Monthly Archives: November 2016
Vụ Cain Giết Abel
Nguyễn Văn Thành
(Cain và Abel mang lễ vật dâng Chúa. Khắc trên ngọc)
Có lẽ vụ sát nhân nổi tiếng nhất trong nền văn minh Tây Phương là vụ anh em giết nhau được thuật trong Sách thứ Nhất của Môi-Se (Moses), Chương 4, đoạn 1-16 (Book of Genesis, 4:1-16). Các sự kiện như duyên cớ, phiên xử và bản án gồm những câu ngắn gọn đủ giúp chúng ta có thể, không khó khăn lắm, diễn lại đủ sự việc xẩy ra tại hiện trường.
Vụ sát nhân diễn tiến như sau:
Cain và Abel là anh em, con của ông Adam và bà Ê-Va. Cain làm nghề nông, còn Abel chăn cừu. Hai anh em mang lễ vật dâng Chúa. Cain dâng trái cây và Abel dâng chiên đầu đàn và mỡ của nó. Không rõ vì lý do gì, Chúa nhận lễ vật của Abel và không đoái tới lễ vật của Cain. Cain tức giận không còn giữ được sự bình tĩnh nữa. Cain cúi gầm mặt xuống tỏ vẻ ghen tị với người em mặc dầu Chúa đã cảnh cáo y không được có thái độ như vậy đối với em. Không nghe theo tiếng gọi của lương tâm, Cain chờ cơ hội thuận tiện khi hai anh em ở cánh đồng vắng, Cain nổi giận xông tới giết chết em.
Những chi tiết ghi trong hồ sơ vụ án thật giản dị; một tội phạm nghiêm trọng thông thường luôn luôn xảy ra do sự ghen tị, căm ghét và giận dữ. Có hai sự kiện chính được coi như bằng chứng để buộc tội Cain: người ta đã trông thấy Cain và Abel cùng đi ra cánh đồng nhưng khi trở về chỉ thấy có một mình Cain thôi. Máu của người em bị giết đổ ra trên đất kêu gào sự báo thù thấu tới Chúa. Cuộc điều tra bắt đầu.
Chúa cho đòi Cain tới để phán xét. Chúa hỏi: “Em ngươi ở đâu?”. Cain trả lời: “Thưa, tôi không biết. Tôi là người giữ em tôi sao?”. Câu trả lời càng tăng thêm sự nghi ngờ. Một người vô tội bị buộc tội giết em không bao giờ trả lời như vậy. Cuối cùng Cain giữ im lặng coi như là biện pháp hay nhất để tự biện hộ vì không có một nhân chứng nào chứng kiến vụ án mạng đó. Cain đã quên có một nhân chứng, máu của người em, đã tố giác hành vi sát nhân của y trong câu hỏi sau “Ngươi đã làm điều chi vậy? Tiếng máu của em ngươi từ dưới đất kêu thấu đến ta.”
Theo thủ tục cổ xưa, cuộc thẩm vấn tại Tòa thật sơ sài nhưng cũng có đủ bằng chứng cho rằng Cain có tội. Bị can không bị kết án tử hình nhưng bị hình phạt lưu đầy.
Quy chế đầu tiên liên quan tới vấn đề sát nhân được quy định như sau trong Sách IX, chương 6 “Kẻ nào làm đổ máu của người khác sẽ thấy máu của mình đổ ra như thế.” (Who so sheddeth man’s blood, by man shall his blood be shed). Cain sợ chết, thưa, “Chúa đuổi tôi ra khỏi đất này, khi sống lưu lạc e có người gặp tôi, họ sẽ giết tôi.” Bởi cứ ấy, Chúa phán, “Nếu ai giết Cain thì sẽ bị báo thù bẩy lần.” Chúa đóng dấu trên mình Cain để cho mọi người biết không được giết Cain.
Phạm nhân Cain bị xua đuổi khỏi khu dân cư đông đúc, bị lưu đầy vào chốn hoang vu tại xứ Nod về phía Đông Eden, nơi đó không có gia đình, luật pháp và Thượng Đế che chở cho y.
(The Death of Abel. From La Sainte Bible 1866. Engraving. Họa Sĩ Pháp Gustave Doré tả vụ cố sát Abel. Bức tranh in từ bản khắc trong Thánh Thư. 1866)
Nhận xét về vụ án
Ðề cập vụ án Cain giết Abel, học giả David Werner Amram đã sử dụng nhiều từ chuyên môn pháp lý quen thuộc ở Tòa án như Chúa ban trát đòi Cain tới hầu Chúa, mở cuộc điều tra, Cain phải qua cuộc đối chất, bản án của Tòa đã tuyên…
Nhưng có một điểm pháp lý từ xưa cho tới nay đều áp dụng giống nhau. Ðó là động cơ thúc đẩy sự phạm pháp vì lý do nhân đạo hay ghen tị không ảnh hưởng tới sự trừng phạt.
Người viết xin tạm dịch một vài đoạn trong tác phẩm của học giả Amram để đóng góp vào sự thâm cứu vụ Cain.
“Ðề nghị, lấy ra từ trường hợp Adam và Eve, cho rằng quan niệm dân gian về sự ban phát công lý của Thượng Ðế theo cung cách tộc trưởng thời bấy giờ, cũng áp dụng cho trường hợp phạm pháp này. Truyền thuyết cũng không đưa ra một lý do nào cho biết tại sao lễ vật của Abel đã được nhận còn lễ vật của Cain bị từ chối, và cho rằng không đủ lý do chính đáng để biện giải cho sự phạm pháp. Cho dù đưa ra bất cứ lý do gì về việc Chúa không đoái hoài tới lễ vật của Cain, thật khó cho rằng sự việc đó ảnh hưởng tới khía cạnh pháp lý của vụ án cố sát. Xã hội học đối chiếu và văn hóa dân gian đề ra nhiều lý do khác nhau mà vào thời đại ngày nay chúng ta không còn quan tâm tới nữa…
Thật khó có thể nói rằng Cain đã được xét xử theo đúng tội phạm của y, bởi vì phương pháp thẩm vấn đương sự đã hoàn toàn thô sơ để có thể quan niệm một tiến trình thứ tự trong thủ tục điều tra tư pháp về sau này. Và tội phạm của y đã được xác nhận thể theo hoàn cảnh của vụ phạm pháp, và ngoài sự chối cãi đơn thuần không nhận tội, can phạm đã không hề có một toan tính nào để tự bào chữa cho mình. Bản án đã được tuyên ngay sau đó. Hình phạt dành cho bị can không phải tử hình mà là án lưu đày.”
Và tác giả Amram kết luận:
“Có lẽ vụ sát nhân nổi tiếng nhất trong nền văn minh Tây Phương là vụ anh em giết nhau được thuật trong Sách Thứ Nhất của Môi-Se (Moses), Chương 4, đoạn 1-16 (Book of Genesis,4:1-16)”
Chú thích:
-David Werner Amram – From Leading cases in The Bible- “The Murder of Babel”- “The Judgement of Solomon”.
– The Complete Bible Handbook by John Bowker-Lightning out of Israel-The Arab-Israel Conflict by the Associated Press- Commemorative Edition)
TP. Nguyễn Văn Thành
(Trích: “LUẬT PHÁP VÀ VĂN HỌC NGHỆ THUẬT”, Cỏ Thơm xuất bản 2016 )
Rene Francois Sully Prudhomme (1839 – 1907) Văn Hào Pháp Lãnh Giải Thưởng Nobel Văn Chương đầu tiên
Phạm Văn Tuấn
Rene Francois Armand Sully Prudhomme là nhà thơ và nhà viết bình luận người Pháp. Ông là thi nhân lãnh Giải Thưởng Nobel Văn Chương đầu tiên vào năm 1901.
Sully Prudhomme trước tiên theo học ngành kỹ sư rồi chuyển sang bộ môn triết học và thơ phú. Ông liên hệ với trường phái Parnassus nhưng các tác phẩm của ông mang các đặc tính riêng.
1/ Cuộc đời của nhà thơ Sully Prudhomme.
Sully Prudhomme là con trai của một chủ tiệm tạp hóa, đã theo học trường trung học Bonaparte nhưng vì mắt kém nên ông đã bỏ dở việc học rồi làm việc trong xưởng đúc thép Schneider trong miền Creusot, sau đó lại theo học luật tại một văn phòng chưởng khế.
Sully Prudhomme là hội viên của một hội sinh viên đặc biệt có tên là “Conference La Bruyere” (hội Thảo Luận La Bruyere), hội này đã khuyến khích ông đi vào con đường văn thơ.
