Trong Đêm Khuya

* Truyện của: VARLAM SHALAMOV
* Chuyển ngữ: Tâm Minh Ngô Tằng Giao

Varlam Shalamov sinh vào khoảng năm 1907 và mất ngày 17 tháng 1 năm 1982. Tác giả thường viết những truyện ngắn mô tả về cuộc sống trong các trại tù. Truyện được bí mật lưu truyền ở Liên Bang Sô Viết và sau đó được phổ biến rộng rãi tại phương Tây. Truyện sau đây được chuyển ngữ từ bản dịch tiếng Anh của John Glad với nhan đề “In The Night”.

dem khuya

Bữa ăn tối vừa xong. Glebov chậm rãi liếm sạch cái chén rồi vét những mẩu bánh vụn trên bàn vào trong lòng bàn tay trái một cách lành nghề. Hắn không nuốt ngay. Hắn ngậm những mẩu bánh nhỏ xíu đó trong miệng lẫn với bao nhiêu nước miếng để rồi cảm nhận bánh một cách thèm thuồng. Glebov cũng chẳng có thể nói là bánh ngon hay không nữa. Vị giác là cái quái gì, đâu đáng được mang ra để mà so sánh với cái khoái cảm của hắn lúc này. Glebov không vội vã nuốt bánh xuống làm chi, để yên đấy, bánh sẽ chầm chậm tan dần trong miệng và lẹ làng biến mất đi mà!

Cặp mắt sâu hoắm của Bagretsov sáng lên và nhìn trừng trừng mãi vào miệng Glebov. Chẳng anh chàng nào có đủ nghị lực quay đầu đi mà không ngó chằm chằm vào miệng bạn mình khi cái miệng đó đang ăn. Glebov nuốt nước miếng xuống và Bagretsov lúc đó mới chịu lập tức quay nhìn ra phía khác, ra phía chân trời nơi mặt trăng vàng lớn đang lừng lững mọc lên.

“Tới giờ rồi!”, Bagretsov nói. Họ chậm rãi đi dọc theo lối mòn dẫn tới một tảng đá lớn và trèo lên khoảng đất trống nhỏ ven đồi. Mặc dù mặt trời vừa mới lặn đây thế mà mấy tảng đá đã lạnh ngắt rồi, chính mấy cái tảng đá này ban ngày nóng bỏng đến cháy cả gót chân trơ trụi của họ đi trong đôi dép cao su. Glebov cài nút áo khoác dày. Đi như vậy mà người cũng chẳng ấm lên được. Hắn hỏi khẽ: “Còn xa nữa không?” “Chút nữa thôi!”, Bagretsov thì thào trả lời. Họ ngồi xuống nghỉ. Họ chẳng có chuyện quái gì để nói hay để suy nghĩ cả. Mọi việc đều đã rõ ràng và đơn giản. Trong một chỗ đất phẳng phiu ở cuối cái bãi trống này là những đống đá mà người ta đã đào từ dưới đất lên để lẫn với rêu đã tróc ra khô queo.

“Tớ làm chuyện này một mình cũng dư sức mà!”, Bagretsov nở một nụ cười nhăn nhúm. “Nhưng hai đứa mình cùng làm thì vui hơn. Hơn nữa tớ lúc nào cũng coi cậu là bồ tèo…” Cả hai anh chàng đồng hội đồng thuyền này cùng được chuyển vào nơi đây mới năm ngoái thôi.

Bagretsov ngừng lại: “Cúi xuống không tụi nó trông thấy chúng mình đấy!”. Họ nằm xuống và bắt đầu liệng những cục đá sang một bên. Chẳng có cục đá nào quá to để đến nỗi phải cần hai người xúm lại khiêng vì những kẻ chất đá sáng nay cũng không khỏe gì hơn Glebov.

Bagretsov khẽ chửi thề. Hắn bị đứt tay và chảy máu. Hắn đắp chút cát vào vết thương, xé một miếng giẻ trên áo khoác và buộc vào chỗ bị thương nhưng máu vẫn cứ rỉ ra. “Máu loãng, khó đông!”, Glebov nói tỉnh khô. “Này! Bồ là bác sỹ đấy à?” Bagretsov hỏi, miệng mút vết thương.

Glebov lặng thinh. Cái thời mà hắn còn làm bác sỹ có vẻ như xa xôi lắm rồi, dường như không phải là chuyện có thực nữa? Luôn cả cái thế giới ở phía bên kia núi đồi, bên kia biển cả hầu như cũng không có thực nữa, nó mờ mờ mịt mịt như trong giấc mộng vậy. Chỉ còn những ngày giờ, những giây phút từ lúc ngóc đầu dậy bởi tiếng kẻng báo thức buổi sáng cho tới khi hùng hục “lao động” xong công việc hàng ngày mới là có thực mà thôi. Hắn chẳng muốn nghĩ ngợi gì thêm, chẳng còn hơi sức đâu để nghĩ. Mà cũng chẳng còn ma nào muốn nghĩ ngợi gì thêm nữa.

Hắn không biết được quá khứ của những người xung quanh, mà cũng chẳng muốn biết làm gì! Bởi thế nếu ngày mai đây cái anh chàng Bagretsov này mà có tự tiết lộ rằng y là một ông tiến sỹ hay một ông tướng tàu bay gì đi nữa thì Glebov cũng tin ngay, chẳng cần suy nghĩ gì thêm. Chính Glebov có thực sự từng là thày thuốc không nhỉ? Chẳng phải hắn chỉ mất tiêu đi cái thói quen suy xét sự việc mà còn mất luôn ngay cả cái thói quen quan sát sự việc nữa. Glebov nhìn Bagretsov mút máu ở đầu ngón tay nhưng không nói gì. Mọi việc thoáng qua, hắn nhận thức thấy nhưng không thể tìm ra và cũng chẳng muốn tìm ra lời giải đáp. Cái ý  thức còn sót lại trong hắn -có lẽ không còn là cái ý thức của con người nữa- nó rất phiến diện và giờ đây chỉ nhắm vào một mục tiêu mà thôi, đó là làm sao khuân những tảng đá ra càng nhanh càng tốt.

“Có sâu không?”, Glebov hỏi khi họ tạm nghỉ tay. “Sâu thế quái nào được?” Bagretsov trả lời. Và Glebov nhận thấy câu hỏi của mình thật là vớ vẩn, cái hố này tất nhiên chẳng thể sâu được. “Nó đây rồi!”, Bagretsov nói. Y vươn tới và đụng vào một ngón chân người. Một ngón chân cái thòi ra từ phía dưới những tảng đá, nhìn rõ mồn một dưới ánh trăng. Cái ngón chân khác hẳn các ngón chân của Glebov và Bagretsov, không phải chỉ khác vì nó cứng ngắc và hết sinh khí; về cái khoản này thì ngón chân người chết cũng chẳng khác ngón chân người sống bao nhiêu. Nó khác vì móng chân của cái ngón chân người chết đó đã được cắt gọn ghẽ, và ngay chính cái ngón chân đó thì đầy đặn và mềm mại hơn ngón chân Glebov. Họ vội vã vứt những tảng đá còn chất đống ở trên xác chết qua một bên.

“Tên này còn trẻ mà!”, Bagretsov nói. Cả hai kéo lê cái xác chết ra khỏi huyệt. “Tên này to con và phốp pháp quá!”, Glebov vừa nói vừa thở hổn hển. “Nếu tên này không mập ú như vậy thì tụi nó đã chôn hắn theo cái kiểu tụi nó thường chôn anh em mình rồi và chúng mình đâu còn lý do gì mà tới đây hôm nay nữa”, Bagretsov nói.

Họ kéo cho cái xác chết nằm dài dưới đất rồi lột chiếc áo ra. “Bồ thấy không, cái quần đùi này gần như mới tinh đấy!”, Bagretsov nói một cách mãn nguyện. Glebov dấu cái quần lót vào trong áo khoác. “Tớ nghĩ bồ mặc nó vào thì hơn!”, Bagretsov nói. “Không! Tớ không thích mặc đâu!”, Glebov lầm bầm.

Họ khiêng cái xác chết đặt lại vào trong mộ huyệt và khuân đá chất kín lên trên. Mặt trăng đang mọc. Ánh trăng xanh tỏa sáng phủ lên những tảng đá và lên cả khu rừng thưa khiến đá và cây cối có một vẻ đặc biệt nhìn không giống lúc ban ngày. Mọi vật đều tỏ ra hiện hữu, có thật, nhưng khác  hẳn lúc ban ngày. Dường như vũ trụ đeo vào một bộ mặt thứ hai, một bộ mặt về đêm. Glebov cảm thấy cái quần lót của người chết nhét trong áo khoác của hắn giờ đây ấm áp, không còn lạ lẫm nữa.

“Tớ thèm rít tí khói quá!”, Glebov mơ màng nói. “Ngày mai sẽ hút!”. Bagretsov mỉm cười. Ngày mai họ sẽ bán cái quần lót đi, đổi lấy bánh, và có lẽ ngay cả kiếm được chút thuốc lá nữa không chừng…  ./.

Tâm Minh Ngô Tằng Giao chuyển ngữ.

Chẳng Lẽ

Cao Nguyên

chang-le

Vào mỗi Tháng Tư, tôi lại dựng lên cột mốc thời gian 1975 và cộng thêm vào từng khoảng đời lưu vong đáng nhớ. Đánh dấu chuỗi dài bi thảm của Việt Nam, quê hương tôi.

Cả bi và thảm đều chứa nhiều nước mắt của hằng triệu người Việt sống lưu vong, hay đang sống tại quê nhà!
Tháng Tư 2016, cột mốc thời gian khắc dấu ấn 41 năm. Nhìn về trước và sau dấu ấn này, trên tầng tầng lớp lớp máu xương của sự hy sinh vì tự do dân chủ của một quốc gia, vẫn chổi lên mầm đau thương do nước mắt tưới vào. Nghiệt ngã thân phận của đời người, của đất nước chạy buốt theo tiếng thở dài gần như chỉ để mặc niệm từ hồi tưởng.

Mặc niệm với những anh hùng đã vì nước hy sinh! Hồi tưởng những đắng cay và tức tưởi của một đoàn quân quyết chiến mà thất bại. Một thất bại nhục nhã bởi sự phản bội của đồng minh và nội thù dân tộc.
Chẳng lẽ đây là thời kỳ nhiễu nhương nhất của dòng lịch sử cận đại do nội thù khuynh đảo trong hàng ngủ nhân thân? Chủ nghĩa cá nhân nẩy lòng phản trắc, mài sắt ngôn từ để triệt hạ nhau, bất chấp chân lý và công đạo! Lừa bịp cả thế nhân bằng những chiếc áo ngụy tạo hữu thần. Lợi dụng đức tin để lập đền tôn sùng lãnh tụ! Tệ hại hơn là vinh danh chính mình trên bản ngã tự tôn, tự mãn!!

Chẳng lẽ những ngọn bút tiên phong đã chùn tâm ráo mực? Chỉ phóng lên trời những dấu chấm than! Mặc thế gian hứng những dòng lệ đỏ bi thương trên màu da vàng chủng tộc? Cái cơ hội dùng bút thay súng để chiến đấu vì độc lập tự do và dân chủ cho quê hương, cũng vuột mất khỏi tầm tay của những người lính già đã từng thề vì nước hy sinh? Chẳng lẽ lời thề vệ quốc đã bị màu danh lợi phủ chụp lên cái thân phận vốn quen trò đón gió, trở cờ?

Chẳng lẽ chữ nghĩa và trí tuệ chỉ để dùng cho những dằng vặt lòng nhau, khơi niềm đau từ những đố kỵ để thỏa mãn sự riêng tư danh phận một đời người? Bất chấp lương tri của người cầm bút vì nghĩa diệt thân, chỉ vì lẽ phải khuất lấp dưới tầm nhìn, chỉ thấy cái “tôi” sáng lên trong niềm thù hận. Hả hê đập phá lẽ phải bằng ngôn từ bất xứng với đại từ Văn Hóa. Làm dấy lên lớp bụi mù che lấp con đường chân thiện mỹ được tiền nhân xây đắp suốt mấy nghìn năm!

Còn bao điều chẳng lẽ đóng vào tâm trí và tự mình rịt lại những thương đau bằng niềm tin vào lương tri của những cây bút vẫn miệt mài viết tiếp những trang sử dẫu bi hay tráng cũng mang hồn dân tộc và tổ quốc mình đã cưu mang. Lịch sử vẫn còn đó, lương tâm đồng chủng sẽ minh bạch mọi điều.

Thế hệ tiếp sau sẽ đi vào chính sử với ánh sáng chân lý được dẫn soi bởi hồn thiêng dân tộc. Lướt qua sự hỗn tạp của hiện cảnh quê hương ảm đạm, để vạch lên con đường hướng tới tương lai tươi sáng thật không dễ. Nhưng chẳng lẽ mãi lặng lẽ ngồi nghe những niệm khúc u buồn cho tới lúc tàn hơi?

Chẳng lẽ chữ nghĩa cứ bị dồn nén trong khung cửa ký ức, mỗi khi thời gian chạm vào, những giọt nghĩ mới vỡ ra chảy theo dòng trầm mặc?

Không! Phải dựng chữ nghĩa đứng lên, vượt bóng đêm, xuyên qua đố kỵ và nghi hoặc, phóng vào vách thời gian những dấu ấn đẹp của văn hóa dấn thân vì sự sinh tồn của chính mình với lương tri của một người cầm bút. Để còn thấy tự hào khi nắm tay những người bạn trẻ trên hành trình hướng tới ngày mai. Để khỏi thẹn với chính mình từ lời tim ghi khắc và nhắc nhớ: Tổ Quốc, Danh Dự và Trách Nhiệm.

