giữa các tiểu bang và nhân dân: Thomas Jefferson, Andrew Jackson, William Howard Taft, Herbert Hoover, Richard Nixon, Ronald Reagan, George W. Bush. (Drake & Nelson, p. 224). Đa số ý kiến đối với Obama, W. Bush và Trump là ý kiến riêng của người viết bài này.

Về phương diện chi tiêu, trong vài thập niên vừa, Liên Bang đã giúp không dưới 25% chi phí của các CQTB và CQĐP, trong khi bản thân liên bang thì nợ nần chồng chất.  Thống kê cho thấy từ hơn 6 thập niên vừa qua, ngân sách liên bang chỉ bội thu trong tài khoá 1960 dưới thời Tổng Thống Dwight Eisenhower, và 4 tài khoá liên tiếp (1998, 1999, 2000 và 2000) dưới thời Tổng Thống Bill Clinton, nhờ kinh tế phát đạt. Còn lại đều là nợ nần. (Lê Văn Bỉnh, 2012).  Những khoản chi lớn lao của Liên Bang do ảnh hưởng của cơn đại dịch Covid-19 năm nay tạo  thêm những món nợ khổng lồ, có lẽ vài thập niên sắp tới CQLB cũng không trả nỗi, đừng nói gì tới các món nợ trước đó mà ngân sách liên bang hằng năm phi chi gần 10% để trả lãi và vốn đáo hạn.  Nay các tiểu bang và địa phương lại đòi (qua Hạ Viện) giúp đỡ thêm, thì thử hỏi tiền đâu mà có!  Nói chung, thì cả 3 cấp chính quyền đều gây nợ, nhưng rõ ràng CQLB là con nợ ký tên  trên giấy nợ!

Những Thuận Lợi Và Bất Thuận Lợi Của Liên Bang Chế

Đến nay Liên Bang Chế Hoa Kỳ đã tồn tại được 240 năm, một thời gian khá dài khi đề cập đến sự ổn định của một thể chế chính trị. Có lúc suông sẻ, có lúc gập ghềnh. Dưới đây là một số thuận lợi và bất thuận lợi, tổng hợp từ nhiều tài liệu, trong đó có Smith & Greenblatt (2018), Rozell & Wilcox (2019)

  • NHỮNG THUẬN LỢI

    Ngoài thuận lợi quan trọng ban đầu là chống tập trung quyền hành vào trung ương, liên bang chế (LBC) có thêm những thuận lợi dưới đây:

*Sự Hợp Tác – Qua sự phân tích các thời kỳ nói trên, chúng ta thấy LBC Hoa kỳ chưa bao giờ là một hệ thống những hoạt động chính quyền riêng lẻ.  Ngay từ đầu, nó là những quan hệ giữa liên bang và tiểu bang; nhưng về sau thì càng ngày càng nhiều tiểu bang hơn gia nhập, kéo theo các địa phương với những tổ chức khác nhau đến nỗi đến nay không có sách giáo khoa nào có thể đề cập đủ chi tiết về tên gọi, tổ chức và quyền hành các địa phương này. Theo thống kê năm 2017,  Hoa Kỳ có gần 90.000 chính quyền: 1 liên bang, 50 tiểu bang, còn lại là 2 loại chính quyền điạ phưong (Xin Xem Chú Thích).  Theo Morton Grodzins, “Không có lúc nào người ta có thể dán lên những cái nhãn hiệu gọn gàng về những chức năng cụ thể của “liên bang”, “tiểu bang” và “điạ phương”.  Quốc gia này, trước khi nó được tổ chức và ổn định hoàn tòan …. thì cái nguyên tắc đầu tiên của LBC là: chính quyền quốc gia sẽ sử dụng các nguồn lực siêu việt của mình để khởi xướng và yểm trợ các chương trình quốc gia, được chủ yếu quản lý bởi các tiểu bang và các địa phương  …” (Elazar 1969)

*Sự Linh Động & Bớt Mâu Thuẩn—Chính sách liên bang không có tính cách áp đặt, cùng một nội dung cho mọi tiểu bang và địa phương khác nhau (one-size-fits-all policies); mà trái lại các CQTB và CQĐP có thể chọn lựa cho thích hợp với hoàn cảnh địa lý, chính trị, pháp lý, kinh tế, văn hóa của mình miễn sao có lợi cho dân chúng. Nhờ linh động chọn lựa và thích nghi chính sách và dự án LB với hoàn cảnh mình như nói trên, CQTB và CQĐP tránh được những xung đột với CQLB và những CQTB + CQĐP lân cận.

*Thí Nghiệm Dân Chủ  & Tham Gia Dân Chủ — Thẩm Phán TCPV Hoa Kỳ Louis Brandels ví các tiểu bang Hoa Kỳ như những phòng thí nghiệm dân chủ: một chương trình, một dự án do LB đưa ra, hay tự một TB hay địa phương nào đó khởi xướng, sẽ không áp dụng  đồng loạt khắp nơi, mà là nếu áp dụng thành công ở một nơi, sẽ được nhân rộng cho nhiều nơi hay toàn quốc. Sự tản quyền đến CQTB và CQĐP tạo cơ hội gần gũi thuận tiện cho dân chúng tham gia vào các chương trình, dự án nhằm phát huy dân chủ, giúp công chúng ý thức thêm về công ích và quyền lợi chung của cộng đồng mình ở.  Và nhờ đó mà củng cố niềm tin và tạo sự đồng thuận của họ đối với các định chế chính trị.