Tập thơ đầu tiên của Sully Prudhomme có tên là “Stances et Poems” (Stanzas and Poems, 1865 = Thơ tứ tuyệt và thơ) đã được nhà thơ Sainte-Beuve khen ngợi. Trong tập thơ này có bài thơ nổi tiếng nhất của tác giả: Le Vase brisé (Chiếc Bình rạn vỡ).
Trước khi cuộc chiến tranh Pháp Phổ bùng nổ (the Franco-Prussian War), Sully Prudhomme đã cho phổ biến nhiều bài thơ rồi ông đã thảo luận về cuộc chiến tranh qua hai tác phẩm “Impressions de la guerre” (Cảm tưởng về chiến tranh, 1872) và “La France” (Nước Pháp, 1874).
Trong thời gian làm thơ, Sully Prudhomme đã dần dần chuyển từ thể văn tình cảm sang thể văn có tính cách cá nhân hơn do phối hợp hình thức của trường phái Parnassus với sở thích về triết học và khoa học. Cảm hứng này thấy rõ khi Sully Prudhomme dịch thơ của Lucretius trong tác phẩm “De rerum natura”.
Đường lối triết học của Sully Prudhomme được diễn tả trong hai cuốn sách “La Justice” (Công Lý, 1878) và “Le Bonheur” (Hạnh Phúc, 1888).
Vào năm 1881, Sully Prudhomme được bầu vào Hàn Lâm Viện Pháp Quốc (Academie francais) rồi qua năm 1895, ông nhận đựoc danh dự Hiệp Sĩ (Chevalier de la Légion d’honneur).
Sau tác phẩm “Le Bonheur” (Hạnh Phúc), Sully Prudhomme chuyển từ thơ phú sang các bài bình luận (essays) về thẩm mỹ học (aesthetics) và triết học (philosophy). Ông cho phổ biến hai bài bình luận quan trọng, đó là “L’Expression dans les beaux-arts” (sự diễn đạt trong nghệ thuật, 1884) và “Réflexions sur l’art des vers” (Suy nghĩ về nghệ thuật của các câu thơ, 1892). Sully Prudhomme còn viết một loạt bài báo về Blaise Pascal trong tạp chí “La Revue des deux Mondes” (Tạp chí hai thế giới, 1890) cũng như trong tạp chí “Revue de métaphysique et de morale” (Tạp chí siêu hình và đạo đức, 1906).
Vào năm 1901, Sully Prudhomme lãnh được Giải Thưởng Nobel Văn Chương, với lời ca ngợi như sau: “công nhận đặc biệt về cách bố cục thơ của ông, đây là sự hiển nhiên về lý tưởng cao cả, sự toàn hảo nghệ thuật và sự phối hợp hiếm thấy vì các phẩm chất cả về tấm lòng lẫn trí thức” (in special recognition of his poetic composition, which gives evidence of lofty idealism, artistic perfection and a rare combination of the qualities of both heart and intellect).
Sully Prudhomme đã dùng phần lớn của số tiền thưởng cao quý này để tạo nên một giải thưởng thơ do Hội Các Văn Nhân (La Societé des gens de lettres). Vào năm 1902, Sully Prudhomme cũng thành lập Hội Các Nhà Thơ Pháp (La Société des poèts francais) với Jose-Maria de Heradia và Leon Dierx.
Do sức khỏe suy kém từ năm 1870, Sully Prudhomme phải sinh sống như một người ẩn dật tại Chartenay-Malabry, rồi ông bị liệt trong khi đang viết các bài luận văn. Sully Prudhomme đột ngột qua đời vào ngày 6 tháng 9 năm 1907, rồi được chôn cất tại nghĩa trang Père-Lachaise trong thành phố Paris.
2/ Phần Thơ tiếng Pháp.
LE VASE BRISÉ
Le vase où meurt cette verveine
D’un coup d’éventail fut fêlé;
Le coup dut l’effleurer à peine,
Aucun bruit ne l’a révélé.
Mais la légère meurtrissure,
Mordant le cristal chaque jour,
D’une marche invisible et sûre
En a fait lentement le tour.
Son eau fraîche a fui goutte à goutte,
Le suc des fleurs s’est épuisé;
Personne encore ne s’en doute:
N’y touchez pas, il est brisé.
Souvent aussi la main qu’on aime,
Effleurant le coeur, le meurtrit;
Puis le coeur se fend de lui-même,
La fleur de son amour périt.
Toujours intact aux yeux du monde,
Il sent croître et pleurer tout bas
Sa blessure fine et profonde;
Il est brisé, n’y touchez pas.
Sully Prudhomme.
3/ Phần Thơ Chuyển Ngữ của Nhà Thơ Nguyễn Thị Ngọc Dung.
BÌNH HOA RẠN VỠ
Cỏ tiên héo úa trong bình,
Quạt hương thơm ngát vô tình lướt qua,
Dù không rung động cành hoa,
Mà nghe rạn nứt, xót xa tủi hờn.
Nhẹ nhàng như cánh bướm vờn,
Ngày trôi xuyên lịm tím hồn pha lê,
Trăm đường vạch cắt lê thê,
Vết thương gậm nhấm ê chề đậm sâu.
Âm thầm cạn rỉ giọt sầu,
Mật hoa khô héo vương màu phôi phai,
Hững hờ tri kỷ nào ai,
Bình hoa rạn vỡ, chớ hoài chạm thêm.
Bàn tay măng nõn nà êm,
Ơ thờ mơn chớn, rũ mềm nỗi yêu,
Tâm tư day dứt cô liêu,
Hoa lòng ngập phủ tiêu điều mộ tim.
Vẹn nguyên qua mắt thường tình,
Buồn thêm tê tái, lệ mình tuôn rơi,
Niềm đau vực thẳm rã rời,
Trái tim tan nát, xin người buông tha.
NGUYỄN THỊ NGỌC DUNG (chuyển ngữ)
4/ Phần Thơ tiếng Pháp: Rosées.
Rosées
Je rêve, et la pâle rosée
Dans les plaines perle sans bruit,
Sur le duvet des fleurs posée
Par la main fraîche de la nuit.
D’où viennent ces tremblantes gouttes?
Il ne pleut pas, le temps est clair;
C’est qu’avant de se former, toutes,
Elles étaient déjà dans l’air.
D’où viennent mes pleurs? Toute flamme,
Ce soir, est douce au fond des cieux;
C’est que je les avais dans l’âme
Avant de les sentir aux yeux.
On a dans l’âme une tendresse
Où tremblent toutes les douleurs,
Et c’est parfois une caresse
Qui trouble, et fait germer les pleurs.
Sully Prudhomme.
5/ Phần Thơ Chuyển Ngữ của Nhà Thơ Tâm Minh Ngô Tằng Giao.
NHỮNG GIỌT SƯƠNG
Ta mơ, sương giọt mong manh
Trong đồng cỏ biếc long lanh im lìm,
Đọng trên những cánh hoa hiền
Đêm vươn tay mát dịu êm đặt vào.
Nhẹ rung sương đến từ đâu?
Trời mây quang đãng, mưa nào tuôn rơi;
Trước khi giọt đọng muôn nơi
Từng không sương đã buông lơi chập chùng.
Bởi đâu lệ chợt trào dâng?
Chiều nay lửa ấm khắp vầng trời cao;
Vì hồn ta lệ sẵn trào
Trước khi cảm thấy giọt sầu hoen mi.
Hồn người êm ái xuân thì
Nơi đây xao động sầu bi cũng nhiều,
Đôi khi ve vuốt thương yêu
Vẫn gây phiền não, vẫn khêu lệ tràn.
Tâm Minh Ngô Tằng Giao (chuyển ngữ, 11-2016)
Phạm Văn Tuấn biên khảo./.
“Blowin’ In The Wind”
Bob Dyland
How many roads must a man walk down
Before you call him a man?
How many seas must a white dove sail
Before she sleeps in the sand?
Yes, and how many times must the cannon balls fly
Before they’re forever banned?
The answer, my friend, is blowin’ in the wind
The answer is blowin’ in the wind
Yes, and how many years can a mountain exist
Before it’s washed to the sea?
Yes, and how many years can some people exist
Before they’re allowed to be free?
Yes, and how many times can a man turn his head
And pretend that he just doesn’t see?
The answer, my friend, is blowin’ in the wind
The answer is blowin’ in the wind
Yes, and how many times must a man look up
Before he can see the sky?
Yes, and how many ears must one man have
Before he can hear people cry?
Yes, and how many deaths will it take ’till he knows
That too many people have died?