Cao Nguyên 
Washington D.C. – 1/4/ 2016

Tô Cháo Rắn

tù cải tạo

(Nguyên bản Anh ngữ “The Bowl of Snake Soup” của LS. NGUYỄN HỮU HIỆU)

Nguyễn Hữu Hiệu làm luật sư tại Saigon và dân biểu Quốc Hội. Sau năm 1975 bị bắt giam tại các “trại cải tạo” từ 1975 đến 1985. Sau khi ra trại tù, vượt biên. Có ở tại các trại tỵ nạn Thái Lan và Phi Luật Tân. Đến Mỹ tháng giêng 1990. Học lại ở Mỹ từ đầu. Tốt nghiệp A.A. in Philosophy hạng danh dự tại Chaffey College (1993), B.A. in English Writing hạng ưu tại University of Redlands (1995). Qua đời năm 2008 tại California (USA).

Tôi cảm thấy rất chóng mặt và mệt mỏi. Cái sân vuông vức của trại “học tập cải tạo” hôm nay hình như lại to hơn. Tôi tránh không nhìn vào chấn song các cửa sổ ở hai dãy nhà tù. “Những cái chấn song chết tiệt” tôi rủa thầm, chúng làm tôi quay cuồng như một con quay. Dựa trên một cây gậy chống để đi tôi cố gắng kéo lê đôi chân nhưng chúng chẳng còn đủ sức để lết nổi nữa.

“Nguyễn, bạn yếu quá vậy sao? Sao bạn không vào nằm trong trạm xá y tế?” Trương từ nhà đối diện chạy lại cầm tay tôi và hỏi một cách lo ngại.

“Đừng lo lắng gì, bạn ơi. Chỉ choáng váng thôi”, tôi mỉm cười và tiếp tục lết đi, nói chậm rãi: “Ngày hôm nay trạm xá y tế làm tổng vệ sinh. Hơn nữa thuốc men chẳng còn gì gần năm ngày nay rồi. Bác sỹ nói tôi trở lại phòng giam mà nghỉ ngơi.”

“Phải, tôi biết. Vào nằm nghỉ ở trong phòng bạn thì yên tĩnh hơn. Mọi người đều đi ra ngoài lao động suốt ngày. Thôi được, hãy bám vào vai tôi, bạn Nguyễn, tôi dìu bạn tới đó.”

“Cám ơn bạn Trương rất nhiều. Tôi có thể tự đi đến đó với cây gậy này mà.” Tôi ngừng nói, thở nặng nhọc, rồi nói đùa: “Bạn nên trở lại cái bếp của bạn đi nếu bạn không muốn nhận giấy để viết tờ kiểm điểm.”

Trong các trại học tập cải tạo thường thường chúng tôi tìm cách đùa rỡn thật nhiều để quên đi thực trạng đời sống. Trương trẻ hơn tôi vài tuổi, là bạn đồng viện của tôi ở trong Quốc Hội miền Nam Việt Nam, và giờ đây anh ấy làm việc trong nhóm lao động tại nhà bếp trại.

Anh ấy rút tay ra khỏi nách tôi và nói rỡn lại: “Bệnh thực sự của bạn chỉ là thiếu dinh dưỡng thôi. Tôi chắc rằng bạn chỉ cần có một tô cháo rắn, chỉ một tô thôi, là khỏi bệnh ngay đấy mà. Ăn xong là bạn có thể chạy được ngay đấy thôi. Tháng trước nhóm lao động làm việc ở lò gạch có bắt được một con rắn, cả ký thịt đấy! Tôi đã được dịp thưởng thức vài thìa cháo rắn rồi. Thật ngon tuyệt!” Anh ấy ngừng lại, nuốt nước miếng, rồi nói nhanh:

“Nhưng bây giờ chúng ta phải làm gì để kiếm ra rắn đây? Tôi luôn luôn trữ sẵn một ít đậu xanh để nấu cháo rắn đấy.”

“Ồ! Tối qua tôi trông thấy một con rắn…”

“Ở đâu vậy?” Trương ngắt lời tôi và hỏi một cách háo hức.

“Nằm mơ ấy mà”. Cả hai chúng tôi đều cùng phá ra cười.

“Cười là một liều thuốc bổ. Nghe bạn cười tôi thấy dễ chịu quá. Thôi được rồi, nên ngủ một chút đi, bạn Nguyễn ạ. Khi nhà bếp có cháo tôi sẽ mang cho bạn. Bây giờ cứ việc mà nằm mơ tiếp về chú rắn của bạn đi nhé!” anh ấy lại cười nữa. “Cố mà bắt cho được chú rắn đó mà đưa tôi để tôi nấu cháo ngon lành cho bạn ăn.”

Trương nhìn tôi một cách suy tư và nồng nhiệt trước khi đi. Với cây gậy chống tôi tiếp tục lê đôi chân đi chậm chạp. Đầu óc tôi mải suy tư về giấc mơ của mình.

“Nếu tôi giết được con rắn đó rồi, giả dụ như giấc mơ của tôi trở thành hiện thực, đã nấu nó, thì tô cháo rắn bây giờ đã xong xuôi và sẵn sàng cả rồi.

Đói vẫn hoàn đói. Nếu tôi chặt con rắn ra, một con rắn trắng, như Lưu Bang, người sáng lập ra nhà Hán trong nước Trung Hoa cổ xưa, rồi trở thành một ông Vua; vương quốc của tôi cũng sẽ tan biến đi khi tôi tỉnh giấc.” Tôi giật mình thức giấc. Tôi lập tức nhắm mắt lại. Mặt đất quay cuồng và rung động dữ dội. Tôi bật nói: “Không! Không! Tôi chẳng bao giờ muốn làm Vua cả; Tôi không muốn làm Lưu Bang; Tôi chẳng thể giết các bạn tôi và gây chiến với các lân bang như vị anh hùng này.”

Thời gian gần đây tôi cảm thấy cái gọi là “nhân quả” đã chi phối một cách chặt chẽ mọi hành động và ý chí của tôi. Tôi sẽ chết dễ dàng. “Ít nhất tôi đã làm một việc thiện. Tôi đã tha không giết con rắn trắng. Nhân quả sẽ thay đổi.” Tôi mỉm cười và nhớ lại rõ ràng giấc mơ của tôi tối hôm qua.

Tôi đang cuốc đất gần hàng rào ở cuối trại, một nơi hoang vu và xa xôi. Chỉ có mình tôi lao động tại đây. Một cái gì giống như một mẩu vải trắng lòng thòng dưới hàng rào kẽm gai làm tôi chú ý. Tới gần để coi. Đó không phải là một mẩu vải mà là một da rắn vừa lột ra, mới tinh. “Chắc chắn là con rắn còn đang ẩn núp quanh đâu đây, nó vừa mới lột da ra đây thôi!”

Tôi tự hỏi và giơ cao cây cuốc trong tư thế sẵn sàng đánh rắn, mắt thì liếc quanh để tìm con mồi. Tôi thấy ra ngay chú rắn trong một bụi cây ở cọc kẽm gai cuối hàng rào. Đó là một con rắn trắng, cuộn tròn lại như một vòng tròn màu bạc cỡ bằng cái nia. Tôi nhắm kỹ ngay đầu rắn để lấy cuốc đập nhưng bất chợt tôi nhìn thấy đôi mắt rắn. Đôi mắt bất động và u ám.

“Tại sao lại ngừng tay lại như thế? Tại sao lại không đập nữa?” Tôi như văng vẳng nghe thấy những lời này vọng về từ một nơi xa thẳm nhưng rất rõ ràng. Tôi bỏ cuốc xuống và nhìn lại con rắn. Toàn thân con rắn mang một màu trắng bạc, nhưng cặp mắt nó lại nâu sậm. Con rắn bất động như một xác chết ngoại trừ lưỡi nó thỉnh thoảng thè ra ngoài để thở, tuy nhiên không có dấu hiệu gì có thể cho là tiếng nói đó từ trong miệng đó phát ra.

“Bạn nghĩ gì thế? Bạn không thấy đói à? Bạn không muốn một tô cháo rắn à?”

“Tôi đang đói muốn chết đây. Tôi muốn một tô cháo, bất cứ cháo gì cũng được. Nhưng tôi không thể giết con rắn này. Nó chẳng làm hại ai cả và lại chẳng có thể tự vệ được. Cặp mắt nó rất giống cặp mắt của những bạn bè tôi đã từng nhìn chúng tôi, những tên tù còn sống sót. Nhìn một lần chót trước khi chết trong các trại học tập cải tạo.”

“Bạn có biết khi chém một con bạch xà là điềm tốt báo hiệu có thể xưng Vương như trường hợp của Lưu Bang không? Đừng bỏ lỡ cái cơ hội quý báu vô giá này chứ.”

“Không, không”, tôi cương quyết trả lời cái tiếng nói vọng từ nơi xa thẳm đó, “Tôi chẳng tin vào cái điềm này. Giết một sinh vật vô tội có tri giác để khởi đầu cho một giấc mộng lớn, con người ta có thể dễ dàng tàn sát nhân dân mình khi nắm quyền!”

“Bạn không từng chứng kiến hoặc hay biết những trường hợp của những nhân vật lịch sử nổi danh trong chế độ Cộng Sản mới đây hay sao?”

Tôi mỉm cười. Nhờ ở tiếng “tù và” đi săn đột nhiên vang lên đã đánh thức tôi dậy kịp thời và như thế tránh khỏi phải bàn cãi về những bàn tay vấy máu nhân loại này.

Với chiếc gậy chống tôi lê đôi chân tê bại đi. Cuối cùng tôi cũng trở lại tới nơi của tôi. Tôi đứng dựa vào bức vách bằng tre để thở trước khi vào trong phòng. Chẳng có một ai. Chẳng có tiếng động. Tôi đặt chiếc gậy xuống sàn tre và nằm xuống chỗ tôi. Tôi cảm thấy dễ chịu vô cùng với sự yên tĩnh này. Trong vài năm ở trại học tập cải tạo tôi đã luôn luôn ước muốn cái giây phút yên lặng này.

Tôi mở mắt để tận hưởng cái sự thích thú đó, nhưng những chấn song cửa sổ song song trước mắt tôi hình như đang quay cuồng một điệu luân vũ.

“Nếu có ai lấy cái chăn mà che những chấn song này đi thì thú vị quá”, tôi nhủ thầm, nhưng tôi cũng dư biết rằng vào giờ này tất cả các bạn bè của tôi đang làm việc cực nhọc ngoài đồng.

Tôi thử xoay người. Nằm đè lên phía tay phải tôi thấy dễ chịu hơn. Tôi đếm hơi thở. Tôi tập du già (yoga) mỗi ngày. Hơi thở của tôi dần dần trở nên dài hơn và nhẹ hơn.

Thình lình tôi nghe thấy một tiếng huýt gió nhẹ. Tôi lắng nghe, lại thêm tiếng nữa, tiếng động rất nhẹ này. Có thể có người đang đi vào phòng tôi. Tôi sẽ nhờ và những cái chấn song chết tiệt kia sẽ bị che phủ đi. Tôi sẽ lại nằm ngửa ra và hưởng cái sự yên tĩnh hiếm hoi này. Thật là hy vọng biết mấy! Tôi nghĩ thế.

Tiếng huýt gió bây giờ có vẻ tới gần hơn. Tôi nghe thấy rõ hơn. Thật là lạ. Đó không phải là tiếng huýt gió nữa. Đó không phải là tiếng người. Đó là tiếng rít. Tôi liếc nhìn về phía phát ra tiếng rít đó. Tôi hoảng kinh. Cả người tôi bỗng mềm nhũn như một bị bông. Mồ hôi đọng lại trên chán tôi. Mồ hôi tháo ra ngoài châu thân. Trước mặt tôi, cách khoảng hai thước rưỡi tây là một con rắn lớn đang nhìn trừng trừng vào tôi.

Tôi muốn kêu cứu nhưng tôi chẳng còn đủ sức để làm chuyện đó nữa. Tôi nhận ngay ra rằng dù có kêu cứu cũng vô ích, chẳng có ai nghe được tiếng kêu này.

Con rắn vẫn ngừng bò trên đường đi của nó và nhìn chăm chú vào tôi. Thỉnh thoảng lưỡi nó, một cái lưỡi màu đỏ và đen, thè ra thụt vào như đe dọa. Tôi liếc nhìn quanh thử tìm một đồ vật chi để tự vệ. Chỉ có cái sàn trơ trụi. Chẳng có gì có thể dùng làm vũ khí để chống cự được. Tôi hối hận đã không giữ cây gậy chống dưới gầm giường.

Tôi chợt nhớ đến cái hộp đựng nước (cái hộp sữa bột Guigoz quen thuộc trong các trại học tập cải tạo) mà tôi để ở đầu giường. Tôi thu hết tàn lực để với lấy nó. Tay phải tôi đã với tới hộp, sờ được vào hộp, nhưng chẳng còn một chút sức lực nào nữa. Tôi đã thử nhiều lần để nhấc cái hộp đựng nước lên thủ thế nhưng tôi không làm nổi. Tôi biết rồi. Tôi lâm vào một tình trạng hoàn toàn vô vọng.

Tôi nằm bất động quay nghiêng về phía bên phải và nhìn vào con rắn.