*Cạnh Tranh & Mục Tiêu LB Có Thể Đạt Được Ở Một Số Nơi –Sau khi LB đề ra một chương trình, các TB hay các địa phương có thể không cần phải đợi LB vạch ra phương thức thực hiện chi tiết, mà tùy khả năng riêng của mình có thể làm trước LB và các nơi khác, để được chú ý cũng như được sự trợ giúp của Liên Bang .  Việc thực hiện mục tiêu có tính cách cạnh tranh này giúp cho các mục tiêu mà LB đề ra có thể sớm đạt được.

*Nhiều Chọn Lựa – Hoa Kỳ là một quốc gia rộng lớn mà đường lối chính sách kinh tế, thuế khóa, xã hội, giáo dục, y tế lại khác nhau từ tiểu bang này sang tiểu bang khác, cũng như từ địa phương này sang địa phương khác trong cùng tiểu bang.  Do đó người dân có thể chọn lựa nơi mà mình đến cư trú để có thể hưởng những dịch vụ công cộng đó.  Thí dụ chọn mua nhà ở tiểu bang mà thuế thấp, trong đó có thuế tài sản, hay không có thuế trường học; dọn nhà đến Maryland để con cái hưởng giáo dục tốt của các trường công lập; đến Virginia để hưởng nhiều dịch vụ xã hội  y tế dành cho người già và người khuyết tật.  Thậm chí có người nghĩ rằng sẽ dễ sống đạo hạnh hơn nếu di dời đến Utah, tiểu bang chỉ có 3 triệu cư dân mà 63% theo đạo Mormon, hầu như mọi nơi cấm bia rượu; tuy nhiên xin đừng lái xe sang Nevada, nơi cờ bạc  gái điếm đều hợp pháp!

*Linh Động Đối Với Các Tôn Giáo –  Hoa Kỳ là quốc gia có nhiều tôn giáo. Khởi thủy là những người theo đạo Tin Lành (Protestant, nay thường được gọi là Christian), kế đó là những người Thiên Chúa giáo/ Công giáo (Catholic), Do Thái giáo, Hồi giáo, Phật giáo vv.  Ngày nay chúng ta thấy nhan nhãn khắp nơi các nhà thờ Tin Lành (Baptist church), nhà thờ Thiên Chúa giáo (Catholic church), nhà thờ Do Thái giáo (synagogue), nhà thờ Hồi giáo (mosque), chùa Phật giáo (Buddist temple, pagoda), những nhà cầu nguyện khác.  Nói chung, tín đồ các tôn giáo này đi đến các nơi đây tuy không thường xuyên bằng ở các nước Á Rập, Ấn Độ hay Nigeria.  Ở những tiểu bang tập trung nhiều nhà thờ Công giáo như New York, New Jersey, Rhode Island, Connecticut, Massachusetts, không có án tử hình, hoặc nếu có, thì cũng ít mang ra thi hành.  Do đất đai rộng lớn, tín đồ có nhiều chọn lựa nơi để xây lên cơ sở tôn giáo của mình.  Quyết định của họ buộc phải theo luật lệ về qui định vùng ở địa phương (zoning code) của chính quyền địa phương trong đó ý kiến cư dân lân cận là yếu tố quyết định –nếu cư dân phản đối, họ sẽ tìm nơi khác, tránh được có những xung đột đáng tiếc có thể xảy ra sau này.

  • NHỮNG BẤT LỢI

    Tuy nhiên, LBC cũng có thể đem lại những bất lợi, như sau:

*Gây Phức Tạp và Bối  Rối— Vì mỗi TB, mỗi địa phương có luật lệ riêng, cho nên một công dân sẽ thấy bối rối không biết hành vi của mình có “hợp pháp” chăng.  Chẳng hạn, bạn có một cơ sở sản xuất rượu nho ở California, bạn sẽ mất thời giờ tìm xem là rượu nho có được phép gửi sang Virginia không, và thuế suất  bán (sales tax) là bao nhiêu; cũng câu hỏi đó đối với 48 TB, và ĐP khác! Về phía chính quyền, sự khác biệt về luật lệ có thể khiến cho sự phối hợp giữa các đơn vị chính quyền lân cận trở nên khó khăn trong một số công tác như về chửa lửa, cảnh sát, tội phạm vv.

*Tạo Thêm Xung Đột/Gây Bất Bình Đẳng –Liên Bang Chế giảm bớt mâu thuẩn xung đột như đã nói  phần lợi ích, nhưng cũng có thể tạo ra những mâu thuẩn xung đột khi mà thẩm quyền địa hạt không được ấn định rõ ràng, hay dễ lẫn lộn, tức là không có một luật lệ đồng nhất. Thí dụ bạn mang theo cần sa, hay súng đạn từ một tiểu bang cho phép sang biên giới một tiểu bang cấm đoán thì sẽ gặp phiền toái. Ngoài ra, vì luật lệ khác nhau, ngân sách khác nhau, thuế đóng khác nhau, mà người dân địa phương này có thể hưởng những dịch vụ hay được đối xử khác nhau và họ cảm thấy không công bằng.  Thí dụ trường công khu nhà giàu được xem là “tốt” hơn trường công khu nhà nghèo về cơ sở, phương tiện, phẩm chất giáo dục cũng như kỷ luật vv.