The answer, my friend, is blowin’ in the wind
The answer is blowin’ in the wind
BOB DYLAN
“THỔI BAY THEO GIÓ”
Người bao nhiêu dặm đường trần phải bước
Để thiên hạ gọi là được thành nhân?
Bao biển xa bồ câu cần bay lướt
Mới về được cồn cát mượt ngủ yên?
Vâng! Đại bác bắn bao viên tàn phá
Rồi người ta mới lệnh cấm ban ra?
Câu trả lời, bạn ơi, hòa trong gió
Câu trả lời theo gió thổi bay xa!
Ngọn núi kia tồn tại được bao đời
Trước khi bị nước cuốn trôi ra biển?
Kiếp người phải sống thêm bao năm tháng
Rồi mới được xếp vào hàng tự do?
Vâng! Bao lần ta chỉ lo ngoảnh mặt
Và làm ngơ như mắt chẳng thấy gì?
Câu trả lời, bạn ơi, mờ trong gió
Câu trả lời, bay theo gió còn chi!
Biết bao lần ta phải ngước mắt lên
Mới nhìn thấy trời cao ngất phía trên?
Ta cần phải có thêm bao tai nữa
Mới nghe được ai nức nở canh trường?
Vâng! Phải thấy nhiều cái chết thảm thương
Mới nhận ra sinh mạng chỉ vô thường!
Câu trả lời, bạn ơi, vương trong gió
Câu trả lời, theo gió lượn muôn phương!
TÂM MINH NGÔ TẰNG GIAO
(chuyển ngữ, Nov-2016)
Joseph Rudyard Kipling (1865 – 1936) Văn Hào của Nước Anh Lãnh Giải Thưởng Nobel Văn Chương Năm 1907
Phạm Văn Tuấn
Joseph Rudyard Kipling là nhà văn kiêm nhà thơ người Anh, ra đời tại nước Ấn Độ, nổi tiếng về các truyện trẻ em của ông như The Jungle Book (Truyện Rừng Xanh, 1894), The Second Jungle Book (Truyện Rừng Xanh Thứ Hai, 1895), Just So Stories (Các Truyện Như Vậy, 1902), Puck of Pook’s Hill (Ngọn Đồi của Pook, 1906), cuốn tiểu thuyết Kim (1901), các bài thơ Mandalay (1890), Gunga Din (1890) và If (Nếu, 1910)…
Kipling được coi là nhà văn cải tiến về nghệ thuật của truyện ngắn, các truyện trẻ em của ông thuộc loại văn chương thiếu nhi cổ điển. Kipling là một trong các nhà văn người Anh được mọi người biết tới nhiều nhất, cả về văn xuôi lẫn thơ phú, trong cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20. Nhà văn danh tiếng Henry James đã nói về Kipling như sau: “Kipling gây ấn tượng tới cá nhân tôi như là một thiên tài toàn hảo nhất mà tôi đã từng biết“.
Vào năm 1907, Kipling được trao tặng Giải Thưởng Nobel Văn Chương, ông là nhà văn viết tiếng Anh đầu tiên lãnh nhận Giải Thưởng cao quý này và cho tới ngày nay, là nhà văn trẻ nhất lãnh được vinh dự đó. Ngoài ra, Kipling còn được bầu là Thi Sĩ Khôi Nguyên của nước Anh (the British Poet Laureateship) và nhiều lần ông được đề nghị trao tặng tước vị Hiệp Sĩ (Knighthood) nhưng tất cả các danh vọng này đã bị ông từ chối.
Vào lúc cuối cuộc đời, Kipling được nhiều người coi là “nhà tiên tri của chủ nghĩa Đế Quốc Anh (a prophet of British imperialism), theo như lời của nhà văn George Orwell. Người ta đã tìm thấy trong các tác phẩm của ông các thành kiến và chủ nghĩa quân phiệt (militarism) và cuộc tranh luận này đã kéo dài trong thế kỷ 20. Theo nhà phê bình Douglas Derr: “Khi chủ nghĩa đế quốc của châu Âu thoái hóa thì Kipling được coi là người có một không hai, ngay cả khi gây tranh luận, đã diễn tả đế quốc đã trải qua các kinh nghiệm như thế nào“.
1/ Thời niên thiếu của Joseph Rudyard Kipling.
Rudyard Kipling sinh vào ngày 30 tháng 12 năm 1865 tại Bombay, nước Ấn Độ thời đó còn là thuộc địa của nước Anh, là con của ông John Lockwood Kipling và bà Alice Kipling, với tên con gái là Alice MacDonald. Bà Alice là một phụ nữ hoạt bát còn ông Lockwood là một nhà điêu khắc, nhà vẽ kiểu đồ gốm, hiệu trưởng và giáo sư về điêu khắc kiến trúc (architectural sculpture) tại ngôi trường mới được thành lập tại Bombay, có tên là Trường Nghệ Thuật và Kỹ Nghệ Jejeebhoy (The Jejeebhoy School of Art and Industry).
Trước kia, hai ông bà Lockwood đã gặp nhau bên bờ Hồ Rudyard thuộc miền thôn dã Staffordshire, nước Anh, họ đã say sưa với phong cảnh hữu tình của hồ nước nên họ đã đặt tên của người con đầu lòng là Rudyard Kipling.
Kipling được cha mẹ nuôi nấng tại Bombay cho tới khi lên 6 tuổi thì theo tập tục của các người Anh làm việc tại Ấn Độ, Kipling và cô em gái Alice, còn được gọi là Trix, được gửi về nước Anh, cư ngụ tại Southsea (Portsmouth), sinh sống trong một gia đình nhận nuôi giữ các trẻ con mà cha mẹ ở nước ngoài. Hai đứa trẻ này đã lưu trú trong nhà của Đại Úy và bà Holloway tại Lorne Lodge trong 6 năm. Trong cuốn sách tự thuật mà tác giả phổ biến 65 năm về sau, Kipling đã nhớ lại thời kỳ này với sự kinh hãi bởi vì ông đã gặp cảnh tàn nhẫn và thiếu chăm sóc trong cách đối xử của bà chủ nhà Holloway. Người em gái Trix của Kipling thì cảm thấy dễ chịu hơn tại Lorne Lodge bởi vì bà Holloway muốn rằng sau này Trix sẽ kết hôn với một trong các con trai của bà ta.
Hai đứa trẻ này cũng có các người họ hàng sinh sống tại nước Anh nhờ vậy chúng được trải qua các kỳ nghỉ Lễ Giáng Sinh với bà dì ruột tên là Georgiana (Georgy) với ông chồng là nghệ sĩ Edward Burne-Jones tại nhà của họ tên là “The Grange” (Trang Trại) tại Fulham, London, nơi đây Kipling coi là “một thiên đường đã cứu giúp tôi”.
Vào mùa xuân năm 1877, bà mẹ Alice Kipling từ Ấn Độ trở về nước Anh nên đã dẫn hai đứa trẻ ra khỏi miền Lorne Lodge. Tới tháng 1 năm 1878, Kipling được nhận vào trường United Services College (Đại Học Tổng Hợp Công Tác) tại Westward Ho!, Devon, đây là một ngôi trường mới được thành lập vài năm về trước để chuẩn bị cho các thiếu niên bước vào nghề quân sự.
Đầu tiên lối sống tại ngôi trường này khá cực nhọc nhưng rồi Kipling đã có vài người bạn thân và nơi đây là khung cảnh để ông viết ra các truyện dành cho con trai có tên là Stalky & Co., xuất bản nhiều năm về sau. Trong thời gian này, Kipling đã gặp rồi say mê cô Florence Garrad, một cô bạn gái của Trix, cùng cư ngụ tại Southsea, nơi mà Trix đã trở lại. Cô Florence này là nhân vật Maisie mà Kipling mô tả trong cuốn tiểu thuyết đầu tiên có tên là “The Light that failed” (Ánh Sáng không còn, 1891).
Vào cuối thời kỳ theo học bán quân sự, Kipling đã thiếu điểm văn hóa để được nhận học bổng của trường Đại Học Oxford và do cha mẹ cũng không có đủ tiền để trợ cấp học hành cho con, vì vậy ông Lockwood Kipling đã xin cho con trai một việc làm tại Lahore (bây giờ thuộc nước Pakistan), tại nơi này, ông Lockwood là Viện Trưởng của trường Đại Học Nghệ Thuật Mayo (the Mayo College of Art) và cũng là Giám Đốc Quản Thủ Viện Bảo Tàng Lahore.
Tại Lahore, Kipling là phụ tá chủ nhiệm của một tờ báo địa phương nhỏ có tên là “Báo Dân Sự và Quân Đội” (the Civil & Military Gazette). Tới ngày 20/9/1882, Kipling xuống tầu đi Bombay rồi tới nơi này vào ngày 18/10/1882.