Bây giờ con rắn chỉ còn cách tôi một thước. Thân nó rất đen và bóng láng. Nó dài cỡ hai thước tây. Đầu nó hình tam giác. Rắn loại này rất độc. Cặp mắt nó lạnh như thép. Cái lưỡi màu đỏ và đen đầy nọc độc thò ra thụt vào.

“Hãy giết tao đi! Hãy giết tao đi hắc xà! Đã bao năm tù trong những trại học tập cải tạo tao chán ngấy cái cảnh nửa sống nửa chết này rồi. Tao biết mày thù ghét con người. Loài người thì độc ác, xảo quyệt và hay ăn sống nuốt tươi. Chỉ có nhân loại mới có hiện tượng những kẻ độc ác hành hạ người lương thiện…” tôi nói như đang trong một giấc mơ. Tôi muốn nói thêm nữa nhưng chẳng còn sức mà thốt lời ra được.

Con rắn đen hình như điếc. Nó lặng yên một cách lãnh đạm. Một sự yên lặng tràn ngập căn phòng và trong khắp không gian.

Thật quả là một sự lặng gió trước khi bùng ra bão tố. Cả người và rắn đều nhìn nhau bất động. Tôi chẳng còn nghe thấy tiếng gì khác ngoài tiếng mạch đập trong thái dương tôi. Tôi chẳng còn nhìn thấy gì khác ngoài cái ánh sáng lạnh như thép loé ra từ cặp mắt chết chóc của rắn. Thời gian hình như bất tận… Nhưng số mệnh là số mệnh.

Sau khi ngừng lại và nhìn trừng trừng vào con mồi bất động của nó, con rắn đen huýt gió, rít lên một âm thanh tang tóc kéo dài rồi tiếp tục bò tới.

Một lần nữa tôi lại hoảng kinh lên. Tôi vội nhắm mắt lại. Tôi cảm thấy toàn thân như hụt hẫng, như bị rơi vào một nơi trống rỗng. Tất cả đều trống rỗng và tối đen, rồi tôi quên tất cả.

Untitled-1

Tôi không biết tôi đã ngất đi bao lâu nữa. Khi tôi mở mắt ra tôi đã thấy anh ấy ngồi ngay cạnh tay tôi, và tôi nghe thấy tiếng anh ấy kêu tôi một cách lo lắng:

“Nguyễn! Nguyễn! Tỉnh lại đi Nguyễn! Tỉnh lại đi!”

Tôi mở to mắt, liếc nhìn xung quanh, nhưng không nhận ra được gì cả.

“Đây là nơi nào thế? Anh là ai? Anh nói gì vậy? Tôi còn sống không?” tôi hỏi anh ta liên tiếp như thế.

“Đừng nói rỡn chứ ông bạn”, anh ấy cười, nhấn mạnh: “Đây là trại học tập cải tạo Thanh Phong. Tôi là Trương, bạn anh đây. Bạn và tôi cùng đang sống trong trại này nhận ra tôi chưa? Bạn ra mồ hôi nhiều quá.”

“Anh thật tử tế với tôi quá anh Trương ạ”, tôi cười. Tôi đã nhận ra anh ấy. Rồi tôi thở một hơi thật dài và ngồi dậy.

Trương đưa một tô cháo lớn cho tôi thân mật nói: “Đây là tô cháo mà chúng ta mong ước. Sau khi ăn xong bạn có thể chạy được ngay. Tôi bảo đảm vậy đó.”

Tôi cảm thấy vui vẻ với lời của bạn tôi. Tôi cảm thấy rất dễ chịu. Sức khoẻ tôi hình như bình phục lại nhiều. Bây giờ tôi hoàn toàn tỉnh trí lại. Tôi nhìn bạn tôi với vẻ cám ơn và hai tay bưng lấy tô cháo lớn.

“Ồ! Cháo ngon quá!” Tôi cười hỏi một cách sung sướng: “Làm sao anh có được tô cháo này vậy?”

Trương, hình như chỉ chờ hỏi có thế, trả lời một cách hăng hái và kiêu hãnh: “Khi tôi lấy đòn gánh để gánh đôi thùng nước tôi trông thấy một con rắn đen lớn, dài đến hai thước, bò ngang qua sân bếp.” Anh ta phá ra cười, nói: “Con rắn hình như muốn dâng hiến cuộc đời cho chúng ta vậy. Nó bò rất chậm. Chỉ cần đập một cú là tôi đã giã ngay đầu nó. Nghĩ đến bạn tôi vội nấu tô cháo này. Đậu xanh và thịt rắn thật là hợp với nhau nhất là về phương diện dinh dưỡng. Anh nên ăn ngay bây giờ đi. Cháo hãy còn nóng đó.”

Tôi tự nhiên cúi đầu và nhắm nghiền mắt lại. Tôi tránh né chẳng muốn nhìn gì. Tôi phải thú nhận, tôi muốn ăn cháo để cho bạn tôi vui lòng, nhưng tôi quên thế nào được con rắn đen. Con rắn đen đã tha mạng cho tôi rồi nó còn bò rất chậm chạp như muốn hy sinh thân nó trong bàn tay của Trương để cung cấp cho tôi một tô cháo đầy dinh dưỡng hầu cứu mạng tôi.

Tôi mở mắt ra và không cầm được tiếng thở dài. Tôi nhìn Trương và đưa lại cho anh ta tô cháo.

“Đây chẳng phải là một điều bí mật gì, anh Trương ạ. Đây quả thật là một sự thực diệu kỳ. Cuộc đời này không vô nghĩa lý đâu.”

Trong tận cùng tâm khảm tôi cảm thấy dễ chịu.Thật sự thoải mái. Tôi nhìn vào cặp mắt mở lớn của bạn tôi, mỉm cười rồi tiếp tục nói: “Để tôi thay quần áo, bộ đồ này ướt đẫm mồ hôi rồi, tôi sẽ kể cho anh nghe về chuyện con rắn đen.”

Tôi đứng dậy và chẳng cần nhờ đến cây gậy để đi nữa, tôi bước vững vàng về phía mấy cái kệ để quần áo ở cuối căn phòng rộng trước cặp mắt ngạc nhiên của bạn tôi, anh thích thú bưng tô cháo rắn còn đang bốc khói.

LS Ngô Tằng Giao

(chuyển ngữ)

Còn Gì Để Lại

Nguyễn Quang Dũng

congidelai-nnb-image

 

1.  Những tấm hình gần nhất trước ngày D…

Ngày chủ nhật 7 tháng 2, 2016 tôi gặp Thầy Nguyễn Ngọc Bích và Cô Đào Thị Hợi tại Chợ Tết Cộng Đồng Người Việt Vùng Hoa Thịnh Đốn. (Tôi gọi GS Nguyễn Ngọc Bích là Thầy vì Thầy Bích có thời gian giảng dạy ở Đại Học George Mason, Virginia:  Thầy phụ trách giảng dạy  lớp  Truyện Kiều, bằng tiếng Việt, tiếng của người mình).  Thầy Bích đang lui hui bày những cuốn sách của Tổ Hợp Xuất Bản Miền Đông Hoa Kỳ trên bàn. Tôi đến chào Thầy và lấy xuống xem một cuốn sách sử ký của sử gia Lê Mạnh Hùng mà Thầy trưng bày ở chổ cao nhất trên giá đựng sách. Chắc Thầy nghĩ tôi chỉ đến xem cho vui, hay mua một cuốn “ủng hộ” gian hàng sách của  Thầy. Nhưng khi tôi thưa với thầy là tôi muốn mua trọn bộ 5 quyển “Nhìn Lại Sử Việt”  thì Thầy vui lắm. Thầy nói với tôi: “Lẽ ra trọn bộ giá $133, nhưng tôi sẽ “discount” cho anh và chỉ lấy $100”. Thầy cho 5 cuốn sách vào túi nylon xong thì tôi xin chụp Thầy và Cô một tấm hình kỷ niệm dưới đây:

DSC01095

Ngày thứ hai 8 tháng hai, 2016, mồng một Tết Bính Thân, tôi gặp lại Thầy Bích trong bộ quốc phục cổ truyền , áo dài, khăn đóng, với khăn quàng cổ màu vàng  ba sọc đỏ. Thầy cười vui trong buổi lễ Chào Cờ đầu năm mới  Bính Thân 2016 do Cộng Đồng Việt Nam vùng Hoa Thịnh Đốn tổ chức. Tôi đang đứng cạnh anh Nguyễn Kim Hương Hỏa, Hội trưởng Hội Cựu Sinh Viên Quốc Gia Hành Chánh Miền Đông nên mời Thầy chụp chung một tấm hình với anh Hương Hỏa.  Thầy và Hội Hành Chánh vốn thân thiết với nhau đã lâu, năm nào Thầy Bích và Cô Hợi cũng là khách mời danh dự của buổi tiệc Hội Ngộ Tân Niên Quốc Gia Hành Chánh  đầu năm dương lịch.

DSC01309

Trong tấm hình tôi chụp hôm đó, Thầy Bích cười, tươi tắn.  Và sau này tôi nhận ra trên nhiều tấm hình chụp, Thầy lúc nào cũng có nụ cười hiền hòa cố hữu đó.

Ngày thứ bảy 20 tháng hai, 2016. Hội Người Việt Cao Niên vùng Hoa Thịnh Đốn tổ chức Lễ Tổ tiên và Chúc Thọ năm Bính Thân 2016. Buổi tối thứ sáu, tôi lo trình bày, in và chuẩn bị nhiều khung hình chúc thọ cho các vị Hội viên cao niên với tuổi thọ từ 70, 80, 90 đến 100. Ở xứ Hoa Kỳ này, tôi thấy các “cụ” 70 hay 80 của Hội Cao Niên vùng này rất mạnh khỏe và năng động. Bảy mươi như anh chị phóng viên Đào Hiếu Thảo thì không thể gọi là người “già” mà phải gọi là người trẻ của Hội Cao Niên. Tôi biết rất nhiều vị trên 70 từ chối gia nhập Hội “Cao Niên” chỉ vì họ nghĩ là họ chưa …già. Cho nên trên bản tin Cao niên tháng hai, 2016 tôi không “dám “ gọi các cụ 80 mà dùng chữ “quý vị 80”. Quả vậy, trong số các “cụ” 80  Hội Cao Niên chúc thọ năm nay, có GS Kim Oanh,  Bà Tuyết Ngọc…những vị cao niên năng động  này không thể gọi là người già được. Tôi  có thấy tên GS Nguyễn Ngọc  Bích trong số các “cụ” 80 (tính theo tuổi ta). Tôi nghĩ đến  Thầy Bích và nụ cười của Thầy trong Lễ Chúc Thọ vào ngày mai.congidelai-nnb-chuctho80

Tiếc thay thứ bảy hôm sau đó, Thầy và Cô Hợi bận lễ chùa nên đến trễ;  Lễ Tổ Tiên và Chúc Thọ đã xong, Nhưng Thầy cũng tham dự Lễ mừng sinh nhật chung, Thầy tham gia sinh hoạt văn nghệ. Anh Nguyễn Văn Đặng chụp tấm hình dưới đây, lúc Thầy Bích đang hát:

DSC01310

Ngày 2 tháng 3, 2016, giờ Hoa Thịnh Đốn,  sáng vào mở email từ anh Bùi Mạnh Hùng, tôi biết tin Thầy Nguyễn Ngọc Bích mất trên chuyến bay đến Manila, Phi Luật Tân dự Hội nghị về Biển Đông.  Trên vùng trời cách không xa lắm quê hương Việt Nam yêu dấu, lúc đó là ngày 3 tháng 3,  Thầy Bích bị nghẽn mạch máu cơ tim.  Theo lời Cô Hợi kể lại: Thầy nói với Cô Hợi là Thầy mệt lắm chưa bao giờ mệt như vậy. Và chỉ như vậy, Thầy đi.

Tin Thầy Bích mất làm tôi lặng người.  Mới vừa đây, hai tuần trước, Thầy còn đó.

Sống và Chết, quả tình chỉ cách nhau một hơi thở – tôi còn nhớ nhiều Phật tử thường hay nhắc nhau câu nói này. Từ lâu,  tôi cũng như nhiều người khác thường hay nghĩ rằng đời sống của mình hãy còn ngày rộng tháng dài. Rằng  mình – mới 60, 70 hay dầu đã 80- vẫn còn khỏe. Cái chết  là chuyện xa vời, không ai màng nghĩ  đến. Trong lúc,  thực ra, nỗi chết rình rập mọi lúc, mọi nơi và không kể trẻ hay già.

Sáng nay, tôi phải tự nhắc để tôi nhớ,  đừng quên, không được quên điều này: Chuyện gì làm được,  đừng chờ đến ngày D. vì đến lúc đó có hối tiếc thì mọi sự đã muộn màng.

Ngày Đi hay viết tắt là ngày D, chữ tôi dùng cho ngày chết, hay nói cho có vẻ văn chương chữ nghĩa hơn – ngày vĩnh biệt cõi đời, là cái ngày mà tôi và vài ông bạn già rất thân thiết – như  Cụ Hà Bỉnh Trung (đã đi) hay anh Tâm Minh Ngô Tằng Giao (đã trên 70, vẫn còn nhất định chưa chịu nhận là mình già) -vẫn thường cười cười nói với nhau khi có dịp gặp mặt: “ Đã chuẩn bị hành trang sẵn sàng, khi nào có “vé” là lập tức  lên đường “. Anh Tâm Minh Ngô Tằng Giao còn chu đáo hơn nữa, anh sáng tác rất nhiều thơ lục bát về Phật giáo, in thành sách hơn mấy chục tập và biếu không đến người đọc. Anh nói, ” Tôi làm vậy là để có “quỹ” mua vé trước nên tôi biết tôi sẽ “đi” về đâu.”