* Cạnh Tranh Có Thể Đưa Đến Thiệt Hại – Nói chung, Hoa Kỳ coi cạnh tranh là tốt.  Trong phạm trù liên bang chế, sự cạnh tranh giữa các tiểu bang để thực hiện các chương trình hay dự án do CQLB đưa ra, cũng được xem là lợi điểm đáng khuyến khích như trình bày trên.  Tuy nhiên có thể có vài trường hợp cạnh tranh có thể đưa đến thiệt hại. Thật vậy, tại mỗi tiểu bang hay những quận hạt hay thành phố lớn đều có một bộ phận phụ trách phát triển kinh tế (Department of Economic Development) mà mục đích chính là chiêu dụ những công ty lớn trong cũng như ngoài nước đến lập nhà máy, hãng xưởng ở địa phương mình, chủ yếu là tạo công ăn việc làm cho cư dân.  Để cạnh tranh với các địa phương khác, CQTB hay CQĐP có thể đưa ra những khuyến khích đầu tư  (incentives) hấp dẫn nhưng lại quá tốn kém, như giảm miễn thuế nhiều năm hay vĩnh viễn, xây dựng hạ tầng cơ sở theo yêu cầu của phía đầu tư.  Nếu không may, các dự án đầu tư này không thành công như dự toán, thì rõ ràng sự cạnh tranh tuy kéo được đối tượng về mình, nhưng lại là một thất bại về phúc lợi cho dân chúng trong nhiều năm sau.

* Không Dễ Qui Trách Nhiệm – Trong các quốc gia theo đơn nhất chế, khi xảy ra những biến cố trọng đại, thì công luận thường nhanh chóng –đôi khi không đúng– qui trách nhiệm cho chính quyền trung ương.  Hoa Kỳ  theo liên bang chế, ba cấp  chính quyền phân định không rõ ràng, nhưng công luận vẫn không khác.  Chẳng hạn, trong vụ đại dịch Covid-19 vẫn còn đang tiếp diễn, thì câu hỏi đầu tiên là chính quyền liên bang (nghĩa là cả Quốc Hội lẫn Tổng Thống)  và chính quyền các tiểu bang ai là phía chịu trách nhiệm trước tiên về sự phòng ngừa, phát hiện cũng như chuẩn bị y cụ, vv.   Theo hầu hết các phương tiện truyền thông và dân chúng,  thì Tổng Thống phải chịu trách nhiệm (có lẽ họ dựa theo Điều II, Khoản 3, theo đó ông đã không đề ra những các biện pháp mà ông cho là cần thiết và thích nghi (recommend … such Measures as he shall judge necessary and expedient).  Trong khi đó HP 1789 cũng đã dành nhiều quyền hành cho CQTB như đã đề cập ở trên, và trên thực tế trong mấy trăm năm naỵ CQTB và CQĐP đã đảm trách y tế công cộng trong địa phương mình.  Điều thú vị là khi Tổng Thống Trump tỏ ý muốn khôi phục kinh tế toàn quốc bằng cách yêu cầu các nhà máy, cơ xưởng mở cửa trở lại, thì nhiều Thống Đốc lại nhanh miệng tuyên bố đó là không thể được vì bịnh dịch còn đang hoành hành! Và quyền quyết định thuộc về CQTB.   Điều nghịch lý là trước đó, không vị nào xác nhận rằng “phòng chống bệnh” là quyền hay trách nhiệm của tiểu bang cả!   Rất tiếc đã không có những vụ kiện xảy ra để qui trách nhiệm về ai  — CQLB, CQTB hay CQĐP– để người dân có dịp nghe phán quyết của các quan tòa.

Liên Bang Chế Và Hành Chánh Công Quyền

Đến đây, qua những quan hệ suôn sẻ cũng như gập ghềnh giữa liên bang và tiểu bang, cũng như lợi và bất lợi của LBC, cùng với sự xét xử của hệ thống Tòa Án Liên Bang, chúng ta có thể nhìn được nước Mỹ gần hơn một chút. Những khái niệm mà chúng ta thường nghe như những lý tưởng cao siêu đã trở thành “cụ thể” hơn một chút.  Trong Hiến Pháp cũng như trong 27 Tu Chính Án, không có thuật ngữ “tam quyền phân lập” (separation of powers), như một nguyên tắc, một triết lý chính trị rõ ràng.  Ngay từ thành lập, “Tư Pháp” đã bị coi nhẹ hơn hai quyền kia qua thời lượng thảo luận cũng như những chi tiết ghi ra, đáng chú ý là các thẩm phán không buộc phải do dân bầu như Tổng Thống hay dân biểu và thượng nghị sĩ, mà lại tại vị trọn đời.  Qua thời gian, LBC được định hình và phát triển, nhờ phần lớn ở khả năng của các thẩm pháp liên bang các cấp.  Chúng ta cũng không thấy thuật ngữ “kiểm soát và quân bình” (check and balance). Họa chăng người ta chỉ thấy vài lần trong The Federalist Papers khi 2 tác giả Hamilton và Madison dùng đến chữ “check” để nói về mối quan hệ giữa Lưỡng Viện Quốc Hội mà thôi, khi thấy Hạ Viện được dành cho quá nhiều quyền ; chứ hai ông không viết là dùng chữ “check” để đề cập đến việc dùng quyền này để kiểm soát quyền kia.  Và khi đề cập đến liên bang chế thì đọc lại nhiều lần, chúng ta cũng chẳng thấy từ  “liên bang chế” (Federalism) mà chúng ta đề cập trên đây xuất hiện trong Hiến Pháp và các Tu Chính Án. Thông thường khi nghe nói đến tranh chấp giữa Liên Bang và Tiểu Bang, chúng ta nghĩ đó là tranh chấp “trên dưới” và  thường liên tưởng đến những quyết định hành chánh công quyền.  Mà thực ra đây là những tranh chấp của 2 phía đều có chủ quyền (sovereignty), lẫn quyền (rights) và thẩm quyền (authority) tuy 2 loại quyền sau này có thể bị tranh cãi. Như vậy đó là tranh chấp thuộc phạm trù chính trị. Thêm yếu tố đảng phái, chủng tộc nữa thì lại càng phức tạp.  Tuy nhiên, một nền hành chánh công quyền thích hợp, hữu hiệu cũng có thể giúp giảm bớt các phức tạp này.