2/ Các cuộc Du Lịch.
Tờ “Báo Dân Sự và Quân Đội” tại Lahore được Kipling gọi là “người tình đầu tiên của tôi và là tình yêu thực sự nhất” (my first mistress and most true love). Tờ báo này xuất bản 6 ngày một tuần trong suốt năm và chỉ đóng cửa 2 ngày vào Lễ Giáng Sinh và Lễ Phục Sinh. Kipling làm việc rất bận rộn với viên chủ nhiệm Stephen Wheeler nhưng dù thế, nhu cầu bài viết rất nhiều. Vào năm 1886, Kipling cho phổ biến tập thơ đầu tiên có tên là Departmental Ditties (các bài thơ ca ngắn cục bộ). Cũng vào năm này, tờ báo kể trên có viên chủ nhiệm mới là ông Kay Robinson, ông này đã cho phép Kipling làm việc tự do hơn và Kipling được mời đóng góp bằng các truyện ngắn cho tờ báo.
Trước kia vào năm 1883, Kipling đã thăm viếng Simla (bây giờ là Shimla), là thủ đô Mùa Hè của Đế Quốc Anh tại Ấn Độ. Đây là trung tâm quyền lực và tiêu khiển với vị Phó Vương Ấn Độ, và chính quyền cũng di chuyển về đây trong 6 tháng. Tại Simla, ông Locwook được mời vẽ một bức tranh fresco cho nhà thờ Chúa Kitô; từ năm 1885 tới năm 1888, Kipling thường thăm viếng nơi này và đã dùng địa điểm này để viết ra 39 truyện ngăn cho tờ báo Gazette từ tháng 11 năm 1886 tới tháng 6 năm 1887. Tập truyện “Plain Tales from the Hills” (Các Truyện bình thường từ các Ngọn Đồi) được Kipling cho phổ biến tại Calcutta vào tháng 1 năm 1888, một tháng sau ngày sinh nhật thứ 22 của tác giả.
Qua tháng 11 năm 1887, Kipling được đổi sang làm việc cho tờ báo lớn hơn tên là The Pioneer (Người Tiên Phong) tại thành phố Allahabad nhưng tác giả Kipling vẫn viết văn với tốc độ thực nhanh, nhờ vậy qua năm sau Kipling đã cho xuất bản 6 tuyển tập truyện ngắn, đó là các truyện Soldiers Three (Lính 3 Người), The Story of the Gadsbys (Truyện của Gadsbys), In the Black and White (Trong Màu Đen và Trắng), Under the Deodars, The Phantom Rickshaw (Con Ma Rickshaw) và Wee Willie Winkie, tất cả gồm 41 truyện với vài truyện khá dài.
Ngoài ra Kipling còn làm phóng viên đặc biệt cho tờ báo The Pioneer tại miền phía tây của Raiputana, nơi đây ông đã viết ra nhiều tập phác thảo để về sau gom lại thành tập “Letters of Marque” (Các Bức Thư của Marque) rồi được phổ biến trong cuốn truyện “From Sea to Sea” (Từ Biển tới Biển) và “Letters of Travel” (Các Bức Thư Du Lịch).
Vào đầu năm 1889, Kipling bán bản quyền của 6 bộ truyện để lấy 200 bảng Anh và bán truyện “Plain Tales” (Các Truyện Bình Thường) lấy 50 bảng, rồi tờ báo The Pioneer trả lương 6 tháng cho Kipling, dùng số tiền gom lại này, Kipling di chuyển về London bởi vì nơi đây là trung tâm văn chương của Đế Quốc Anh.
Vào ngày 9 tháng 3 năm 1889, Kipling rời khỏi xứ Ấn Độ, đi du lịch qua Rangoon, Singapore, Hong Kong, Nhật Bản rồi tới San Francisco. Trong khi đi đường, Kipling vẫn viết các bài cho tờ báo The Pioneer, tất cả được gom lại trong tuyển tập “Letters of Travel” (Các Bức Thư Du Ngoạn). Tại Hoa Kỳ, Kipling đã thăm viếng rất nhiều nơi, đã gặp nhà văn Mark Twain tại Elmira, New York. Kipling vượt qua Đại Tây Dương, tới Liverpool vào tháng 10 năm 1889.
Trong 2 năm kế tiếp, Kipling cho phổ biến cuốn tiểu thuyết “The Light that Failed” (Ánh Sáng không còn), đã gặp một nhà văn và cũng là nhà xuất bản tên là Wolcott Balestier, với ông này Kipling cộng tác trong cuốn tiểu thuyết “The Naulakha”.
Qua năm 1891, Kipling đã dùng đường biển đi du lịch qua các xứ Nam Phi, Úc, Tân Tây Lan và Ấn Độ rồi ông hưởng Lễ Giáng Sinh với gia đình tại Ấn Độ. Khi nghe tin ông Balestier đột ngột qua đời vì bị bệnh sốt thương hàn, Kipling bèn trở về London nhưng trước khi đi, ông đã dùng điện tín để cầu hôn với cô em gái của ông Balestier, tên là Caroline (Carrie), đây là người thiếu nữ mà ông đã gặp 1 năm trước. Trong khi đó vào cuối năm 1891, Kipling cho xuất bản tại London truyện ngắn viết về người Anh tại Ấn Độ “Life’s Handicap” (Khuyết Tật của Đời Sống).
Vào ngày 18/1/1892, cô Carrie Baristier (29 tuổi) và Rudyard Kipling (26 tuổi) đã thành hôn tại London, trong nhà thờ All Souls Church, Langhan Place, với Henry James là người dẫn cô dâu. Tân lang và tân giai nhân đã trải qua thời kỳ trăng mật tại Vermont, Hoa Kỳ, rồi Nhật Bản. Trong khi đang ở Yokohama, Nhật Bản, Kipling được tin ngân hàng của họ là The New Banking Corporation đã bị thất bại, vì vậy ông bà Kiping đã phải trở lại Hoa Kỳ và trong thời gian này, bà Carrie mang bầu đứa con đầu lòng, họ thuê một căn nhà nhỏ tên là Bliss Cottage, gần Brattleboro với tiền thuê một tháng là 10 đô la.
3/ Viết ra các tác phẩm danh tiếng.
Chính tại căn nhà Bliss Cottage, đứa con gái đầu lòng Josephine ra chào đời vào ngày 29/12/1892 trong khi bên ngoài có 3 feet tuyết rơi. Cũng chính trong căn nhà nhỏ này, Kipling bắt đầu viết cuốn “The Jungle Book” (Sách Rừng Xanh).
Bé Josephine ra đời đã làm cho căn nhà nhỏ Bliss Cottage trở nên chật hẹp, vì vậy Kipling đã mua lại của người anh vợ 10 mẫu đất nhìn xuống giòng sông Connecticut và xây cất tại nơi đây một căn nhà mà ông đặt tên là Naulakha, đây là tên của một sợi dây chuyền trong truyền thuyết của một bà hoàng hậu Ấn Độ. Căn nhà một mái này ngày nay còn tồn tại trên Đường Kipling.
Trong cuộc sống ẩn dật tại Vermont, cùng với sức khỏe tốt, Kipling đã viết ra, ngoài cuốn truyện “The Jungle Book”, còn có tuyển tập các truyện ngắn “The Day’s Work” (Công Việc trong Ngày), cuốn tiểu thuyết “Captain Courageous” (Thuyền Trưởng Can Đảm) và rất nhiều bài thơ, gồm cả tập thơ “The Seven Seas” (Bẩy Đại Dương). Tuyển tập thơ “Barrack-Room Ballads” được xuất bản vào tháng 3 năm 1892 trong đó có hai bài thơ nổi tiếng là “Mandalay” và “Gunga Ding”.
Trong thời gian sinh sống tại căn nhà Naulakha, Kipling đã gặp lại cha là ông Lockwood khi ông về hưu năm 1898, gặp Arthur Conan Doyle và nhà văn này đã dạy cho Kipling cách đánh golf. Nhưng Kipling ưa thích nhất là phong cảnh tuyệt vời của miền Vermont khi là vàng rực rỡ lúc mùa Thu sang. Vào tháng 2 năm 1896, đứa con gái thứ hai tên là Elsie ra đời nhưng gia đình của Kipling đã gặp cảnh bất hòa.