2. Cơ Hội Không Còn…

Tôi vẫn tự trách tôi hoài, về cái tính lần lửa không kết thúc nhiều việc, nhiều chuyện có thể kết thúc được. Việc tôi tự trách tôi lần này khi biết tin Thầy Bích vĩnh viễn vắng bóng liên quan đến công việc tôi đang góp tay với Hội Người Việt Cao Niên Vùng Hoa Thịnh Đốn và Hội Cựu Sinh Viên Quốc Gia Hành Chánh miền Đông Hoa Kỳ. Tôi thiết kế hay nói nôm na là “dựng lên” hai cái website ( tiếng Việt mình chưa có nhiều chữ diễn tả cho đúng quá nhiều thuật ngữ kỹ thuật của thế kỷ 21 nên tạm thời có nhiều chỗ tôi phải để nguyên chữ tiếng Anh ở đây.) Ở hai website này, ban chủ trương vẫn mong thực hiện được việc chia sẻ đến người đọc khắp nơi những tin tức, kiến thức, kinh nghiệm hay sáng tác từ những người viết tài tử hay chuyên nghiệp với điều kiện là những bài viết này là những bài viết nguyên thủy từ những người viết mà ban biên tập website biết được tác giả là ai. Nói khác đi, những người trong ban chủ trương muốn thực hiện một  website không cóp nhặt, sao chép tùy tiện.

Tháng trước, tôi có đọc mấy bài viết của Thầy Nguyễn Ngọc Bích, ký tên dưới bút hiệu Tâm Việt.  Và tôi vẫn thường hay gặp Thầy trong những buổi hội hàng tháng của Hội Người Việt Cao Niên Vùng Hoa Thịnh Đốn, mà Thầy Bích là Phó Hội Trưởng Ngoại Vụ của Hội. Tôi tự nhủ không có cơ hội nào tốt hơn nữa là gặp Thầy vào phiên hội đầu tháng tới; mời Thầy tham gia, giúp tay, và sau đó được phép chuyển tải các bài viết của Thầy lên  website caoniendc.com hay website quocgiahanhchanhmd.com và thử bàn với thầy về một hướng hợp tác giữa  nhà in của tôi và  Tổ hợp Xuất Bản Miền Đông Hoa Kỳ do Thầy chủ trương, nhất là tìm một giải pháp mới cho tình trạng bế tắc về việc phát hành sách báo tiếng Việt tại hải ngoại.

Vậy mà tất cả các dự trù, cơ hội và cái “lợi thế” thiên thời, địa lợi và nhân hòa để có sự hợp tác và giúp tay của Thầy Bích với Hội Cao Niên và Hội Hành Chánh về mặt báo chí và website bỗng nhiên tan biến trong chớp mắt.

Lúc đọc lại  tiểu sử của Thầy Bích về những trách vụ Thầy từng đảm trách lúc sinh tiền, tôi chợt nhớ ra rằng tôi đang đứng trước một  Thái Sơn của làng thông tin báo chí.

Từ 1971 đến 1975, Thầy Nguyễn Ngọc Bích từng là Cục trưởng Cục Thông Tin Quốc Ngoại thuộc Bộ Dân Vận và Chiêu Hồi, Tổng Giám Đốc Việt Tấn Xã, sáng lập viên Viện Đại Học Cửu Long và là sứ giả đặc trách của Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu trong cuộc vận động sau cùng với Quốc Hội Hoa Kỳ về viện trợ quân sự cho Việt Nam Cộng Hòa vào những ngày tháng cuối cùng của miền Nam Việt Nam.

Năm 1975, Thầy Bích trở lại Hoa Kỳ, quê hương thứ hai của Thầy, từ đó mở ra  chuỗi dài của những hoạt động không ngưng nghỉ trong đủ mọi lĩnh vực  xã hội, chính trị, giáo dục, nhân quyền, dịch thuật, biên khảo, bảo tồn văn hóa Việt ở xứ người. Thầy Bích đã từng nắm giữ những trách vụ cao cấp trong chính quyền Hoa Kỳ như Phó và sau đó Quyền Giám đốc Office of Bilingual Education and Minority Languages Affairs thuộc Bộ Giáo Dục Liên Bang dưới thời Tổng Thống George W. Bush, Giám Đốc Ban Việt Ngữ  Đài Á Châu Tự Do (RFA)  từ  năm 1997 đến 2003.

3. Còn Gì Để Lại …

Quan trọng hơn hết là tinh thần dấn thân của Thầy Nguyễn Ngọc Bích trong rất nhiều công việc liên quan đến cộng đồng Người Việt hải ngoại và những công cuộc đấu tranh hướng về một nước Việt Nam tự do,  dân chủ và tiến bộ.  Người khen, kẻ chê Thầy cũng nhiều, nhưng không ai có thể phủ nhận được tấm lòng và tinh thần làm việc hướng về lợi ích chung cho cộng đồng người Việt của Thầy.

Dấn thân và phục vụ là hai nhân tố căn bản và trọng yếu nhất thể hiện trong đời sống của Thầy Bích. Cũng có thể vì cái gì Thầy cũng muốn làm, chỗ nào Thầy cũng tình nguyện, cho nên những công việc và mục tiêu Thầy theo đuổi cũng trải rộng và do vậy khó lòng nhìn thấy hay lượng định hết những thành tựu hay kết quả đạt tới. Nhưng thử hỏi có bao nhiêu người trong cộng đồng người Việt Hải ngoại đến tuổi 80 còn có được khả năng, sức làm việc và tinh thần hoạt động không ngừng nghỉ cho cộng đồng người Việt như Thầy Bích?

Đối với tôi, Thầy Bích lúc nào vẫn là một người Việt Nam khả kính, đa năng  và đáng quý. Thầy Bích dạy tôi được một bài học căn bản xuyên suốt qua đời sống phục vụ của Thầy cho đến hơi thở cuối cùng  là: Hãy sống bằng trái tim Việt Nam với tất cả tấm lòng dâng hiến.

Xin cảm ơn và vĩnh biệt Thầy Nguyễn Ngọc Bích.

Nguyễn Quang Dũng
Ban Thông Tin và Báo Chí Hội Người Việt Cao Niên Vùng Hoa Thịnh Đốn
VA Tháng 3/2016

(Xin bấm vào hình để xem hình ảnh tang lễ GS Nguyễn Ngọc Bích do Phóng Viên Quân Đội Trần Bửu Khánh ghi lại)

nnb-phuco-web

Vẳng Tiếng Chuông Chùa

Tâm Minh Ngô Tằng Giao

  Bell in Morning Fog. New Hamlet, Plum Village Monastery, France

Tiếng chuông chùa ngân nga, văng vẳng trong không gian rồi tan loãng giữa xóm làng sau khi đã thâm nhập chốn dương trần và đưa nhân gian vào cõi tịch tĩnh hư không. Thời gian lắng đọng cùng hồn người. Cảnh vật như cộng hưởng cùng tiếng chuông. Tất cả đều trở nên lung linh trầm mặc. Tiếng chuông chùa thi vị và đầy sức cảm hóa làm nảy sinh ra biết bao cảm hứng về âm nhạc và thơ văn, chan chứa chất liệu cốt tủy của tinh thần Phật giáo cùng với mối sầu cảm ướp đầy tình tự quê hương. Tiếng chuông chùa quả thật có một năng lực hồi sinh rất lớn.

Vì sự nhiệm mầu đó nên xưa nay đã có biết bao người phát nguyện đúc chuông, từ vua, quan cho đến muôn dân:

“Đúc chuông tạo tượng xây chùa
Trong ba phước ấy dân – vua đều làm
.”

CHUÔNG VANG TRONG ÂM NHẠC

     Tiếng chuông chùa đến trong dòng nhạc Việt khơi lại tâm tình riêng tư của con người. Nguyễn Văn Đông miêu tả quang cảnh hiu quạnh, cô đơn của lữ khách trong những “đêm đông” lạnh lẽo:

Chiều chưa đi màn đêm rơi xuống.
Đâu đấy buông lững lờ tiếng chuông.
Đôi cánh chim bâng khuâng rã rời.
Cùng mây xám về ngang lưng trời…”

Hoàng Trọng thời tìm lại giây phút êm đềm lúc về lại mái nhà xưa khi đã “dừng bước giang hồ” sau một đời rong ruổi:

“Chiều nay sương gió
lữ khách dừng bên quán xưa.
Mơ màng nghe tiếng chuông chiều
vương về bên quán tiêu điều…”

Tiếng chuông chùa vang vọng trong khúc “nhạc chiều” khiến Doãn Mẫn như quên hết đi đám bụi trần vương mắc:

…“Chuông chùa vương tiếng ngân.
Âm thầm trong chiều vắng.
Đường tơ lắng buông trong huy hoàng.
Ru hồn quên hết nỗi chứa chan niềm cay đắng…”
…“Vương sầu làm chi cho ngày thắm phai.
Mỗi khi tiếng chuông vẫn ngân dài…”

     Còn Y Vân và Nguyễn Hiền cảm nhận thấy mùa xuân đầy hương sắc và muốn trai gái trong làng cùng trao nhau câu ân tình “anh cho em mùa xuân” khi nghe tiếng chuông chùa vẳng trong ánh trăng thanh:

“Ngoài đê diều căng gió.
Thoảng câu hò đôi lứa.
Trong xóm vang chuông chùa.

Trăng sáng soi liếp dừa…”

     Tô Vũ nhờ “tiếng chuông chiều thu” mà nhớ lại bao kỷ niệm của thời niên thiếu:

…“Từ miền xa tiếng chuông ngân.
Hồi buông lớp lớp theo gió vàng”

…“Hồn ta chìm đắm tiếng chuông xa vời.
Hồi chuông ngân nga trong chiều thu ngợp gió”

 … “Hồi chuông ngân nga ru hồn mơ.”
…”Ngày nào khi chiến chinh xong.
Hồi chuông vui reo như tiếng đồng.
Chuông ran lời ước cũ.

Tình ta đẹp bao nhiêu.
Hồn anh thầm lắng tiếng chuông ban chiều”

      Riêng với Hoàng Giác tiếng chuông gợi niềm nhung nhớ một bóng hình người đẹp trong giấc “mơ hoa” xa xưa với lời tâm sự: “tôi liên tưởng ngay đến các cô ở làng hoa Ngọc Hà mà sáng sáng tôi hay gặp trên đường tôi đi học… Và đấy là bản nhạc đầu tay trong cuộc đời sáng tác của tôi”:

“Chuông chiều ngân tiếng vấn vương lòng trông theo cô hái hoa.
Bước đi bâng khuâng muôn ngàn sầu nhớ bóng mờ mờ xa…”

     Trong khói sương buổi chiều cao nguyên Đà Lạt thời âm giai tiếng chuông chùa Linh Sơn khiến ưu phiền trầm lắng và tình thương lên ngôi. Minh Kỳ nở nụ cười khi lòng chợt dâng niềm nhớ “thương về miền đất lạnh” dấu yêu:

“Linh Sơn đâu đây buông tiếng chuông ban chiều.
Như ru ai say trong giấc mơ dạt dào.
Cho thế nhân thôi, ru hết u sầu.
Để lòng quay về bến yêu…”

CHUÔNG THỨC TỈNH LÒNG NGƯỜI

     Âm hưởng của tiếng chuông chùa cũng đã đi vào thi ca tạo nên một nét đẹp nhân văn rất đáng quý. Tiếng chuông là phương tiện thiện xảo của cửa thiền để mở đường nhập vào đời sống tâm linh, là âm thanh trầm hùng kêu gọi thế nhân quay về trong thực tại. Chuông ngân như một cuộc hành hương từ chốn phong ba về vùng tĩnh lặng an nhiên.

     Tiếng chuông thức tỉnh cả âm cảnh lẫn dương trần, thức tỉnh bao tâm hồn còn mãi đắm chìm trong cõi mộng, tuy sống trong cõi vô thường mà không ý thức về sự thật vô thường của vạn thể. Cuộc đời là một hơi thở rất nhẹ và mong manh, chỉ cần ngừng lại nửa phút là giũ bỏ tất cả.

     Tiếng chuông chùa như một thông điệp của trí tuệ và từ bi, như lời nhắn nhủ của Đức Phật: “tất cả những gì theo duyên khởi cũng đều theo duyên diệt.”

     Trong “Nghi thức thỉnh đại hồng chung” mà các chùa thường đọc và thường được khắc lên chuông, có mấy câu đại ý rằng: “Xin nguyện tiếng chuông này lan toả trong pháp giới. Địa ngục dù có tối tăm, tất cả đều được nghe. Nghe âm thanh này tâm được thanh tịnh. Hết thảy chúng sinh thành bậc chánh giác.” Sư Trí Hải dịch:

Giờ con xin đánh chuông này
Tiếng vang thấu khắp mọi nơi xa gần
Ai nghe thấy lòng trần nhẹ bỗng
Đạo Bồ-Đề được chứng lên ngay.”

     Đỗ Phủ khi đến “chơi thăm chùa Phụng Tiên ở núi Long Môn”, trên núi cao ngửa mặt trông lên bầu trời sao, thân mình tưởng như nằm ngủ trong mây, gần sáng cảm tác rằng: “nghe tiếng chuông chùa khiến cho lòng người phải tỉnh ngộ sâu sắc”:

“Dục giác văn thần chung
Linh nhân phát thâm tỉnh.”