Người Mỹ hình như chỉ xem LBC là công cụ để bảo vệ tự do, hơn là để thực thi công bằng xã hội, một đối tượng mà họ khá dè dặt khi đề cập tới, nhất là phía bảo thủ. Phía cấp tiến tuy muốn tập quyền để thực thi chính sách liên bang, trong đó có công bằng xã hội, nhưng cũng chỉ tới đó mà thôi, chứ không đẩy mạnh để hy vọng tạo nên một cơ chế bền vững.  Những người nghiên cứu hành chánh chắc không quên không khí chống chiến tranh Việt Nam, giấc mơ cải tạo xã hội Great Society, tinh thần hăng say của các học giả hành chánh trẻ đã cho chào đời học thuyết “Tân Hành Chánh Công Quyền” (New Public Administration) chủ trương hành chánh công quyền phải có nhiệm vụ cải tạo xã hội trong đó thực hiện công bằng xã hội phải là mục tiêu hàng đầu. Nhưng chủ trương này hình như lần lần đi vào quên lãng. Do Syracuse University (New York) khởi xướng, lần đầu tiên họ họp ở Minnobrook vào tháng 9/1968, đến nay chỉ có thêm 2 lần họp nữa mà thôi  –vào năm 1988 và 2008, nghĩa là 20 năm những “con ve sầu hành chánh” mới gặp nhau một lần!  Cuộc cải tổ hành chánh kéo dài 6 tháng do Phó Tổng Thống Al Gore chủ trì kết thúc với phúc trình “The Report of The National Performance Review” đệ trình Tổng Thống Bill Clinton ngày 7/9/1993 chủ yếu nhằm vào việc giản dị hóa thủ tục hành chánh và sự du nhập các nguyên tắc quản lý khu vực tư vào khu vực công để giảm bớt chi phí, chứ không đề cập gì đến liên bang chế, có lẽ vì nó thuộc phạm trù chính trị cũng như những phức tạp đã đề cập ở đoạn trên.

Toàn cầu hóa làm giàu thế giới, khiến cho sự cách biệt giàu nghèo giữa các nước giảm đi.  Nhưng trong nội bộ các quốc gia, trong đó có Hoa Kỳ, bất bình đẳng về lợi tức (BBĐLT, income inequality) tăng thêm.  Như trình bày, đảng Dân Chủ luôn luôn có chương trình kế hoạch giảm khoảng cách biệt này, nhưng điều nghịch lý là tại những tiểu bang mà Dân Chủ nắm quyền lập pháp, BBĐLT lại càng ngày càng tăng. Một nghiên cứu của kinh tế gia James Galbraith cho thấy 14 tiểu bang mà mức gia tăng về BBĐLT cao nhất đã bỏ phiếu cho ứng viên Tổng Thống Hillary Clinton trong cuộc bầu cử tháng 11/2016.  Trong khi đó 7 tiểu bang với mức gia tăng BBĐLT thấp đã dồn phiếu cho Donald Trump. Và ông kết luận rằng sự tương ứng giữa mức thay đổi BBĐLT và kết quả bầu cử thật là kỳ lạ (Kettl, 2020, p. 158)

Trong hành chánh công quyền, hình như người Mỹ cũng không quá coi trọng “kinh nghiệm”.  Họ quan niệm kỹ năng lãnh đạo, quản lý có thể chuyển đổi (transferable skills), nghĩa là lãnh đạo thành công một công ty thì sẽ thành công ở một cơ quan công quyền hay một địa phận hành chánh, do đó mà mỗi lần Tòa Bạch Ốc thay đổi chủ nhân là mỗi lần có những vị chỉ huy mới  (political appointees) cho nhiều cơ quan, ngay cả cơ quan rất chuyên môn mà người mới lại thiếu chuyên môn.  Họ có thể, mà cũng là không thể, thành công. Quá khứ đã chứng minh điều đó.  Một người lãnh đạo thành công một đại công ty, không nhất thiết sẽ thành công khi lãnh đạo một cuộc chiến tranh; một người lãnh đạo một hội đua ngựa quyền quý, nhưng lớ ngớ khi phải chỉ huy cứu trợ khẩn cấp nạn nhân bão Katrina.  Có người sau một thời gian đã thành công, thì lại đi, không dùng kinh nghiệm và kỹ năng cho cơ quan cũ, nhường chỗ cho người mới tới … bắt đầu học việc. Sự thiếu vắng những viên chức uy tín làm việc lâu năm và có nhiều kinh nghiệm ở trung ương để liên lạc với địa phương cũng là một thiệt thòi cho thể chế liên bang Hoa Kỳ.