Vào khoảng năm 1890, nước Anh và xứ Venezuela đã tranh chấp nhau vì miền Guiana thuộc Anh, rồi sau đó, vị Bộ Trưởng Ngoại Giao Hoa Kỳ lại can thiệp vào vụ xung đột khiến cho hai nước Anh và Mỹ chuẩn bị chiến tranh. Cuộc khủng hoảng này khiến cho Kipling bị ngỡ ngàng trước các tình cảm chống Anh tại Hoa Kỳ.
Về gia đình bên vợ, người anh Beatty bất hòa với em gái là Carrie. Tới tháng 5/1896, ông Beatty này say rượu, đã gặp Kipling ở ngoài đường phố và muốn hành hung người em rể, nên bị bắt. Tới tháng 7/1896, một tuần lễ trước khi vụ xử tiếp tục thì gia đình Kipling đã đóng hành lý, từ bỏ căn nhà Naulakha, Vermont, rồi vĩnh viễn rời Hoa Kỳ.
Trở lại nước Anh vào tháng 9 năm 1896, gia đình Kipling cư ngụ tại Torquay trên bờ biển Devon, một nơi sườn đồi nhìn ra biển. Kipling bây giờ đã là một nhân vật danh tiếng, thường viết các bài báo mang tính cách chính trị. Hai bài thơ “Recessional” (Bài thơ cuối lễ, 1897) và “The White Man’s Burden” (Gánh Nặng của người Da Trắng, 1899) đã tạo nên cuộc tranh cãi khi phổ biến. Vài người cho rằng các bài thơ này có tính cách tuyên truyền cho chế độ đế quốc và các thái độ kỳ thị chủng tộc.
Trong thời gian sinh sống tại Torquay, Kipling đã viết cuốn truyện “Stalky & Co.”, đây là tuyển tập các truyện về trường học gồm các kinh nghiệm của tác giả tại trường The United Services College ở Westward Ho! Theo gia đình tác giả kể lại sau này, Kipling thường đọc lại vài mẩu truyện rồi cười lớn về cách pha trò của mình.
Vào đầu năm 1898, Kipling và gia đình thường đi du lịch qua xứ Nam Phi (South Africa), đây là thói quen đi chơi vào mùa đông kéo dài tới năm 1908. Với danh tiếng là nhà thơ của Đế Quốc (the poet of empire), Kipling được tiếp đón bởi các chính trị gia mạnh thế nhất tại Cape Colony, gồm có Cecil Rhodes, Sir Alfred Milner và Leander Starr Jameson. Ngược lại, Kipling cũng rất khâm phục 3 vị này với đường lối chính trị của họ.
Thời kỳ 1898 – 1910 là giai đoạn lịch sử của xứ Nam Phi, kể cả cuộc chiến tranh Boer thứ hai (the Second Boer War, 1899-1902), tiếp theo là hiệp ước hòa bình và việc thành lập xứ Đoàn Kết Nam Phi (the Union of South Africa) vào năm 1910.
Trở lại nước Anh, Kipling viết ra các bài thơ ủng hộ lý do của nước Anh trong cuộc chiến tranh Boer rồi một cuộc viếng thăm Nam Phi vào đầu năm 1900 đã khiến cho Kipling bắt đầu làm tờ báo “The Friend” (Bạn Hữu) dành cho quân đội Anh tại Bloemfontein, một thủ đô mới chiếm được của xứ Orange Free State.
Kipling bắt đầu thu gom tài liệu để viết ra một truyện trẻ em cổ điển có tên là “Just So Stories for Little Children” (Các Truyện dành cho Trẻ Em nhỏ), tác phẩm này được phổ biến vào năm 1902, rồi tới cuốn truyện dài “Kim”.
Trong chuyến viếng thăm Hoa Kỳ vào năm 1899, Kipling và người con gái lớn Josephine đã bị sưng phổi rồi sau đó, Josephine đã qua đời.
Về phạm vi không giả tưởng, Kipling liên quan tới cuộc tranh luận về cách nước Anh đối phó với sự tiến triển của lực lượng Hải Quân Đức. Loạt bài viết này được ông cho phổ biến vào năm 1898 bằng cuốn sách A Fleet in Being (Hạm Đội đang hình thành).
Vào thập niên thứ nhất của Thế Kỷ 20, Kipling ở đỉnh cao của danh vọng khi ông được trao Giải Thưởng Nobel Văn Chương vào năm 1907. Ủy Ban Nobel đã dẫn chứng về tác giả như sau: “Cứu xét về năng lực quan sát, nguồn gốc của trí tưởng tượng, sức mạnh của các ý tưởng và tài năng đáng kể về kể chuyện, và đây là đặc tính sáng tạo của tác giả danh tiếng này trên thế giới” (in consideration of the power of observation, originality of imagination, virility of ideas and remarkable talent for narration which characterize the creations of this world-famous author).
Các Giải Thưởng Nobel được thành lập vào năm 1901 và Joseph Rudyard Kipling là tác giả người Anh đầu tiên được nhận lãnh danh dự này. Vào Buổi Lễ Phát Giải tại thành phố Stockholm ngày 10/12/1907, ông Tổng Thư Ký của Hàn Lâm Viện Thụy Điển đã ca ngợi Tác Giả Rudyard Kipling cùng với 3 thế kỷ của nền Văn Chương Anh Quốc.
Vào năm 1910, Kipling cho xuất bản tập thơ Rewards and Fairies (Các Phần Thưởng và các Nàng Tiên) trong dó có bài thơ “If – ” (Nếu – ). Bài thơ này được coi là nổi tiếng nhất của tác giả.
Trong Thế Chiến Thứ Nhất, Kipling đã gặp thảm cảnh là đứa con trai duy nhất của ông tên là John đã bị tử trận vào năm 1915 trong Trận Loos (the Battle of Loos). Do thảm cảnh này, Kipling đã tham gia với Sir Fabian Ware vào Ủy Ban của Các Ngôi Mộ Chiến Tranh của Đế Quốc Anh (the Imperial War Graves Commission), bây giờ được đổi tên thành “Ủy Ban của các Ngôi Mộ Chiến Tranh của Khối Thịnh Vượng Chung” (the Commonwealth War Graves Commission).
Vào năm 1922, Kipling đã dùng các bài viết và các bài thơ phú để nói về các công trình của các kỹ sư của trường Đại Học Toronto, Canada, rồi ông trở nên Viện Trưởng của Đại Học Saint Andrew (Lord Rector of St. Andrew University) tại Tô Cách Lan (Scotland), một chức vụ tới năm 1925.
Rudyard Kipling qua đời vì bị ung thư cuống bao tử (duodenal ulcer) vào ngày 18/1/1936, thọ 70 tuổi. Cốt tro của Kipling được chôn tại Góc của các Nhà Thơ (the Poets’ Corner) trong Tu Viện Wesminster Abbey, tại nơi này nhiều Văn Nhân danh tiếng của nước Anh được an nghỉ và tưởng niệm.
4/ Ảnh Hưởng của Nhà Văn Kipling.
Các bài viết và các bài thơ của Rudyard Kipling thường diễn tả các quan điểm xã hội và chính trị của tác giả và nhiều người đã chỉ trích các quan điểm này là kỳ thị chủng tộc (racist), chẳng hạn trong Tập Thơ Recessional (Bài thơ cuối lễ), các người dân thuộc địa bị coi là “nửa ác quỷ và nửa trẻ con” (half-devil and half-child). Các bài viết của Kipling trước Thế Chiến Thứ Nhất bị coi là mang giọng điệu “đế quốc” (imperialist tone). Các truyện và thơ của Kipling, ngoại trừ các truyện trẻ em, đã bị cấm đoán tại nước Ấn Độ, ngoài công việc dùng để tìm hiểu chủ nghĩa đế quốc (imperialism).
Về một phương diện khác, ông Baden-Powell, người sáng lập ra Hướng Đạo Quốc Tế (Scouting) đã dùng nhiều đề tài trong cuốn truyện “Sách Rừng Xanh” (The Jungle Book) và truyện “Kim” của Kipling để thiết lập các sói con (the wolf cubs). Ngoài ra, cuốn “Sách Rừng Xanh” còn được chuyển thành nhiều bộ phim ảnh đầu tiên bởi nhà sản xuất Alexander Korda, rồi về sau do Công Ty Walt Disney.
5/ Bài Thơ If- , Bản Tiếng Anh.