     Với người dân Việt thì tiếng “chày kình” gõ lên chuông chùa đã âm vang từ mấy nghìn năm lịch sử dân tộc vẫn còn lắng đọng trong tâm hồn, cả ngày nay tới mãi mãi ngàn sau.

        Chày kình là chiếc dùi thỉnh chuông có chạm hình con cá Kình. Tiếng chuông luôn dóng lên để thức tỉnh lòng người. Trong “truyện Kiều” khi tới đoạn miêu tả sự hạ thủ công phu của Thúy Kiều sau những năm lưu lạc với những chán chường đau khổ, phải tìm về nương náu nơi cửa Phật để mong thoát kiếp trần duyên, Nguyễn Du cũng đã có hai câu thơ:

“Sớm khuya lá bối phiến mây
Ngọn đèn khêu nguyệt, tiếng chày nện sương”

     Cũng nghe tiếng chày kình, nhưng giữa “Hương Sơn phong cảnh” Chu Mạnh Trinh không chỉ say sưa với cảnh đẹp mà đã giật mình tỉnh thức vì tiếng chuông. Tỉnh thức để thấy cho rõ sự thật vô thường của cuộc đời. Nhờ như vậy mà con người sống có ý thức hơn, minh triết hơn. Tiếng chuông ở đây vừa dẫn dắt con người hòa nhập với cảnh vừa thức tỉnh đưa con người rời cõi mộng ảo quay về với thực tại:

“Thỏ thẻ rừng mai chim cúng trái
Lửng lơ khe yến cá nghe kinh
Thoảng bên tai một tiếng chày kình
Khách tang hải giật mình trong giấc mộng.”

 “Muôn hồng nghìn tía tưng bừng
Suối khe hát nhạc, thông rừng dạo sênh
Chim cúng quả, cá nghe kinh
Then hoa cài nguyệt, chày kình nện sương.

     Sư Huyền Không khi “nhớ chùa” luôn nhớ đến mái ngói rêu phong ẩn mình trong hoa lá, hương hoa hòa quyện lan toả. Trong cảnh tịch mịch đó âm ba của tiếng chuông lại vang lên dịu dàng như lời vỗ về an ủi những cuộc đời hiền lành lam lũ:

Mỗi tối dân quê đón gió lành,
Khắp chùa dào dạt ánh trăng thanh
Tiếng chuông thức tỉnh lan xa mãi
An ủi dân hiền mọi mái tranh.”

     Tiếng chuông chùa đối với Quách Tấn như một kỷ vật thiêng liêng nên mỗi lần trông thấy cảnh núi non chùa chiền hay mỗi khi chợt tỉnh giấc nồng, tiếng chuông cũng hiện đến:

…“Núi Nhạn chuông ngân trời bảng lảng,
Đầm Ô sen nở gió thơm tho.”
…“Mây nước nhuốm phong trần
Nơi đâu tình cố nhân
Những đêm buồn tỉnh giấc
Chùa cũ tiếng chuông ngân.”

     Quách Tấn tâm sự: “Người đến viếng cảnh chùa, lòng không rửa mà trong, thân không cánh mà nhẹ, ngồi tựa bóng cây đón mát, tưởng chừng mình đã xa lánh hẳn cõi trần tục”… “Nếu không có tiếng chuông lay mộng thì mộng còn mãi chìm trong bóng mây rán, hoặc làm con cò vương hương bay lờ lững trong hồ sen yên tịnh”:

…“Gió ru hồn mộng thiu thiu
Chuông chùa rơi rụng bóng chiều đầu non”.
…“Mây tạnh non cao đọng nắng chiều
Tiếng chuông chùa cũ vọng cô liêu.”
…“Chùa ẩn non mây trắng
Bóng in hồ liễu xanh
Mai chiều chuông đã tạnh
Vòng sóng còn long lanh.”

     Còn với Tuệ Nga thì “tiếng vọng hồng chung” quả thật đã khiến cho người cõi trần được tỉnh thức và riêng người tu thời thêm tinh tấn vô ngần:

…“Âm vang tiếng vọng hồng chung
Gọi người thức tỉnh thoát vòng u mê
Hồng chung ngát ý Bồ Ðề
Chuông ngân thanh thoát đường về bến hoa”…
…“Đại Hồng Chung xóa sương mù
Giúp người tinh tiến đường tu viên thành”…

     Quả thật tiếng chuông chùa là pháp âm vi diệu, làm thức tỉnh khách hồng trần, quay về bờ giác ngộ, bỏ ác làm lành, hồi tâm hướng thiện.

CHUÔNG TIÊU TRỪ PHIỀN NÃO

     Trong “Nghi thức thỉnh đại hồng chung” cũng ghi mấy câu ngụ ý rằng: “Nghe tiếng chuông, phiền não vơi nhẹ, trí tuệ tăng trưởng, tâm bồ đề sinh, lìa chốn địa ngục, ra khỏi hầm lửa, nguyện thành Phật để cứu độ chúng sinh.”

     Bao khổ đau, ách nạn, chướng duyên phải đối diện trong đời chính là địa ngục, là hầm lửa, đốt bùng lên bao nhiêu muộn sầu. Tiếng chuông chùa chính là nhân duyên xúc tác để làm khởi sinh tâm bồ đề, hóa giải những xung đột, trái ngang, những dằn vặt khổ đau của con người trần tục, tiêu trừ các phiền não, vơi bớt đi bao nhiêu là ham hố dương trần, gieo thiết tha tình người vào lòng cuộc sống.

      Chính vì nghe tiếng chuông ngân mà khách hành hương trút hết mọi nỗi ưu phiền, như Chu Mạnh Trinh đã tả:

“Lạ cho vừa bén mùi thiền
Mà trăm não với ngàn phiền sạch không”.

     Sư Nhất Hạnh khi “nghe chuông” cũng đã cảm nhận thông điệp của chuông:

“Nghe chuông phiền não tan mây khói,
Ý lặng, thân an, miệng mỉm cười
Hơi thở nương chuông về chánh niệm
Vườn tâm hoa tuệ nở xinh tươi”.

 TIẾNG CHUÔNG CỦA LÀNG QUÊ NON NƯỚC

     Mái chùa và tiếng chuông là hình ảnh và hồn thiêng của đất nước đã thẩm thấu mặn mà trong tâm khảm của dân tộc Việt Nam và trở thành một bộ phận hữu cơ gắn liền với sinh hoạt làng xã, không thể tách rời. Cha ông ta có câu: “Đất vua, chùa làng, phong cảnh Bụt”. Chùa đã trở thành trái tim của làng quê và tiếng chuông là biểu tượng của tỉnh thức.

     Nhà nông nghe chuông công phu khuya mà trở dậy, nhóm bếp thổi cơm rồi chuẩn bị lùa trâu ra đồng. Buổi chiều họ nghe tiếng chuông thu không mà lùa trâu quay trở về chuồng. Đêm về tiếng chuông là tiếng canh gà nhẹ nhàng đánh thức dân làng trong những lúc ngủ say. Chuông chùa quả là cái “đồng hồ báo giờ” của làng xóm:

“Tiếng chuông vượt núi len sông
Vào làng thức tỉnh dân nông ra đồng.
Chuông không ngại ngày đêm mưa gió thổi
Chuông không vì sông núi bể đèo ngăn
Tiếng của chuông là bản thể xa xăm
Đây vọng lại mấy ngàn năm âm hưởng.”

      Chúng sinh hãy lắng nghe tiếng chuông của Vương Duy đời Ðường khi ông về vui thú cỏ cây ở Võng Xuyên (Cốc khẩu sơ chung động, Ngư tiều sảo dục hi):

“Nhẹ nhàng chuông ngân thung lũng
Ngư tiều lác đác dời chân”

     Với Sư Huyền Không, tiếng chuông và mái chùa đã sớm tối đồng hành với người dân quê Việt Nam, từng nuôi dưỡng tâm hồn cho biết bao thế hệ, để cùng nhau xây dựng quê hương xứ sở:

“Vì vậy, làng tôi sống thái bình
Sớm khuya gần gũi tiếng chuông linh
Sắn khoai gạo bắp nuôi dân xóm
Xây dựng tương lai xứ sở mình”.

     Với Nguyễn Bính thì trong khung cảnh thiên nhiên với nhịp sống hài hòa tinh tế, tiếng chuông chùa ấm áp đã hiện hữu và gắn liền với con người, với quê hương dân tộc. Tiếng chuông hiện hữu trong tâm thức mỗi người dân như những hiện tượng thiên nhiên bình thường nhất:

“Quê tôi có gió bốn mùa
Có trăng giữa tháng, có chùa quanh năm
Chuông hôm, gió sớm, trăng Rằm
Chỉ thanh đạm thế, âm thầm thế thôi
Mai này tôi bỏ quê tôi,
Bỏ trăng bỏ gió, chao ôi bỏ chùa”.

     Nguyễn Bính đã phác họa nên một bức tranh thủy mặc làng quê thật đẹp đẽ nên đi xa ai cũng nhớ cũng thương về chốn cũ:

“Mấy chiều vắng bặt hơi chuông
Sư bà khuyên giáo thập phương chửa về”.

 NHỚ TIẾNG CHUÔNG CHÙA

     Vua Trần Nhân Tông trong cảnh “chiều thu làng Vũ Lâm” với suối khe lồng bóng cầu treo, với ngấn nước long lanh cùng nắng chiều nghiêng soi đã để tiếng chuông ngân vang trong chốn thâm sơn tĩnh mịch đó lại trong tâm hồn và thi ca:

“Núi non quạnh quẽ lá rơi,
Phôi pha sương khói mây trôi chuông rền”. 

     Và trong “cảnh chiều Lạng Châu” thời:

“Mây thu lạnh lẽo chùa xưa
Thuyền ngư xao xác thoảng đưa chuông chiều” 

      Nguyễn Trãi trong thời gian lui về trí sĩ ở Côn Sơn, huyện Chí Linh tỉnh Hải Dương khi “nghe mưa” (“thính vũ”) cảm thấy tiếng chuông đi vào giấc mơ thật nhẹ nhàng. Ngâm thơ rồi nhưng vẫn không ngủ được. Chập chờn mãi đến lúc sáng trời:

“Cửa ngoài tre sột soạt
Nhập mộng chuông khua hoài
Thơ ngâm rồi khó ngủ
Dứt nối đến trời mai”.

     Sư Huyền Không với tâm hồn sâu nặng tình quê nên khi nghe tiếng chuông ngân lại “nhớ chùa”, mái chùa của dân tộc:

“Chuông vẳng nơi nao, nhớ lạ lùng,
Ra đi ai chẳng nhớ chùa chung.
Mái chùa che chở hồn dân tộc
Nếp sống muôn đời của Tổ tông”.

      Hồ Dzếnh nhớ lại khi cùng chị nuôi đi lễ chùa đầy hớn hở vui tươi. Nhớ lại thời tuổi trẻ với nỗi u hoài. Nhớ cái tình, cái hồn tốt đẹp của thuần phong mỹ tục Việt Nam cái không khí vui tươi dân dã của tục đi lễ hội chùa “Rằm tháng Giêng” ngày xa xưa:

“Hàng năm tôi đi lễ chùa
Chuông vàng khánh bạc ngày xưa vẫn còn
Chị tôi thấy vắng trong hồn
Ít nhiều hương phấn khi còn ngày thơ
Chân đi đếm tiếng chuông chùa
Tôi ngờ năm tháng ngày xưa trở về”. 

     Còn tiếng chuông chùa của Quách Tấn như một kỷ vật thiêng liêng nên mỗi lần trông thấy cảnh núi non, bóng tịch dương đổ xuống, chùa chiền từ đâu trong tiềm thức trỗi dậy, cảnh thiên nhiên gợi nhớ:

…“Núi Nhạn chuông ngân trời bảng lảng
Đầm Ô sen nở gió thơm tho”.
…“Mây tạnh non cao đọng nắng chiều
Tiếng chuông chùa cũ vọng cô liêu”.

     Dù cho mỗi khi Quách Tấn tỉnh giấc nồng tiếng chuông cũng vẫn vọng đến:

“Mây nước nhuốm phong trần
Nơi đâu tình cố nhân
Những đêm buồn tỉnh giấc
Chùa cũ tiếng chuông ngân”.

    Với Phạm Thiên Thư thời hình ảnh cái chuông chùa treo trên gác chuông gợi nhớ lại kỷ niệm hò hẹn tình cảm cũ:

“Ngày xưa anh đón em
Trên gác chuông chùa nọ
Bây giờ anh qua đó
Còn thấy chữ trong chuông”…

     Trước “động hoa vàng” tiếng chuông chùa đôi khi ngân vọng theo sóng nước đêm trăng rồi tan loãng vào nhau cùng hình ảnh một chiếc thuyền con buông lái:

“Thuyền ai buông lái đêm rằm
Sông thu ngân thoảng chuông trăng rì rào” 

     Nghe tiếng chuông vang vọng chơi vơi dần dần thấm đẫm vào từng hạt bụi của thế giới này và có khả năng làm đảo lộn diện mục của vũ trụ, Phạm Thiên Thư tâm sự:

 “Chuông ngân chiều lặng trầm tư
Tiếng lơi đẫm hạt thiên thư bềnh bồng”…

      Riêng với Tâm Minh, kẻ tha hương, thời cõi lòng vẫn rộn ràng dù Xuân đất khách chẳng còn tràng pháo đỏ và thiếu cả bóng mai vàng. Giữa cái ồn ào náo nhiệt nơi xứ người, tiếng chuông êm ả thanh thoát của ngôi chùa xưa quê cũ hình như vẫn còn vang vọng mãi trong tâm hồn như một kỷ niệm khó quên:

 “Chúc Xuân lời vẫn ươm tình nghĩa
Mừng Tết thơ luôn đượm ánh quang
Thoang thoảng hương trầm khơi kỷ niệm
Vẳng chuông chùa cũ tiếng còn vang.”