Hình như người Mỹ cũng không coi trọng hành chánh công quyền lắm.  Đến nay, họ vẫn còn luận bàn về vai trò của chính trị và hành chánh, vẫn coi trọng quản lý khu vực tư hơn.  Sau Thế Chiến Thứ Hai, trong khi nước Pháp mở Ecole Nationale d’ Administration (ENA) để đào tạo chuyên sâu cán bộ hành chánh trung ương, và lần lượt nhiều viện hành chánh vùng (instituts regionaux d’administration) đào tạo cán bộ hành chánh địa phưong, trong đó khá uy tín là Ecole nationale d’adminstration municipal ENAM, nay là Institut national d’études territoriales, INET) , trong khi  tại Hoa Kỳ, các trường Đại Học dò dẫm cung cấp chương trình MPA, với những môn học tương đối tổng quát cho sinh viên đã tốt nghiệp mọi ngành đại học. Triết lý giáo dục của Hoa Kỳ là giúp anh những điều tổng quát, để ra đời anh tự trau dồi thêm cho thích nghi với địa phương, với hoàn cảnh, và tình thế.  Nhưng một số không nhỏ, sau khi ra trường một thời gian, “đủ lông đủ cánh” thì bay đi nơi khác hay cơ quan khác! Do đó mà hành chánh công quyền Hoa Kỳ tương đối thiếu người kỳ cựu kinh nghiệm.

Liên Bang Chế Và Yếu Tố Truyền Thống

Các tranh cãi đó phản ánh văn hóa chính trị (political culture) của các địa phương.  Nói cách khác những qui luật của chính trị Mỹ thay đổi khi quan niệm và quan điểm của người công dân thay đổi. Ngày xưa sự thay đổi của người dân chủ yếu nhờ giáo dục học đường, chậm nhưng vững chãi. Ngày nay lực lượng truyền thông quá lớn và ảnh hưởng quá mạnh, các công dân “am tường” (informed citizens) dễ bị cung cấp “thông tin dõm” (fake information) đến một cách ào ạt, mà họ lại không có đủ thời giờ để chọn lọc, đánh giá chúng. Trong một chừng mực nào đó, có thể nói  cư dân các thành thị lớn đông dân dễ bị nhiễu tin hơn cư dân miền quê thưa thớt.  Do đó tìm hiểu văn hoá chính trị Hoa Kỳ thì cũng cần tìm hiểu  thêm về văn hóa chính trị truyền thống và địa phương . Đa số người Việt chúng ta không định cư và sinh sống ở các vùng nông thôn Hoa Kỳ, tuy nhiên nếu có dịp “nhìn lại” qua phim ảnh, sách báo, có thể chúng ta sẽ hiểu biết và “thấm” phần nào cái truyền thống địa phương đó.

 Alexis de Tocqueville, một học giả trẻ người Pháp khi sang Hoa Kỳ 9 tháng (1831-1832) để nghiên cứu chế độ lao tù của nước này, khi về nước đã không tiếc lời ca tụng sinh hoạt của các thành phố Mỹ vùng New England thủa đó.  Trong nhật ký, ông tỏ ra thích thú về các thành phố được đặt tên mang dấu vết lịch sử hay quê hương cũ như Ethena, Troy, Rome, Liverpool, vv. bên cạnh những cánh rừng đầy hoang dã  (sauvagerie).  Trong Chương 5 của quyển Democracy in America (dịch từ nguyên bản tiếng Pháp De la Démocratie en Amérique: Les Grands Thèmes), Tocqueville viết: “Các thị trấn nhỏ là nơi hội họp duy nhất, bắt nguồn một cách tự nhiên là bất cứ ở đâu người ta tụ họp, là nó tự hình thành …  Con người tạo dựng các vương quốc, các nước cộng hòa, nhưng các thị trấn nhỏ dường như nảy sinh ra từ bàn tay của Chúa.” Trải qua hơn hai trăm năm, các thị trấn lớn nhỏ thay đổi nhiều, nhưng cái truyền thống đó vẫn giữ lại tuy ít, nhưng mỗi khi lễ hội, bầu cử, hay khi địa danh được nhắc nhở trong phim ảnh, một người con địa phương thành danh, hay hy sinh vv., cái truyền thống hào hùng đó chợt sống lại và gắn kết điạ phương với nhau, không khác chi làng quê chúng ta trên cả 3 miền Bắc Trung Nam.  Tinh thần truyền thống nhen nhúm này dễ bùng lên khi có nhân tố mới, chẳng hạn chủ nghiã dân túy (populism) trong kỳ bầu cử 2016 đưa đến thắng lợi cho Tổng Thống Donald J. Trump.