If…
If you can keep your head when all about you
Are losing theirs and blaming it on you,
If you can trust yourself when all men doubt you,
But make allowance for their doubting too;
If you can wait and not be tired by waiting,
Or being lied about, don’t deal in lies,
Or being hated, don’t give way to hating,
And yet don’t look too good, nor talk too wise:
If you can dream—and not make dreams your master;
If you can think—and not make thoughts your aim;
If you can meet with Triumph and Disaster
And treat those two impostors just the same;
If you can bear to hear the truth you’ve spoken
Twisted by knaves to make a trap for fools,
Or watch the things you gave your life to, broken,
And stoop and build ’em up with worn-out tools:
If you can make one heap of all your winnings
And risk it on one turn of pitch-and-toss,
And lose, and start again at your beginnings
And never breathe a word about your loss;
If you can force your heart and nerve and sinew
To serve your turn long after they are gone,
And so hold on when there is nothing in you
Except the Will which says to them: ‘Hold on!’
If you can talk with crowds and keep your virtue,
Or walk with Kings—nor lose the common touch,
If neither foes nor loving friends can hurt you,
If all men count with you, but none too much;
If you can fill the unforgiving minute
With sixty seconds’ worth of distance run,
Yours is the Earth and everything that’s in it,
And—which is more—you’ll be a Man, my son!
RUDYARD KIPLING (1865 -1936)
6/ Bài Thơ “Nếu…”, Thơ Chuyển Ngữ của Nhà Thơ Tâm Minh Ngô Tằng Giao.
Nếu…
Nếu con tự tại an nhiên
Khi người chao đảo và phiền trách con;
Nếu con tin tưởng mình luôn
Mặc người nghi kỵ không buồn tin con;
Nếu con quyết chí chờ trông,
Hay người gian dối, mình không theo người,
Ai sân hận, mình thảnh thơi,
Không khoe bản ngã, không lời tự kiêu;
Nếu con mơ ước đủ điều
Không sùng bái mộng, sớm chiều buông lơi;
Nếu con suy nghĩ chuyện đời
Không dùng, lại bỏ ra ngoài mục tiêu;
Nếu con đối xử hai điều
Thành Công, Hoạn Nạn đồng đều như nhau;
Nếu con nhẫn nhục trước sau
Nghe chân lý vốn từ lâu đẹp lời
Nay phường gian xảo dong chơi
Cố tình xuyên tạc bẫy người vô minh;
Hay con nhìn sự nghiệp mình
Cả đời xây dựng, tan tành phút giây,
Và con quyết tạo lại ngay
Dù không phương tiện, trắng tay, tiêu điều;
Nếu thâu góp của rất nhiều
Đỏ đen nướng hết khi liều ăn thua
Rồi con khởi nghiệp như xưa
Không than tài sản mình vừa tiêu tan;
Nếu con tâm trí lỡ làng
Sức tàn, lực kiệt chẳng màng làm chi,
Rồi vươn lên tiếp bước đi
Giữ nguyên Ý Chí kiên trì: “Quyết tâm!”
Nếu con đạo hạnh vẹn phần,
Không phân Vua hoặc thường dân cận kề;
Nếu thù hay bạn đôi bề
Khó làm con bị não nề tổn thương,
Nếu người tính toán đủ đường
Nhưng con vẫn thấy tầm thường đáng chi;
Nếu từng phút lãng trôi đi
Con đều tận dụng không hề bỏ qua;
Thì con ơi, cõi Ta Bà
Cùng muôn sự vật: con là chủ nhân
Và hơn nữa quý bội phần
Con sẽ là kẻ Thành Nhân con à!
Tâm Minh NGÔ TẰNG GIAO (chuyển ngữ)
Phạm Văn Tuấn biên khảo./.
Khi Tiếng Mỹ Được “Chêm” Vào Tiếng Việt
Đàm Trung Pháp
MỘT ĐIỀU KHÓ TRÁNH
Sau bốn thập kỷ tỵ nạn tại Mỹ, nhiều người Việt chúng ta sử dụng tiếng Mỹ thành thạo trong đời sống hàng ngày cũng như trong công ăn việc làm. Cũng vì vậy mà khi nói tiếng Việt với nhau tại quê hương mới này, chúng ta có khuynh hướng “chêm” khá nhiều tiếng Mỹ vào ngôn ngữ mẹ đẻ của mình. Trong các câu chuyện xã giao, trong báo chí, và ngay cả trong văn chương nữa, sự giao thoa giữa hai ngôn ngữ Việt và Mỹ là một hiện tượng tự nhiên và khó tránh.
Đàm Trung Pháp
Giới thiệu “Việt Nam Văn Học Sử Lược Khảo”
Nguyễn Văn Thành
Ở nước Việt Nam xưa, trước khi có văn chương bác học (loại văn thơ bằng văn tự, có niêm luật hẳn hoi), thì đã có một nền văn chương bình dân, bất thành văn, gọi là văn chương truyền khẩu. Loại văn chương này thể hiện qua Ca dao, Tục ngữ đã lưu truyền trong dân gian từ rất lâu.
Ca dao hay còn gọi là phong dao, là những bài hát ngắn, không có chương khúc, thường mô tả tính tình, phong tục của lớp người bình dân.
Ca dao cũng như Tục ngữ, thường không rõ tác giả là ai. Tôi cho rằng, tác giả không ai khác hơn là các Nhà Nho sống ẩn dật nơi thôn dã, hoặc là các vị quan trong triều cáo lui, xin về trí sĩ nơi vùng quê, sau lũy tre xanh, tức cảnh sinh tình mà sáng tác ra. Có người gọi là “Văn chương sau lũy tre xanh”.
Ngay từ thuở nhỏ, tôi đã mê câu ca dao:
Hỡi cô tát nước bên đàng
Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi
Hình ảnh cô thôn nữ tát nước đêm trăng mà được mô tả đẹp đẽ, mượt mà như vậy, thiết tưởng văn chương bác học đã chắc gì hay hơn được!
Tục ngữ còn gọi là ngạn ngữ hay phương ngôn (do tính cách địa phương), là những câu nói cô đọng, gọn ghẽ và có ý nghĩa, cũng được lưu hành từ ngàn xưa bằng truyền khẩu như:
Có cứng mới đứng đầu gió!
Hay:
Có thực mới vực được đạo!
Hoặc:
Tốt danh hơn lành áo!
Ca dao, Tục ngữ Việt Nam có thể sánh ngang với Kinh Thi của Trung Hoa! Chỉ khác là Kinh Thi đã được Khổng Tử chọn lọc và san định lại, để trở thành một thứ sách giáo khoa, một trong ngũ kinh (Kinh Thi, Kinh Lễ, Kinh Thư, Kinh Dịch và Kinh Xuân Thu) cho Nho sinh học.
Học giả Dương Quảng Hàm, tác giả Việt Nam Văn Học Sử Yếu (VNVHSY) khẳng định: Tục ngữ, Ca dao Việt Nam là mọi nguồn cảm hứng cho thi văn VN sau này. Do đó khi viết VNVHSY, tác giả đã để ngay lên phần đầu (phần I) của cuốn sách.
Do bị ảnh hưởng của Dương Quảng Hàm từ hồi còn Trung học, nên khi vừa đọc cuốn Việt Nam Văn Học Sử Lược Khảo (VNVHSLK) của Hải Bằng-Hoàng Dân Bình, tôi vội gọi điện thoại hỏi anh Bình thì được tác giả cho biết: muốn để phần Ca dao, Tục ngữ ở phần II của cuốn sách! Được thôi, tôi tôn trọng ý muốn của tác giả.
Đọc xong VNVHSLK của Hải Bằng, tôi có cảm tưởng như vừa đọc xong hai cuốn sách: Một Văn Học Sử VN và một cuốn Lịch Sử VN cổ đại và cận đại
Như tác giả nói ở trang đầu cuốn sách, ông đã làm một công trình biên khảo công phu, để liên kết nội dung các tác phẩm tiêu biểu trong văn học cổ điển VN, với dòng lịch sử trải dài từ thế kỷ thứ 10 tới thời cận đại, tức là thời kỳ độc lập của nước ta (Ngô Quyền 898-967) cho đến ngày nay.
Nhân vật mở đầu cho cuốn VNVHSLK của Hải Bằng là Chu Văn An (1292-1370) với Thất Trảm sớ, tuy không được Vua nghe theo nhưng ảnh hưởng của nó rất lớn vào thời ấy. Nhà sử học Lê Tung trong cuốn Việt Nam Thông Khảo Tổng Luận đã khen Thất Trảm sớ của CVA như sau: “Thất Trảm chi sớ, nghĩa động càn khôn…”
Về phương diện sử học, Hải Bằng đã chọn cách viết theo lối “Sử Ký” của Tư Mã Thiên, chứ không theo lối Sử Biên Niên của Ban Cố. Tác giả đã khéo léo lồng vào phần Sử Ký những câu chuyện thần kỳ có tính cách Huyền Sử, làm cho người đọc cảm thấy thích thú. Chẳng hạn như ở Chu Văn An, có câu chuyện “Thuồng luồng cầu mưa”; Ở Nguyễn Trãi có câu chuyện “Thị Lộ”, gọi là “Vụ án Lệ Chi viên”; Thời nhà Lê có chuyện “Thần Cá Quả” v.v.