 TIẾNG CHUÔNG THIÊN MỤ VÀ HÀN SƠN TỰ

     Và sau cùng, nói đến âm ba của những hồi chuông kim cổ cần phải nhắc tới tiếng chuông chùa Thiên Mụ và Hàn Sơn Tự.

     Lần đầu ghé chốn Thần Kinh và sau đó thực hiện liền bút ký “Mười ngày ở Huế” Phạm Quỳnh không cố ý “biên tập” thơ tiền nhân. Ông chỉ mượn nửa bài thơ cũ, thêm bớt đôi chỗ, nhằm “tức cảnh” khác. Có người lại cho rằng ông chỉ ghi lại nguyên văn mà thôi. Hai câu thơ đó như sau:

“Gió đưa cành trúc la đà, 
Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Xương”

     Phạm Quỳnh viết thêm: “Cả cái hồn thơ của xứ Huế như chan chứa trong hai câu ca ấy. Chùa Thiên Mụ là một chốn danh lam, có cái tháp bảy tầng, làng Thọ Xương thì ở bờ bên kia. Đêm khuya nghe tiếng chuông chùa với tiếng gà gáy xa đưa văng vẳng ở giữa khoảng giời nước long lanh mà cảm đặt thành câu ca”.

     Có người phân tích kỹ cho rằng tiếng chuông Thiên Mụ ngoài âm sắc của tiếng đồng được chế tác bằng một kỹ thuật đúc truyền thống hoàn hảo của Phường Đúc-Huế, nó được vang xa nhờ vào vị trí đặt chuông trên đồi cao, lại có dòng sông Hương trải dài như một chất dẫn truyền tự nhiên. Bên dòng Hương lững lờ thơ mộng, tiếng chuông cứ ngân dài lan tỏa trong không gian. Không gian càng rộng, càng yên tĩnh, tiếng chuông nghe càng sâu lắng. Chỉ một tiếng chuông nhưng đã đọng bao buồn vui, khắc khoải của một đời người. Tiếng chuông sẽ tùy hạnh nguyện đánh chuông của thiền tăng mà âm sắc vang vọng thanh thoát và nhịp điệu của tiếng chuông sẽ khác hẳn nhau.

     Hàn Sơn Tự về sau được gọi là Phong Kiều tự vì ở gần cầu Phong Kiều. Đến đời nhà Đường chùa lại được đổi tên là Hàn San Tự. Chùa nổi tiếng nhờ có bài thơ “Phong Kiều Dạ Bạc” của Trương Kế. Ông sáng tác bài này khi đi thi trượt trở về ghé qua Tô Châu, tức cảnh mà sinh tình. Trương Kế đã vẽ ra cái hình ảnh kẻ lữ thứ, đêm dài nằm trên thuyền bên bờ sông nghe quạ kêu sóng vỗ, ngắm đèn chài leo lét về khuya đắm chìm trong trăng tà sương lạnh với tiếng chuông chùa đang ngân nga. Quả là hình ảnh của sự thức tỉnh, giải thoát, bỏ lại thuyền ở bến mơ để vượt lên bờ giác.

“Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên
Giang phong ngư hoả đối sầu miên
Cô Tô thành ngoại Hàn San Tự
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền”

     Bản dịch của Tản Đà:

“Quạ kêu trăng lặn sương rơi
Lửa chài, cây bãi đối người nằm co
Thuyền ai đậu bến Cô Tô
Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San”

     Tiếng chuông chùa quả thật đã làm nảy sinh ra nhạc và thơ, chan chứa chất liệu cốt tủy của tinh thần Phật giáo cùng với tình tự đất nước quê hương, nhất là những kẻ phải sống kiếp tha phương!

Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Virginia, tháng 2 năm 2016
Mùa Xuân Bính Thân)

Năm Thân Nói Chuyện Khỉ

Phạm Thành Châu

 

nam con khi newTôi viết tào lao về Con Khỉ để quí vị đọc cho vui trong mấy ngày Tết. Phê bình tôi viết thế nầy, thế kia chỉ uổng công quí vị.

Xưa nay, báo chí Việt Nam có một lệ đáng yêu là: Năm Mới, cầm tinh con vật nào thì có một bài giới thiệu thân thế, sự nghiệp của con vật đó. Đồng bào ta, ở Âu, Mỹ vẫn giữ truyền thống sinh hoạt dân gian theo âm lịch. Không ai giỗ chạp theo dương lịch bao giờ. Vong linh những người quá cố chỉ căn cứ vào âm lịch để về với con cháu. Quan trọng nhất là ngày Tết âm lịch, là dịp để mọi người thân đoàn tụ, cúng lễ tổ tiên, lì xì mừng tuổi cho bọn trẻ, ăn uống, vui đùa.

Ở Mỹ, chỉ những tiểu bang đông người Việt, trên tờ “dương lịch” (lịch tây) mới có thêm phần “âm lịch” (lịch ta). Nhưng người bán lịch lại đặt in bên Đài Loan, bên Tàu nên phần âm lịch ghi chữ Tàu. Người Việt sống rải rác các tiểu bang khác chỉ biết có dương lịch, thế nên mới có chuyện vui như sau: “A lô! Chị Loan đó hả? Chúc mừng năm mới!”  “Năm mới gì? Bữa nay đã tháng hai rồi, còn mới mẻ gì nữa?” “Tôi chúc tết Âm lịch đó bà ơi!” “Ủa tết hồi nào vậy? Tôi đi làm, tối tăm mặt mũi. Thôi chết! Lát nữa, đi làm về, tôi phải vất mấy trái quít vô thùng rác. Năm mới xui lắm! ” “Sao vất đi, phí của. Quít có tội tình gì mà kiêng cử?” “Số là thế nầy. Để tôi kể cho bà nghe. Ông xã tôi đi làm mà than cực, than buồn, sợ ổng bỏ việc thì nguy. Không phải chuyện tiền bạc, mà mấy ông về hưu, không biết làm gì, ở không sinh bịnh. Bên Cali. của bà, cứ ra tiệm cà phê thì thiếu khối gì bạn bè để trò chuyện, lại có mấy em bưng cà phê, đưa đùi đưa ngực.”  “Các ông ngắm giải trí thì có liên hệ gì đến mấy trái quít mà đi vất thùng rác.”  “Thôi đi bà ơi! Bộ bà không biết quit là quit job à? Để quít trong nhà là báo điềm ông xã tôi quit job. Thôi! Tôi gọi lại sau nghe.Thằng xếp tới!”

Đồng bào miền Nam chúng ta, tính tình xuề xòa, sinh hoạt cũng xuề xòa. Để mấy trái mãn cầu, dừa, đu đủ, xoài trên bàn thờ thành điều ước cho năm mới. Cầu vừa đủ xài. Họ không cầu mong sức khỏe dồi dào, tiền vô như nước, vạn sự như ý. Tiền nhiều để làm gì mà phải bon chen, giành giật, gian dối? Chỉ cần có chút đỉnh đủ xài mỗi ngày là “an nhiên tự tại”. Về sức khỏe thì khỏi nói. Sống được ngày nào thì nhậu ngày đó. Trời kêu ai nấy dạ. Cũng chẳng thấy ai đứt gân máu, nằm một đống báo hại vợ con. Chỉ thỉnh thoảng có ông, nhậu xỉn, về nhà, giữa đường lủi vô bụi cây rồi khiêng về chôn. Đám ma bao giờ cũng có ca vọng cổ và nhậu. Đó là nói về thời trước 1975. Từ khi đảng và nhà nước Việt Cộng từ miền Bắc tràn vào chiếm miền Nam thì dân miền Nam te tua. Đất ruộng bị cướp, nhà bị chiếm, cơ sở sản xuất, tiệm buôn bị tịch thu. Rồi thêm mấy đợt đổi tiền, dân miền Nam trắng tay. Hàng trăm nghìn gia đình bị tống lên vùng núi rừng cao nguyên, gọi là Kinh Tế Mới, chết dần vì bịnh tật, đói khát. Thêm hàng mấy trăm nghìn quân, cán, chính, thầy tu, nhà buôn miền Nam bị đày ra Bắc, chết liệt địa.

Kể chuyện tết nhất ở miền Nam sau 1975 thì bi thảm lắm. Bi thảm nhất là người dân ở thôn quê, đặc biệt là vùng kinh tế mới. Xin được mấy giòng về xã hội kinh tế mới nghĩ gì, làm gì trong mấy ngày tết? (Tôi đi tù Cộng Sản, không đi kinh tế mới chỉ nhờ đọc báo mà kể lại cho quí vị nghe) Ngày tết, nhà tranh vách lá, trống trước trống sau, gạo không có, nhang tàn, khói lạnh, lấy gì làm lễ vật dâng cúng ông bà, tổ tiên? Họ ước gì? Thời “cầu vừa đủ xài”qua rồi. Ở kinh tế mới, họ tự chúc mình “ác liệt” hơn nhiều. Họ “phát huy sáng kiến”! Một ông tha về một trái xoài, ra chỗ sửa xe đạp lượm cái líp xe (ổ trục sên xe đạp), thêm cái bọt ba ga” (giá chở đồ sau xe đạp) người ta vất đi, đem về để trên bàn thờ, thành câu (tự chúc): “Xài líp ba ga”(xài thoải mái). Một ông thể hiện ý nghĩ tuyệt vọng của mình bằng cách chưng trên bàn thờ một gói tiêu, một tán đường,  thành “Tiêu tán đường.” Một ông khác trình bày tiếng thở dài của mình rất “ấn tượng.” Ông ta để trên bàn thờ một trái đu đủ, một trái điều, một trái bí đao, một trái khổ qua, thành: “Đủ điều đau khổ”. Cha mẹ sinh con thường đặt tên theo ước vọng ở tương lai. Con trai thì Hùng, Dũng, Anh Tài, con gái thì Hoa, Hồng, Ngọc, Ngà, Tuyết. Nhưng những gia đình trên kinh tế mới thì nhìn thấy tương lai đen tối của các con. Một ông sinh được ba đứa con, mỗi đứa có một tên, Tên Xui, tên Tận, tên Mạng. Một ông y tá ”ngụy”đặt tên con. Một đứa tên Hết, một đứa tên Thuốc, một đứa tên Chữa. Thật “Hết thuốc chữa!” Những ngày lễ lớn của đảng ta, dân kinh tế mới được tập họp lại để học tập Mừng đảng, ơn bác. Lại được ca hát cho thêm hồ hởi, phấn khởi (chới dới, bứt gân!). Có câu hát “Trùng trùng đoàn quân tiến bước theo con đường của Bác.” Dân ngồi dưới (đất) thì thầm với nhau: Con đường bác đi là con đường bi đát”

Bây giờ nói về năm Thân, tức là năm Con Khỉ. Tôi có kể cho bạn nghe một chuyện vui, bây giờ nhắc lại. Có một ông có bồ, kiểu sáng chở cơm đi ăn phở, trưa chở phở đi ăn cơm” (cơm là vợ, phở là bồ). Phải dấu kỹ! Vậy mà một sáng chủ nhật, cô bồ mò đến nhà ông ta. Thấy từ xa, ông ta hoảng kinh, chạy ra chận lại. Đi ngay.Trong nhà có con khỉ già ngồi trong đó! Con khỉ già là mụ dzợ ! Một chuyện khác, thuộc loại phản động, chỉ có người Bắc, thâm thúy và cay đắng mới nghĩ ra: Một cậu bé hỏi cô giáo: Thưa cô, Bác Hồ nóiTổ tiên ta là loài khỉ. Có đúng không ạ? “Đúng rồi! Tổ tiên bác Hồ là loài khỉ.” Và cô hỏi cả lớp: Có em nào trông giống bác Hồ không? Dạ không!

Trở lại với con khỉ. Các nhà sinh vật học chia các loài động vật thành nhiều chủng loại để dễ nghiên cứu. Loài gặm nhấm có chuột, thỏ.Loài có móng như trâu, bò. Có loài được gọi là thượng đẳng” (primates) gồm ba giống là khỉ (monkeys), giả nhân (apes) và loài người. Charles Darwins, người Anh, cho rằng: Khỉ tiến hóa thành người. Chỉ mấy ông bà vô thần cộng sản mới tin chứ chẳng ai tin. Vì trong các hóa thạch, chẳng thấy sinh vật trung gian nào giữa khỉ và người, chứng minh rằng khỉ tiến hóa thành người. Vả lại, bộ óc khỉ rất nhỏ so với óc người, không có hóa thạch khỉ trung gian”nào có bộ óc lớn gần với bộ óc người. Mà cũng chẳng thấy con khỉ nào trong rừng hay trong sở thú tiến hóa dần để thành con người. Chỉ có trong truyện Chiêu Quân Cống Hồ”của mấy chú chệt, vua phịa, rằng: Có ông Tô Vũ, làm quan nhà Hán (đầu Công Nguyên), đi sứ vào nước Hung Nô (rợ phương bắc nước Tàu) bị vua Hung Nô cho bốn “lịnh” (mỗi lịnh ba năm) tập trung cải tạo lên vùng sa mạc hoang vu, chăn mấy trăm con dê. Đến mùa đông tuyết phủ, vì đói và lạnh, Tô Vũ ngất xỉu. Tỉnh dậy, thấy có con khỉ cái đang đốt lửa cho ông ta sưởi, còn cho ăn, săn sóc tận tình. Thế là họ có với nhau bốn người con. Mười năm sau, xét thấy đương sự học tập tốt, lao động tốt, yên tâm cải tạo,vua Hung Nô tha về sum họp với gia đình, trở thành công dân chân chính, góp phần xây dựng xã hội chủ nghĩa bách chiến bách thắng. Thời đó không có cell phone, không có camera nên không thể chụp hình bốn đứa nhỏ, con của Tô Vũ hình dáng, mặt mũi ra sao? Ở miền Nam ta, trước 1975, báo Sài Gòn Mới của bà Bút Trà có đăng chuyện Người Lấy Khỉ”, rất hấp dẫn, báo in ra bao nhiêu, người ta xúm nhau mua đọc. Các báo khác ế nhè, bán không được tờ nào. Giận quá, các báo làm phóng sự, phịa lai lịch bà Bút Trà, bảo rằng Bà Bút Trà là con của ông người”với bà khỉ”đó.