Đã có nhiều người phê phán về LBC Hoa Kỳ. Kettl (2020), một tác giả khá nổi tiếng về nền hành chánh Hoa Kỳ, viết: “Liên bang chế có thể là một khám phá cốt lõi nhằm xây dựng và duy trì nền Cộng Hòa Hoa Kỳ. Nhưng nay nó không còn là chất kết chặt quốc gia với nhau, mà chỉ là động lực phân chia quốc gia mà thôi. Kết quả một nước Mỹ chia rẽ.” (trang 205).  Thật ra, LBC Hoa Kỳ tỏ ra không hoàn hảo ngay từ khi xuất hiện, mức độ hữu hiệu có lúc cao, có lúc thấp.  Nhưng nó vẫn tồn tại cho đến ngày nay.  Có người đề nghị rằng muốn nó hữu hiệu thì cần phải tu chính Hiến Pháp 1789.  Nhưng thủ tục tu chính lại không dễ.   Theo Điều V, khi thấy cần thiết, Quốc Hội có thể đề nghị tu chính với 2/3 số phiếu Hạ Viện 2/3 số phiếu Thượng Viện.  Hoặc phải do Quốc Hội của 2/3 tổng số các tiểu bang, tức Quốc Hội của 34 tiểu bang. Ngoài ra, còn có tác giả đề nghị tăng cường quyền hạn của  cả hai bên liên bang lẫn các tiểu bang (Chemerinsky, 2008).  Trong thời đại kỹ thuật số tân tiến này, cũng đã có những tác giả, chẳng hạn do Koliba (2018) đề nghị  tạo lập những mạng lưới  (networks) để quản lý  hành chánh với gần 90.000 chính quyền,  gồm CQLB + CQTB + CQĐP hầu  tiện việc thi hành các chính sách công.   Người viết chỉ xin  ghi ra đây để quý độc giả có cơ hội thâm cứu.

                                                                                    ***

Đến đây, có thể nói chính Liên Bang Chế đã tạo ra nước Mỹ.  Nếu LBC không ra đời, nước Mỹ khó có thể hình thành và hùng mạnh như ngày nay.  Các nguyên tắc tam quyền phân lập được tạo ra ngay từ đầu là để tránh độc tài, bảo vệ dân chủ, cùng bảo vệ luật pháp –mà Hiến Pháp là luật cao nhất,  Khi tuyên thệ nhậm chức, không giống các nhà lãnh đạo các nước khác tuyên bố trung thành với tổ quốc nhân dân,  các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ tuyên bố duy trì, bảo vệ và phòng thủ Hiến Pháp  (preserve, protect and defend the Constitution of the United States).  LBC không hoàn hảo, có những vấn đề cần giải quyết, trong đó có vấn đề bất bình đẳng về cơ hội và lợi tức, cũng như sự ổn định về mối tương quan quyền lực giữa CQLB + CQTB + CQĐP.

Điều hành hiệu quả Liên Bang Chế  do đó quả là không dễ.  Chúng ta thử suy gẫm về một đoạn dưới đây trích từ lá thư số 51 do James Madison viết trong quyển The Federalist Papers:

“Nhưng chính quyền tự nó là gì nếu không là điều tốt đẹp nhất trong những điều phản ánh bản chất con người? Nếu con người là những vị thánh, thì chính quyền sẽ không cần thiết.  Nếu những vị thánh cai trị con người, thì sự kiểm soát chính quyền từ trong nội bộ cũng như từ bên ngoài sẽ không cần thiết. Khi tạo lập chính quyền với con người cai quản con người, điều khó khăn nhất là ở điểm này: bạn phải cho phép chính quyền kiểm soát người bị trị; và kế đó buộc chính quyền kiểm soát lấy mình.”

 Nếu cần hiện đại hoá khái niệm trên, chúng ta có thể nói “chính quyền” ở đây là cả Chính Quyền Liên Bang, Chính Quyền Tiểu Bang và Chính Quyền Địa Phương ; và “người bị trị” là toàn thể công dân được thông báo đầy đủ (informed citizens), không phân biệt màu da, tôn giáo hay đảng phái.  Trong chính trị, không dễ gì thay đổi khẩu hiệu mà đôi khi chúng ta nghe hò reo thích thú “They get low, we get high”, thậm chí quá đà say máu “They get low, we kill them.”

Để kết luận, chúng ta có thể nhắc lại ý kiến của Huntington (2004) đã trích dẫn dưới tựa đề của bài viết này với ước vọng rằng kết quả cuộc thăm dò năm 1983 của 15 nước Tây Phương mà ông viện dẫn ngày nay không thay đổi nhiều.   Và người Mỹ sẽ tìm được những giải pháp thỏa đáng cho những vấn đề mới mà Liên Bang Chế Hoa Kỳ đưa ra.

Lê Văn Bỉnh

Virginia, tháng 9 năm 2020

(Trong mùa đại dịch Covid-19)

 ___________

*Chú Thích

Hiến Pháp Hoa Kỳ không đề cập đến chính quyền địa phương của các tiểu bang.  Tổ chức CQĐP/ TB  lại khá phức tạp,  không những khác nhau về tên gọi, diện tích, dân số, cơ cấu quản lý, vv. , mà tiếng Việt khó có từ ngữ để dịch cho đúng, hay có tổ chức tương đương để so sánh.  Nói chung, trong các sách bàn về “State and Local Government”, các tác giả Mỹ chia CQĐP/TB ra làm 2 loại: (1) những CQĐP với mục tiêu tổng quát (general-purpose local governments), thực hiện nhiều chức năng, như county, city vv. ; và (2) những CQĐP với mục tiêu đơn nhất (single-purpose local governments) chỉ thực hiện một chức năng, như school district chỉ lo về trường học. Tổng cộng gồm gần 90.000 chính quyền địa phương. Mỗi năm US Census Bureau đều có thống kê. Có thay đổi về các con số, nhưng không nhiều. Đề nghị độc giả truy cập website http://www. Census. gov/govs/cog nếu muốn biết thêm chi tiết.