Phần viết về Trường Bưởi-CVA sau này, cũng như phần viết về Nostradamus, tôi đã đề nghị dời qua phần Phụ Lục, để cho phần Văn Học Sử được liên tục, tác giả đã đồng ý.
Nguyễn Trãi có hai “công cuộc” đóng góp cho đất nước, đều xuất sắc cả, đó là Chính Trị và Văn Hóa.
Về Chính Trị, có thể nói mà không ngoa, ông là Kiến trúc sư, tạo dựng nên nhà Hậu Lê: Ông đã giúp cho Lê Lợi hoàn thành công cuộc kháng chiến trường kỳ (10 năm) và đi đến thắng lợi cuối cùng.
Ông cũng là một nhà Văn Hóa vĩ đại, vô tiền khoáng hậu của VN. Cơ quan Văn Hóa, Khoa Học và Giáo Dục của Liên Hiệp Quốc đã xếp ông vào danh sách “Danh Nhân Văn Hóa Thế Giới”.
“Bình Ngô Đại Cáo” của Nguyễn Trãi có thể gọi là Bản Tuyên Ngôn Độc Lập số 2, sau bài thơ của Lý Thường Kiệt:
Nam Quốc Sơn Hà Nam Đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư…
Ngay từ hồi còn trẻ, tôi đã bị những câu văn trong Bình Ngô Đại Cáo thu hút:
Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
Lấy chí nhân mà thay cường đạo!
Đây chẳng khác nào Kim Chỉ Nam Chính Trị cho mọi thời đại.
Nhà Hậu Lê cũng tự sản sinh được một Nhà Văn Hóa lớn, đó là Vua Lê Thánh Tôn (1442-1497), một ông vua tài giỏi và hiền đức, lại trị vì lâu nhất nhà Hậu Lê (1460-1497). Dưới thời Lê Thánh Tôn đã cho ban hành một bộ luật rất nổi tiếng, đó là Bộ Luật Hồng Đức, hay còn gọi là Quốc Triều Hình Luật. Tuy chịu ảnh hưởng của luật Nhà Minh bên Trung Hoa nhưng là một bộ luật rất tiến bộ, văn minh hơn hẳn bộ luật nhà Mãn Thanh sau này! Bộ luật của Nhà Mãn Thanh gọi là Đại Thanh Luật Lệ, chỉ thiên về hình phạt roi, trượng, có tính cách nhục hình (như thời Trung cổ ở Châu Âu). Đại Thanh Luật Lệ lại ảnh hưởng đến Bộ Luật Nhà Nguyễn gọi là Hoàng Việt Luật Lệ. Như vậy ta có thể coi đây là bước thụt lùi về phương diện luật pháp của VN.
Tác giả VNVHSLK-Hải Bằng đã làm một việc nghiên cứu tường tận về Luật Hồng Đức. Ông nhận thấy ở đấy cả tinh thần thượng tôn luật pháp qua chỉ dụ của Vua Lê Thánh Tôn: “Luật Pháp là Công Pháp của Quốc Gia, ta cùng các ngươi đều phải tuân theo!”. Qua đó, ta thấy tinh thần Pháp trị cũng đã được thể hiện.
Ngoài việc khảo cứu Luật Hồng Đức, tác giả VNVHSLK còn quan tâm tới các vấn đề khác như Kinh tế, Chính trị và Xã hội dưới Triều Đại Hậu Lê nữa. Điều này cũng hợp lý vì tác giả Hải Bằng vốn xuất thân từ Trường Luật Sài Gòn trước kia.
Vua Lê Thánh Tôn còn là một Nhà Văn Hóa nữa, nên dưới thời ông, thơ văn được phát triển rất rực rỡ. Vua lập ra một Hội Tao Đàn và xưng mình là Tao Đàn Nguyên Soái, để khuyến khích mọi người cùng phát huy văn học. Thơ của Lê Thánh Tôn khá xuất sắc, lại rất có khẩu khí của bậc đế vương.
Nhà văn lớn thứ tư mà tác giả VNVHSLK-Hải Bằng đề cập đó là Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585), một người nổi tiếng uyên bác và tính tình kín đáo.
Khi đọc VNVHSLK của Hải Bằng, chúng ta sẽ biết rõ hơn về Nguyễn Bỉnh Khiêm, một học giả uyên thâm cả về Đạo Phật lẫn Đạo Lão cũng như về phương diện Lý số. Những bài thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm chứa nhiều ẩn dụ khiến người đời sau gọi là “Sấm Trạng Trình”.
Ngoài ra, tác giả lần lượt giới thiệu cho chúng ta về nhiều danh nhân khác trong lãnh vực văn học, như: Nguyễn Kiều, Đoàn Thị Điểm, Đặng Trần Côn, Lê Quý Đôn, Hồ Xuân Hương, bà Huyện Thanh Quan, và Nguyễn Công Trứ v.v…
Hải Bằng có kể một giai thoại về bà Đoàn Thị Điểm, tác giả câu đối: “Da trắng vỗ bì bạch”, mà ngay đến Trạng Quỳnh cũng không đối được. Mãi về sau mới có người đưa ra câu đáp: “Rừng mát mưa lâm râm”.
Theo thiển ý, câu đáp này khá chỉnh về chữ và ý, nhưng lại không đối về âm (bằng trắc): Da “trắng” và rừng “mát” là hai âm (trắc) giống nhau chứ không đối. Tôi đề nghị một câu đáp khác: “Rừng sâu mưa lâm thâm”. Chữ “sâu” vần bằng sẽ đối với chữ “trắng” vần trắc. Từ xưa, tôi vẫn nghĩ câu đối “Da trắng vỗ bì bạch” là của Hồ Xuân Hương.
Hồ Xuân Hương là một nữ sĩ độc nhất vô nhị, làm thơ luôn bao hàm hai ý nghĩa: nghĩa đen và nghĩa bóng, khiến cho các dịch giả muốn chuyển thơ của bà ra tiếng nước ngoài rất là khó khăn, có những câu hầu như không dịch nổi, chẳng hạn như:
Vành ra ba góc da còn thiếu,
Khép lại đôi bên thịt vẫn thừa.
(Vịnh Cái quạt)
Hoặc là:
Đôi gò bồng đảo sương còn ngậm,
Một lạch đào nguyên suối chửa thông.
(Thiếu nữ ngủ ngày)
Nói về Nguyễn Công Trứ, tôi còn nhớ một giai thoại vui, xin kể thêm để quý độc giả thưởng lãm: Nguyễn Công Trứ (NCT) như chúng ta đều biết, ông mê hát cô đầu ngay từ hồi còn trai trẻ, chưa thành đạt. Muốn được nghe hát cô đầu, chàng thư sinh NCT phải tình nguyện đi theo sách đồ, dụng cụ riêng (như tráp, cỗ phách …) cho một cô đầu. Một bữa, hai người đi ngang qua một cánh đồng vắng, cùng ngồi nghỉ dưới một tàn cây (ngô đồng). Rồi thì chuyện phải đến đã đến giữa đôi trai gái còn rất trẻ trung này.
Sau này khi NCT thành đạt, làm quan lớn, cho vời một đoàn hát đến tư thất hát cho mình nghe. Trong đoàn có một cô đầu nhận ra Nguyễn Công Trứ là người năm xưa, vẫn theo mình đi hát, nên lúc mở đầu bài hát, cô hát hai câu (miễu đầu) như sau:
Giang sơn một gánh giữa đồng
Thuyền quyên ứ hự anh hùng nhớ chăng?
Trong số những tác phẩm bằng thơ mà tác giả VNVHSLK Hải Bằng đã đề cập như: Chinh Phụ Ngâm, Truyện Kiều, Cung Oán Ngâm Khúc …, tôi đặc biệt yêu thích Truyện Kiều (TK) hơn cả, vì TK có thể coi là một áng văn thơ toàn bích nhất về phương diện văn chương.
Chính Hải Bằng tác giả VNVHSLK cũng cho rằng Nguyễn Du là một nhà ảo thuật tài ba về cách vận dụng ngôn ngữ trong TK.
Xưa kia, Dương Quảng Hàm trong Việt Nam Văn Học Sử Yếu (VNVHSY) đã khen Nguyễn Du là bậc thầy về việc sử dụng Điển cố trong TK. Tôi hoàn toàn đồng ý với cả hai vị .