Có Mấy Loài Khỉ? Nhiều vô số. Từ con khỉ nhỏ cỡ ngón chân cái đến con giả nhân, khỉ đột, cao to, nặng hàng trăm ký lô. Tôi thấy có hai loại khỉ. Loại có đuôi và loại không đuôi. Loại không đuôi thì quí vị có thấy rồi. Lúc nhỏ tôi nghe mấy ông kể chuyện Trong rừng có con đười ươi, người đi rừng bị đười ươi bắt được thì nó cầm hai tay người đó cứng ngắt rồi ngửa mặt lên trời, nhắm mắt, nhe răng cười suốt ngày cho đến khi mặt trời lặn thì moi ruột người đó ăn. Vì thế, người đi rừng phải thủ sẵn hai ống tre. Thấy đười ươi thì xỏ tay vô ống tre, đưa cho nó nắm, chờ khi nó nhe răng, nhắm mắt cười thì rút tay ra khỏi ống tre, bỏ chạy. Đó là chuyện xưa. Bây giờ ở Việt Nam, vô phước cho con đười ươi nào gặp mấy ông đi rừng thì chính mấy ông đi rừng đó nhe răng, nhắm mắt cười với nhau rồi móc ruột đười ươi ra nấu lẩu, đưa cay cũng được mấy xị. (Thế nên, vừa rồi, báo chí ở Việt Nam có đăng tấm hình một con đười ươi đưa hai tay có xỏ ống tre cho mấy ông đi rừng cầm, chờ mấy ông đó nhe răng, nhắm mắt cười là rút tay của nó ra, bỏ chạy). Tôi có thấy mấy tấm hình chụp một con khỉ bị người ta giết, cạo lông, để nằm chờ xẻ thịt, trông giống hệt đứa bé chết nằm đó.

Ở Châu Phi, vẫn còn những phiên chợ bán thịt rừng phơi khô, có bán khỉ khô, là khỉ nguyên con, phơi khô. Con khỉ khô nhe răng, tứ chi co rút lại như xác ướp. Người mua chỉ việc lột da, xé ăn, khỏi nấu nướng. Người Việt mình chưa hề thấy con khỉ khô xấu xí cỡ nào, nhưng có lẽ quí vị từng nghe đối đáp giữa cậu và cô như sau: Em yêu anh không?”Yêu cái con khỉ khô!” (Thà yêu con khỉ khô còn hơn yêu ông”). Vì ăn khỉ khô kiểu đó mà người châu Phi bị bịnh Ếch nhái”AIDS. Virus HIV (bịnh liệt kháng) tìm thấy trong khỉ đuôi xồm và khỉ mũi đốm. Virus Ebola (sốt xuất huyết không chữa được) và bệnh đậu khỉ (monkey pox) cũng do mấy ông bà ăn khỉ khô mà các bịnh đó lan tràn ra khắp thế gian. Ở Việt Nam, thời còn phe xã hội chủ nghĩa, Liên Xô nghiên cứu vũ khí hóa học hay chiến tranh vi trùng”gì đó phải dùng khỉ làm mẫu (vật thí nghiệm). Có lẽ là chất kịch độc, sợ thí nghiệm ở bên Liên Xô, rủi có chuyện gì xảy ra thì dân Nga lãnh đủ, nên các khoa học gia Liên Xô đem qua Việt Nam thực hiện thí nghiệm, có nguy hiểm, chết chóc do vi trùng hay chất độc thoát ra ngoài thì dân Việt chết, ráng chịu. Hiện nay mấy con khỉ làm vật thí nghiệm đó tồn tại” trên một hòn đảo ở Nha Trang, gọi là đảo Khỉ.

Đừng khinh loài vật sống theo bản năng, không suy nghĩ. Năm 1990, Christophe Boersch quan sát một bầy hắc tinh tinh ở rừng Tai, thuộc xứ biển Ngà. Chúng thường đập những trái cây có vỏ cứng bằng một hòn đá trên gốc cây. Một con khỉ con đập mãi không được, mẹ nó đến, xoay cạnh hòn đá thì đập được, lấy ruột của quả cho con ăn. Năm 1953, tại đảo Koshima (Nhật), ông Masao Kawai thấy một con khỉ cầm củ khoai dính đầy đất bẩn đem ra một dòng nước rửa sạch mới ăn. Sau bốn năm, phân nửa bầy khỉ đem khoai đi rửa trước khi ăn. Quí vị xem TV thường thấy cảnh mấy con khỉ dùng một cọng cỏ, đút vào lỗ của ổ kiến hoặc ổ mối rồi kéo ra. Kiến, mối bu vào, khỉ bỏ cọng cỏ vào mồm, ăn chúng. Con rái cá, mò mấy con sò dưới sông, nằm ngửa trên mặt nước, để con sò trên bụng, dùng con sò nầy đập lên con sò kia cho bể vỏ sò, lấy thịt ăn. Thú vật thường đùa giỡn nhau là thường. Có một con quạ có trò chơi rất lý thú. Mùa đông, tuyết phủ mái nhà, nó lấy cái lá hay gì đó, để trên nóc nhà rồi đứng lên trên. Cái lá (có con quạ trên đó) trượt trên tuyết xuống phần thấp của mái nhà. Con quạ chơi trò trượt tuyết như người. Chưa hết. Nó ngậm cái lá đó, đem lên nóc nhà, lại đứng lên lá và trượt tuyết tiếp. Con quạ, tuy vậy không khôn bằng con vẹt. Nó biết nói, biết suy diễn theo Tam đoạn luận”đàng hoàng. Chuyện như thế này. Có cô gái nuôi một con vẹt. Nhà không có ai, cô tắm xong, chả mặc áo quần, cứ thế thổn thệnh đi khắp nhà. Con vẹt nghiêng đầu nhìn và kêu lên:Thấy hết rồi nghe!” Lần nào cũng lải nhải câu đó khiến cô gái bực mình vặt trụi lông đầu con vẹt. Từ đó con vẹt chỉ ngắm mà không dám nói. (Tam Đoạn Luận tập 3, trang 50 chỉ rõ: Thấy thì làm thinh mà ngắm. Ngắm thì đừng nói. Nói thì bị vặt lông” ?!). Một lần có nhà sư vào nhà cô gái. Thấy đầu nhà sư không có tóc, con vẹt ngạc nhiên, hỏi Ủa! Thầy cũng thấy hết rồi sao?” Tôi ước được làm con vẹt đó. Nhưng miệng, lưỡi dùng vào việc khác. Dại gì nói để bị vặt lông.

Năm Khỉ, nhiều vị kể chuyện Tôn Ngộ Không, một con khỉ có tài thần thông biến hóa, theo phò Tam Tạng qua Ấn Độ thỉnh kinh Phật về Tàu. Có vị kể chuyện bà Từ Hi thái hậu đãi sứ thần tám nước Âu Mỹ, có món óc khỉ. Mấy chuyện bên Tàu đó, xưa rồi, ai cũng biết.

Tôi xin kể chuyện bên Ấn Độ, ít người biết. Người Ấn thờ hàng trăm,hàng nghìn thần. Thờ từ vật vô tri đến súc vật. Họ thờ thần bò. Mấy con bò đi nghênh ngang có khi nằm nghỉ ở ngã ba, ngã tư, người phải tránh ngài”. Ngài bò có đến các sạp rau quả xơi hết cũng phải kính cẩn đứng nhìn, không được xua đuổi. Tôi xem phóng sự thấy có đền thờ chuột. Chuột bò đầy trong đền, trên bàn thờ, trên cột đền trông thật dơ dáy. Tôi xem mà ghê người, tưởng như ngửi được mùi hôi thối của phân chuột. Người giữ đền có bổn phận nuôi chúng. Buổi sáng, ông ta bưng một khay sữa vào cho quí ngài chuột điểm tâm… Tại sao phải thờ súc vật? Người Ấn tin rằng. Mỗi con vật có thể là hiện thân của ông thần nầy hoặc bà thánh kia. Họ còn tin rằng có thể đó là tổ tiên, ông bà của họ, chết đi, đầu thai thành súc vật.

Vì là bài viết về con khỉ nên tôi xin mấy dòng về tục thờ khỉ ở Ấn Độ. Theo truyền thuyết, tại xứ Kishkinda, một vương quốc khỉ bên Ấn Độ, có một tướng khỉ, tên Hanuman, rất tài giỏi và nhiều phép thần thông. Có lần, Hanuman chơi nghịch, ngậm  cả mặt trời khiến khắp nơi tối thui, người ta phải năn nỉ Hanuman mới nhả mặt trời ra. Hanuman có thể biến thành to lớn, khổng lồ hoặc tự thu nhỏ bằng ngón tay. Về võ thuật, Hanuman có thể phóng lên mây, nhảy một cái xa ngàn dặm. Hanuman, chỉ với một tay, bưng nguyên một quả núi với đầy đủ cây cối trên đó. (Trong Tây Du Ký, tác giả đã chế biến thần Hanuman của Ấn Độ thành con khỉ Tôn Ngộ Không của Tàu. Thì ra, làm hàng giả, ăn cắp bản quyền của người ta (không chỉ hàng hóa mà cả trong văn hóa, nghệ thuật!) đã là bản chất chệt, có tự ngàn xưa rồi!) Vì tin chuyện thần thoại đó là có thật nên dân Ấn Độ làm tượng thờ khắp nơi. Quí vị du lịch Ấn Độ ắt thấy nhiều tượng thần khỉ Hanuman ở các công viên, nơi công cộng. Ở đâu tượng thần khỉ Hanuman cũng cao lớn, có đuôi dài, tay phải cầm cây trùy, tay trái bê quả núi. Dân Ấn tin rằng, khỉ là hiện thân của thần Hanuman nên lập nhiều đền thờ và nuôi khỉ. Ở New Delhi, khỉ có mặt khắp nơi, nhất là khu đồi Raisina. Khỉ nhảy nhót, leo trèo, phá phách trên đường phố, cướp giật hàng hóa, lục giỏ xách người đi chợ. Có con leo cột đèn, bị điện giật chết, người ta phải tổ chức lễ an táng ngài” thật long trọng. Có đánh trống, thổi kèn như đám ma của người Tàu ở Chợ Lớn (nhưng không thổi bài Love Story như đám ma của mấy chú thiếm Chợ Lớn). Đạo quân (Tam phủ) khỉ phá quá! Chịu hết nỗi, tòa án ra lịnh dời đền khỉ vào rừng, cấm không cho khỉ ăn nhưng chẳng ai dám động đến quí ngài khỉ, và vẫn cung phụng ngày ba bữa, tắm rửa thoải mái cho quí ngài. Đúng là trò khỉ!

Ở Việt Nam ta có tương truyền rằng mẹ ông Mạc Đỉnh Chi vào rừng bị khỉ hiếp, sinh ra ông, người nhỏ, tướng xấu xí, chân tay dài thòng, mắt láo liên như con khỉ nhưng rất thông minh. Ông thi đậu tiến sĩ, được nhà vua cử đi sứ sang Tàu. Nhân khi công chúa (Tàu) chết, vua Tàu muốn thử tài sứ Mạc Đỉnh Chi nên đề nghị ông làm một bài văn tế về cái chết của công chúa với chỉ một chữ Nhất. Trạng Mạc Đỉnh Chi hạ bút ngay:

Thiên hương nhất đóa vân.

Hồng lô nhất điểm tuyết.

Thượng uyển nhất chi hoa.

Giao trì nhất phiến nguyệt.

Ô hô!

Vân tán, tuyết tiêu, hoa tàn, nguyệt khuyết

(Trên trời một áng mây/ Lò hồng một giọt tuyết/ Thượng uyển một cành hoa/ Giao trì một vầng nguyệt/ Than ôi! Mây tán, tuyết tan, hoa tàn, trăng khuyết).

Quá hay!

Để chấm dứt bài nầy, tôi xin kể chuyện đức Phật, trong một lần thuyết pháp, có nhắc đến con khỉ để nêu một ẩn dụ: Trong kinh A Hàm có chép, Phật kể đại ý rằng: Có người thợ săn lấy nhựa cây gài bên thức ăn để nhử đàn khỉ. Có con khỉ đến bốc thức ăn, ngờ đâu dính nhựa cây, không gỡ ra được. Khỉ lấy tay kia gỡ ra, lại bị dính vào, khỉ lấy hai chân gỡ ra, cũng bị dính nốt. Khỉ dùng đuôi gỡ ra, cũng bị dính. Sau cùng khỉ dùng miệng cạp, cũng dính luôn. Thợ săn chỉ việc đến bắt khỉ. Đức Phật dạy: Này các tì kheo. Nhựa cây kia ví như lục dục, sáu bộ phận bị dính vào nhựa ví như lục căn. Như chú khỉ kia, khi lục căn bị dính vào lục dục thì sẽ bị ma quỉ tùy ý dẫn đi”.