Cũng cần lưu ý: Nhiều CQTB lắm lúc than phiền bị CQLB áp lực nặng nề, thì nhiều CQĐP cũng bất mãn không kém khi bị CQTB bức bách, đưa đến kiện tụng tại các Tòa Án, vì hầu hết các CQĐP không phải trực thuộc hành chánh theo cách chúng ta đã quen khi còn ở VN trước 1975.

  • Các CQĐP Với Mục Tiêu Tổng Quát – Người Mỹ xem đây là những bộ phận chính trị (political arms) hơn là những đơn vị hành chánh, vì chúng có đủ Lập Pháp, Hành Pháp và Tư Pháp mà tên gọi và quyền hạn khác nhau từ TB này sang TB khác.   Dưới đây là một số tổ chức:

Quận (County) – Người Việt ở Hoa Kỳ thường dùng chữ Quận để gọi cho tiện một county Hoa Kỳ, một bộ phận của hầu hết các TB.  Nước Mỹ có trên 3000 đơn vị như thế này. Thật ra, Quận của VNCH trước 1975 có thể lớn hay nhỏ hơn một county Mỹ, nhưng hoàn toàn khác với county về phương diện quản lý.  Quận Việt Nam là trung gian giữa Tỉnh và Xã, mà hai đơn vị này đều có tư cách pháp nhân, Hội Đồng (Tỉnh, Xã) do dân bầu, và có ngân sách riêng. Còn quận thì không có tư cách pháp nhân, cũng không có ngân sách. County là một địa phận hầu hết tương đối thôn quê. Tiểu bang Hawai chỉ có 3 counties, California có 57, Virginia có 96, Texas lại có đến 254.  Tại Virgina, mỗi county (cũng như city, sẽ đề cập) phải có những chức vụ sau đây do dân bầu lên, có nhiệm kỳ 4 năm. Đó là:  Treasurer, Sheriff, Attorney of the Commonwealth, Commission of Revenue, Clerk of Court (nhiệm kỳ 8 năm).  Bộ phận lãnh đạo county, gọi là Board of Supervisors (hay Board of Commissioners, County Board tại nhiều tiểu bang khác) mà mỗi supervisor của mỗi khu vực cũng do dân bầu, phụ trách thuê mướn nhân sự hành chánh và chuyên môn cung cấp dịch vụ. Ngân sách của County do thuế (sales taxes, property taxes), lệ phí (cung cấp nước, thu nhặt rác), tiền cho thuê tài sản, tiền phạt giao thông, tòa án và các trợ giúp của tiểu bang và liên bang. Đơn vị hành chánh căn bản của nhiều tiểu bang là county. Louisiana gọi nó là parish; Alaska gọi là borough.  Toàn quốc có trên 3000 counties và tương đương.

Thành Phố (City) Có tác giả dùng municipality đồng nghĩa với city.  Nhưng đa số , trong đó có US  Census Bureau, dùng municipality để chỉ city và town. Thành phố được thành lập (incorporated) theo luật tiểu bang, và hoạt động theo một bản điều lệ (charter) do lập pháp tiểu bang phê chuẩn, hay theo luật TB (như tại California).  Tại Virginia, thành phố được thành lập theo một đạo luật của lập pháp Virginia; hay theo thủ tục tư pháp tại một tòa sơ thẩm (circuit court) ở county nơi thành phố này toạ lạc. Phải hội đủ những điều kiện chính đáng, trong đó có các điều kiện về dân số, mật độ, lý do (tạo thêm lợi ích cho đơn vị mới cũng như cho các đơn vị hành chánh lân cận).  Thành phố thường đông dân hơn thị trấn.  Sau khi thành lập, các thành phố và thị trấn trở nên tự trị, không được trông cậy vào đơn vị cũ để cung cấp dịch vụ nữa; thuế thường cao hơn. Có những thành phố sau khi thành lập càng ngày càng phát triển; đôi khi trở nên xung đột với tiểu bang đưa tới kiện cáo.  Nhưng cũng có những thành phố sau 5-7 năm thì “phá sản” và phải quay về với county cũ.  Các thành phố có thể được điều hành theo một trong những hình thức sau đây: (1) Thị-Trưởng Hội Đồng (Mayor- Council): Dân bầu lên Hội Đồng, Thị Trưởng và một số viên chức khác, như ủy viên thuế vụ, thủ quỹ à Thị Trưởng tuyển chọn các viên chức phụ trách công chánh, tài chánh, an toàn, phát triển cộng đồng, công viên vv. (2) Hội Đồng- Quản Lý Viên (Council- Manager): Dân bầu Hội Đồng à  Hội Đồng bổ QLV (có thể là 1 thành viên của HĐ) à QLV bổ chuyên viên. (3)  Ban Ủy Viên Thành Phố (City Commission): Dân bầu ra một số ủy viên, mỗi vị phụ trách phần vụ chuyên môn à một vị sẽ được đề cử đảm trách việc họp hành để phối hợp công tác.   Hình thức (1) taọ một chính quyền mạnh, thường áp dụng cho các thành phố lớn, đông dân, giàu có. Hình thức (2) khá hữu hiệu. Có vài thành phố mà Hội Đồng Thành Phố (City Council)  quản lý rất khéo bằng cách mướn City Manager giỏi;  thuê các counties lân cận cung cấp dịch vụ (xã hội, pháp lý ) cho cư dân mình, không phải tốn kém nhiều cho nhân sự, hành chánh.