Một ví dụ về cách dùng “Điển” của Nguyễn Du:
Sông Tương một giải nông sờ
Bên trông đầu nọ bên chờ cuối kia
Nguyễn Du chỉ cần hai chữ “Sông Tương” trong Tình Sử:
Quân tại Tương Giang đầu
Thiếp tại Tương Giang vĩ
Tương tư bất tương kiến
Đồng ẩm Tương Giang thủy
Hai chữ “Sông Tương” dùng trong TK của Nguyễn Du rất tự nhiên, tan biến trong thơ ông, khiến người đọc không nghĩ nó xuất phát từ một Điển cố. Sử dụng Điển cố mà như vậy thì thật là “tuyệt diệu hảo từ”!
Văn chương thì như vậy, còn vấn đề Triết lý trong TK thì sao?
Hải Bằng, tác giả VNVHSLK đã viện dẫn khá đầy đủ các triết thuyết trong TK như: Thuyết Tài Mệnh Tương Đố của nhà Nho; thuyết Nhân Quả, Nghiệp Báo của nhà Phật; Rồi chữ TÂM làm nền tảng đạo lý cho Truyện Kiều.
Tôi cũng đã đọc khá nhiều các tác giả nói về TK, nhưng chưa thấy ai đề cập Thuyết Vô Vi của Đạo Lão cả. Theo thiển ý thì thuyết Vô Vi từng hiện diện trong TK qua nhân vật Thúy Vân.
Xin tóm tắt một cách đơn giản về Thuyết Vô Vi: Không làm thì không có hậu quả, không yêu thì không thất tình, không tranh thắng thì không bị bại…
Con người, sở dĩ phải khổ sở, lo nghĩ là vì phải hành động (hữu vi). Nguồn gốc của hành động là Dục tình, nếu dứt hết được dục tình thì không phải lo nghĩ, khổ sở. Muốn cho lòng được thư thái, thân được an nhàn thì không hành động (vô vi). Trong dân gian kẻ gần Đạo nhất là những đứa hài nhi; Người có nhiều Đức cũng hồn nhiên như trẻ thơ vậy.
Như đã nói ở trên, Thúy Vân là con người luôn luôn có tâm hồn vô tư và hồn nhiên trong mọi hoàn cảnh.
Thúy Vân cũng xấp xỉ tuổi tác của Thúy Kiều, nhưng Thúy Kiều thì tiêu biểu cho con người “hữu vi”, gặp hoàn cảnh nào cũng động lòng trắc ẩn. Dọc đường, khi gặp mộ của Đạm Tiên, là một nấm mồ vô chủ, không ai nhang khói; Thúy Kiều liền lên tiếng hỏi:
Rằng sao trong tiết thanh minh
Mà sao hương khói vắng tanh thế mà…
Và sau khi nghe Vương Quan kể lể:
Đạm Tiên nàng ấy vốn là ca nhi
Nổi danh tài sắc một thì
Xốn xao ngoài ngõ thiếu gì yến anh …
Nhưng rồi khi nghe Vương Quan kêt luận:
Sống làm vợ khắp người ta
Hại thay thác xuống làm ma không chồng …
Đến đây thì Thúy Kiều đã không nén khỏi nỗi thương cảm:
Thoạt nghe Kiều đã đầm đầm châu sa …
Trong khi đó Thúy Vân vẫn tỉnh bơ như không có chuyện gì xảy ra, còn quay ra trách chị mình:
Vân rằng chị cũng nực cười,
Khéo dư nước mắt khóc người đời xưa…
Điều này chứng tỏ Thúy Vân tiêu biểu cho con người “vô vi”, hồn nhiên, vô cảm trước mọi hoàn cảnh.
Kế đến, ba chị em gặp Kim Trọng, một chàng thư sinh đẹp trai, con nhà giầu, còn là chỗ đồng thân với Vương Quan (học cùng trường). Kim Trọng tiến lại chào hỏi, hai Kiều thì:
Hai Kiều e lệ nép vào dưới hoa
Đến đây, tôi xin mở một dấu ngoặc để nói về cách tả chân của Nguyễn Du: tả người con gái đẹp đã đành, nhưng khi tả người con trai đẹp cũng tuyệt diệu làm sao:
Hài văn lần bước dặm xanh,
Một vùng như thể cây quỳnh, cành dao …
Cái đẹp (trai) của Kim Trọng còn lây lan ra cả một vùng quanh chàng, bảo sao mà những người con gái như Thúy Kiều, Thúy Vân không thích cho được! Ấy vậy mà chỉ có Thúy Kiều bị Kim Trọng “hớp” mất hồn:
Người quốc sắc kẻ thiên tài,
Tình trong như đã, mặt ngoài còn e …
Rồi sau khi chia tay, về nhà, cũng chỉ có Thúy Kiều là:
Người đâu gặp gỡ làm chi
Trăm năm biết có duyên gì hay không …
Không nghe nói Thúy Vân có “suy nghĩ” gì sau khi gặp Kim Trọng.
Đến khi gia đình Kiều gặp nạn, do thằng bán tơ vu oan, giá họa cho khiến hai cha con Vương ông và Vương Quan đều bị đóng gông và bị trói chung lại với nhau, bọn sai nha nhân cớ này hành hạ và đánh đập hai cha con rất tàn nhẫn để khảo của:
Lạ gì là thói sai nha,
Làm cho khốc hại chẳng qua vì tiền …
Phải có tiền nhiều mới dàn xếp nổi vụ này, do đó Thúy Kiều, vì là chị lớn trong nhà, phải đi đến một quyết định quan trọng làm đảo lộn hết cuộc sống trong gia đình Kiều nói chung và cuộc đời của nàng Kiều nói riêng: nàng phải bán mình cứu lấy cha và em thoát vòng lao lý! Trong giờ phút nghiêm trọng ấy, Kiều phải cân nhắc giữa hai bên: Tình (với Kim Trọng) và Hiếu (với cha):
Duyên hội ngộ, đức cù lao
Bên tình bên hiếu bên nào nặng hơn …
Như chúng ta đã biết, cuối cùng Kiều đã chọn chữ Hiếu.
Việc nhà coi như tạm ổn, lúc đó Kiều mới tự nghĩ đến riêng mình, làm sao trả được mối duyên nợ đã thề bồi. Kiều chong đèn suốt đêm, sụt sùi than khóc. Trong khi đó thì Thúy Vân, sau một giấc ngủ thật ngon (giấc xuân) chợt tỉnh dậy, thấy chị khóc, mới đến bên Thúy Kiều an ủi:
Thúy Vân chợt tỉnh giấc xuân
Dưới đèn ghé đến ân cần hỏi han …
Đọc đến đây ta mới thấy rõ cái tâm tính hồn nhiên, vô tư lự của Thúy Vân, biểu lộ thật rõ nét! Gia đình gặp nạn lớn như vậy mà nàng Vân ta vẫn cứ thản nhiên đánh một giấc ngủ ngon lành (giấc xuân). Như thế không gọi là “vô vi” thì gọi là gì?
Cậy em, em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa …
Trong Truyện Kiều, ta thấy Thúy Vân về sau là vợ của Kim Trọng, sinh con đẻ cái cho chàng, và trở thành một mệnh phụ phu nhân:
Một cây cù mộc, một sân quế hòe …
Và:
Một nhà phúc lộc gồm hai
Nghìn năm dằng dặc quan giai lần lần
Tôi đã mạo muội đưa thuyết “Vô Vi” vào Truyện Kiều, đúng hay sai tùy sự thẩm định của bạn đọc.
Trở lại với cuốn VNVHSLK của Hải Bằng, phải công nhận tác giả đã dày công sưu tầm những công trình văn học của các danh nhân trong lịch sử nước ta, mà biên soạn thành bộ VNVHSLK, là một cuốn sách về văn học rất súc tích, rất đáng để chúng ta tìm đọc và cất giữ trong tủ sách gia đình, dùng làm tài liệu văn học cho các thế hệ mai sau.
Vì thế, tôi xin trân trọng giới thiệu VNVHSLK của tác giả Hải Bằng-Hoàng Dân Bình đến tất cả độc giả bốn phương.
Nguyễn Văn Thành, Cựu Thẩm Phán
Viết xong tại VA ngày 10/07/2016
Ghi chú:
Liên lạc tác giả Việt Nam Văn Học Sử Lược Khảo:
Hải Bằng Hoàng Dân Bình: Email: binhhoang684@yahoo.com; Tel: (480) 330-3371