Thị Trấn Lớn – Thị Trấn Nhỏ (town và township), thường ít dân hơn county và city. Khi dân số tang  nhiều, town có thể xin trở thành city; và khi dân số giảm, chúng dễ mất tư cách này và nhập vào county, như trường hợp của các city.  Hiện nay chỉ tồn tại ở 20 TB, chủ yếu Vùng Northeast và Midwest. Hằng năm, toàn thể dân chúng trong town họp khoáng đại hội nghị; đưa ra phương hướng hoạt động, bầu ra các viên chức, thông qua các qui định, biểu quyết ngân sách, ấn định thuế suất vv. Township, ít dân hơn town, và thôn dã hơn, thường được quản lý bởi những viên chức bán thời gian, hay tự nguyện. Theo thống kê 2007, Hoa Kỳ có 16.519 towns và townships, chỉ giảm 110 so với mười năm trước đó. (Bownan & Kearney, 2012, p. 266).

  • Các CQĐP Với Mục Tiêu Đơn Nhất

Còn được gọi là những khu đặc biệt (special districts).  Đây là những đơn vị chính quyền độc lập, được thành lập nhằm một mục tiêu hạn chế và đặc biệt.  Mỗi năm đều có những khu đặc biệt mới ra đời, và những khu đặc biệt hiện hữu biến đi. Nói chung, các CQĐP loại này được thành lập vì lý do kỹ thuật/tài chánh (chẳng hạn dự án dẫn nước sạch hay dự án cống rãnh buộc phải qua ranh giới của một hay nhiều counties hay thành phố khác), hay vì lý do chính trị (phòng chống lũ lụt, bảo vệ môi sinh). Nhưng loại CQĐP phổ biến nhất trên toàn quốc có lẽ là các học khu (school district).  Số học khu mỗi tiểu bang lại khác nhau, tùy theo truyền thống hơn là tùy theo số học sinh.  Thí dụ California có tới 1.025, Texas đến 1.079.  Có vài TB, học khu còn bao gồm các trường đại học cộng đồng (community college).  Toàn quốc có khoảng 14.000 học khu độc lập.  Đối với các trường công, học khu chịu hoàn toàn trách nhiệm trong 32 tiểu bang; hầu hết trách nhiệm trong 8 TB; một phần trách nhiệm trong 5 TB.  Riêng 5 TB còn lại gồm Alaska, Hawaii, Maryland, North Carolina và Virginia, không có học khu độc lập, hay nói khác đi toàn TB chỉ xem như chỉ có một học khu.   Học khu được điều hành bởi  một hội đồng (board), thường gồm 3 người trở lên, được dân bầu trực tiếp, không mang tính đảng phái; có nhiệm vụ quản lý ngân sách học khu, thuê trưởng học khu (school superintendent) mà ở nhiều nơi lương lại cao hơn cả lương thống đốc tiểu bang.

 

Tài Liệu Tham Khảo

 

Blakeman J. & Banks C. (2018).  The US Supreme Court, New Federalism, and Public Policy. In Controversies in American Federalism and Public Policy. Ed. Christopher P. Banks. New York, NY: Routledge.

Chemerinsky, Erwin (2008). Enhancing Government: Federalism for the 21st Century. Stanford, CA: Stanford University Press.

Drake, F. & Nelson, L. (1999). States’ Rights and American Federalism: A Documentary Historỵ.  Westport, CT: Greenwood Press                  

Elazar, D., Carroll R., Levine E. & Angelo, D. (Ed.). (1989).  Cooperation and Conflict: Readings in American Federalism. (11th ed.).  Itaska, IL: F. E. Peacock Publisher.

Gelm, Richard (2008).  How American Politics Works: Philosophy, Pragmatism, Personality and Profits. Newcastle, UK:  Cambridge Scholars Publishing.

Huntington, Samuel (2004). Who Are We? The Challenges to America‘s  National Identity. New York, NY:  Simon & Schuster.

Kettl, Donald (2020). The Divided States of America: Why Federalism Doesn’t Work. Princeton, NY: Princeton            University Press.

Koliba, C., Meek, J., Zia, A. & Mills, R. (2018).  Governance Networks in Public Administration and Public Policy.             (2nd ed.).   New York, NY: Routledge.

Lê Văn Bỉnh.  Câu Chuyện Nợ Nần Nước Mỹ.  Hành Chánh Miền Đông số 17 (2012).  Có thể còn được giữ lại trên một vài Website với tựa đề “Câu Chuyên Nợ Nần Của Chính Phủ Hoa Kỳ”.  Tác giả có thể gửi bản thảo nếu độc giả yêu cầu.  Địa chỉ: levanbinh4303@yahoo.com

May, C & Ides, A. (2013) Constitutional Law: National Power and Federalism. (6th ed.) New York, NY: Wolters Kluwer Law & Business.

Plano, J. & Greenberg, M. (2002). The American Political Dictionary. Belmont, CA: Wadsworth.

Peaslee, L. & Swartz, N. (2014). Virginia Government: Institutions and Policy. Thousand Oaks, CA: Sage.

Posner, P & Conlan, T. (2016). European-Style Federalism’s Lessons for America.  In State and Local Government: 2015-2016 Edition. Ed. Kevin B. Smith. Thousand Oaks, CA: Sage.

Rozell, M. & Wilcox, C. (2019) Federalism: A Very Short Introduction. New York, NY: Oxford University Press.

Smith, K. & Greenblatt A, (2018). Governing States and Locations. (6th ed). Thousand Oaks, CA: CQ Press.