Tuoi-Than

Phạm Thành Châu

Có Quê Hương Trong Giọng Nói Người Mình

Nguyễn Quang Dũng

qtri image 2

Tôi rời quê nhà, vượt biển với vợ con tìm tự do, năm 1981. Lúc đó tôi 27 tuổi. Đến nay như vậy đã hơn 30 năm xa xứ. Và Tết vẫn là khoảng thời gian nhắc nhớ nhiều nhất trong tôi về quê hương khốn khó Việt Nam.

Năm đầu tiên xa nhà, tôi ăn Tết ở trại tỵ nạn Bataan.
Tối giao thừa, tôi nghe bà con trong trại tỵ nạn xách nồi niêu, soong chảo, thùng thiếc lên mái nhà khua gõ ầm ĩ… thay cho tiếng pháo mừng xuân. Trong bóng đêm của trại tỵ nạn không có khung cảnh quen thuộc, ấm cúng mà trang nghiêm, của Ba tôi thắp đèn cầy, đốt nén nhang trên bàn thờ tổ tiên đã chưng đầy hoa quả, khấn vái cầu nguyện cho một năm mới bình yên, tôi bỗng thấy nhớ nhà vô hạn.
Nhớ nhà và buồn muốn khóc.

Tới Mỹ năm 1982, vất vả với những lo toan cho đời sống mới trước mặt, tất bật với ngày đêm và công việc mưu sinh, nhiều khi quên bẵng đi chuyện nhớ nhà, thì vẫn là ngày Tết nhắc nhớ trong tôi đến Ông-Bà-Cha-Mẹ-Anh-Em. Vậy mới biết những gì tôi lớn-lên-và-sống-với từ thuở nhỏ ở quê nhà đã ăn sâu trong tiềm thức tôi.

Tôi và vợ tôi lui hui dựng lại cái bàn thờ Tổ Tiên trong căn nhà mình ở Mỹ theo trí nhớ.
Tượng Phật Bà Quan Thế Âm thì bọn tôi xin được từ lúc đi lau chùi nhà bếp và cắt cỏ ở nhà một Ông Tướng người Mỹ từng chỉ huy lực lượng quân sự của Mỹ tại Việt Nam. Bức tượng Phật Bà bằng đá Non Nước Đà Nẵng rất đẹp nhưng bị đặt nằm dưới đất trong một góc vườn của vợ chồng ông tướng. Với mớ tiếng Anh rất còn lơ mơ của tôi lúc đó, tôi hỏi bà Tướng là tại sao bà lại để lăn lóc tượng Phật Bà như thế này? Bà ấy rất ngạc nhiên, nhưng cuối cùng thì cũng hiểu ra và giải thích với tôi là bà ấy không hiểu về Phật giáo và không biết bức tượng là một biểu tượng thiêng liêng đối với chúng tôi như vậy. Và bà bèn tặng vợ chồng tôi tượng ấy. Tôi không bao giờ quên ông bà Tướng người Mỹ rất tốt bụng này.
Những thứ còn lại là chân đèn cầy, bình thắp hương, bình cắm hoa, dĩa chưng hoa quả và hình ảnh những người thân đã khuất. Vậy là tạm đủ cho Bàn Thờ Ông Bà, theo những gì bọn tôi còn nhớ.

Giao Thừa những năm đó, khoảng thập niên 90, chỉ có tôi và vợ tôi loay hoay chưng hoa quả nhang đèn trên bàn thờ Tổ Tiên. Đúng giao thừa, tôi đốt nén nhang khấn vái Ông Bà – cũng giống như Ba tôi vẫn khấn vái như vậy vào Lễ Giao Thừa.
Trong giây phút cuối năm ấy, trước bàn thờ Tổ Tiên, hình như tôi vẫn muốn được trở về, sống lại cái khung cảnh quay quần với Ba Má anh em tôi trong phút Giao Thừa.
Tôi vẫn thấy nhớ nhà và nghèn nghẹn muốn khóc.

Ở những khoảnh khắc chuyển giao của cũ và mới, của kết thúc và bắt đầu, của năm cũ và năm mới tôi nhận ra quê hương không phải là những gì trừu tượng, xa vời trong trí tưởng mà đó là những tình cảm rất rõ nét tự lúc nào đã bám chặt trong tôi. Là Ba tôi. Là Má tôi. Là Anh Em tôi. Là Nơi Chốn tôi sinh ra và lớn lên.

Dần dà, tôi tiếp xúc và tham gia sinh hoạt với những người đồng hương trong vùng tôi ở và quen dần với những cái tết xa quê.
Sinh sống giữa nơi chốn của người Mỹ và những người nói tiếng Mỹ, tôi vẫn khựng lại khi nghe tiếng người đàn ông hay đàn bà la rầy con bằng tiếng Việt, tiếng người mình, ở những siêu thị hay ở những nơi mà tôi không nghĩ là nghe được tiếng Việt.
Thì ra tự trong giọng nói người Việt mình tôi nhận ra trong tôi một sợi dây liền lạc, một nỗi gắn bó với quê nhà giờ đã xa tít nửa vòng trái đất.

Tôi nhận ra ở cộng đồng người Việt ở đây có rất nhiều Hội Ái Hữu mang tên những vùng đất ở Việt Nam. Hội Gò Công. Hội Long Xuyên. Hội Nha Trang. Hội Huế. Hội Quảng Đà. Hội Đà Lạt. Hội Quảng Trị….
Tôi nhận ra sợi dây liên lạc với quê hương giữa những người đồng hương nằm ngay trong giọng nói quê nhà. Gần gũi và thân tình nảy sinh một cách tự nhiên khi người mình gặp nhau, nghe lại được những giọng nói rất đặc thù Việt Nam – rất “Quảng Nam”, rất “Huế”, rất “Sàigòn”, rất “Nha Trang”, rất “Quảng Trị”…

Ba Má tôi gốc Quảng Trị – chánh quán làng An Du Nam, Vĩnh Linh, Quảng Trị. Trước 1975, An Du Nam nằm bên kia vĩ tuyến 17, bên kia sông Bến Hải, thuộc miền Bắc.
Ba tôi, một công chức trung cấp của chính quyền miền Nam, trôi nổi theo vận nước từ Quảng Trị xuôi về miệt miền Nam. Cư sở cuối cùng của ông là Sài Gòn. Tôi dĩ nhiên
cũng đi theo ông. Từ Phan Rang ra Nha Trang, rồi Kontum, về lại Nha Trang, và trước 1972, tới ở Sàigòn cho đến ngày mất nước. Vì di chuyển theo Ba tôi đó đây như vậy nên tôi dường như không gắn bó với vùng đất nào của quê nhà.
Nhưng có một điều theo tôi suốt từ nhỏ tới lớn, không rời: Đó là giọng nói Quảng Trị của Ba Má tôi. Tôi nghe và rất quen thuộc giọng Quảng Trị của Ba Má tôi từ nhỏ, nhưng không nói được giọng Quảng Trị, có lẽ là do tôi sinh tại Phan Rang và lớn lên trong Nam.
Tôi gặp lại các anh Lê Quyền, Phan Khâm, Nguyễn Bồng trong Hội Quảng Trị vùng Hoa Thịnh Đốn trong các sinh hoạt cộng đồng người Việt vùng Thủ Đô. Tôi được nghe lại giọng nói quê mình.
Giọng nói của các anh giống như giọng nói của Ba tôi. Rất Quảng Trị. Không lầm lẫn đâu được. Đó là giọng nói của nằng-nặng-triũ-buồn-trong-âm-hưởng. Tôi nhớ Má tôi nói với tôi là – “ngoài quê mình sống cực lắm con ơi.” Có phải chăng là cuộc sống kham khổ trên mảnh đất Quảng Trị quê nhà làm giọng nói người Quảng Trị mình cũng bị trĩu nặng vì những lo toan?

Tết lại gần tới, khi viết những dòng này, tôi lại thấy nhớ quê nhà. Và nhớ hình ảnh Ba tôi lui hui khấn vái trước bàn thờ tổ tiên đêm Giao Thừa.
Ba tôi mất tháng 8 năm 2010, tại Sàigòn.

Tôi đang rất nhớ giọng nói Quảng Trị của Ba tôi. Hình như quê nhà đang vương vương trong ánh mắt.
Tôi lại thấy lòng buồn. Muốn khóc.

Nguyễn Quang Dũng
VA, những ngày gần Tết

Cô Gái Huế với Tranh Thiếu Nữ của họa sĩ Ðinh Cường

Phạm Thành Châu

dinh cuongthieunutrong thanhnoi-1984

Trí nhớ, khoảng năm 1970, sau khi tốt nghiệp trường Hành Chánh, tôi được bổ về Thừa thiên, Huế, làm việc.  Nhiệm sở là quận Quảng Ðiền, với chức vụ Phó Quận Hành chánh. Quảng Ðiền cách Huế vài chục cây số, có cái địa danh rất nhiều người biết là phá Tam Giang với hai câu thơ “Thương em anh cũng muốn vô. Sợ truông nhà Hồ, sợ phá Tam Giang”. Phá Tam Giang cách quận lỵ, là chợ Ngũ Xã, chừng một cây số.

Thỉnh thoảng tôi ra đứng nhìn cái đầm nước rộng mông mênh đó mà chẳng thấy một chút xúc động, mơ mộng nào. Phía bên kia mờ mịt bờ dương liễu xanh thẫm, xa đến nỗi thành một vạch dài, chia cắt nước với trời. Sau lưng tôi là bờ đất với những cây dại rải rác. Làng xóm ở tít đằng xa. Sau lũy tre xơ xác là những ngôi nhà tre lụp xụp bên cạnh những thửa ruộng, những con đường quê vắng vẻ. Chiến tranh đã tiêu diệt một số người, một số khác tìm về thành phố sống lây lất, chỉ còn lại những người liều chết, sống bám ruộng đồng để săn sóc mồ mả tổ tiên, ông bà, cha mẹ …

Không rõ thời phát sinh hai câu thơ trên, phá Tam Giang nguy hiểm ra làm sao, chứ lúc đứng nhìn mặt nước yên tĩnh, bao la, tôi chẳng thấy sóng gió gì cả. Vậy mà cái anh chàng bạc tình nào đó nỡ ngâm nga hai câu thơ trên để nại lý do không thể vào Huế gặp “em”. Hay là anh ta cũng có cố gắng vượt truông nhà Hồ vào đến phá Tam Giang, thấy cảnh vật quá đìu hiu, anh ta cụt hứng, tặc lưỡi một cái và quay về với cô hàng xóm?

Ðã vậy có người còn bày đặt, thêm hai câu “Phá Tam Giang giờ này đã cạn. Truông nhà Hồ Nội tán cấm nghiêm”. Cô nào mà thèm nói như thế ? Thứ con trai hèn nhát, “thiếu tư cách” cỡ đó mà người đẹp phải năn nỉ ? Cô gái Huế, từ bao đời nay, là tiểu thư khuê các, vương tôn công tử thiếu điều quỳ lạy, chắc gì được để mắt đến, chưa nói đến gia pháp nghiêm minh, kín cổng cao tường, làm sao có chuyện liên hệ nam nữ, dù là quen biết, với một người con trai ở xa đến độ phải vượt truông nhà Hồ, vượt phá Tam Giang?…

Ủa? Thế còn tranh thiếu nữ của hoạ sĩ Ðinh Cường đâu, sao không nói đến? Xin thưa, vì yêu cô gái Huế quá nên tôi lạc đề. Mà cái tình yêu đó có nguyên nhân sâu xa nên tôi xin được phép dài dòng thêm chút nữa.

Năm đó tôi khoảng 15 tuổi, ở Hội An. Nhân dịp nghỉ hè, tôi rủ thằng bạn hàng xóm (đó là thằng Ðỗ Ðình Tân), hiện nay ở Philadelphia, làm một chuyến phiêu lưu ra Huế. Hai đứa tôi chưa biết Huế bao giờ, không có bà con nào ở Huế, vậy mà cứ đón xe đi bừa. Trong túi chẳng có nhiều, chỉ đủ trả tiền xe đò, còn thừa chút đỉnh thì ăn bánh mì không (không có nhân), uống nước máy bên đường. Chúng tôi xuống xe ở bến An Cựu, bắt đầu lang thang khắp nơi. Ðến giốc Nam Giao, qua nhà ga, thăm trường Ðồng Khánh, trường Quốc Học, qua cầu trường Tiền, đến chợ Ðông  Ba, vào thăm Ðại Nội…  Nghĩa là đọc sách, rồi hỏi người ta nơi nào nổi tiếng ở Huế là đến. Buổi chiều, sau khi rã cẳng, hai đứa tôi đến bãi cỏ trên bờ sông Hương, ngay trước  nhà sách Ưng Hạ  nằm dài ra, vừa chuyện trò vừa đón gió mát… Khi đèn đường sáng lên thì trời cũng chạng vạng. Hai đứa tôi chợt thấy bên kia đường, một cô bé đi qua, tay ôm chiếc chiếu. Cô lớn hơn tụi tôi khoảng vài tuổi, người mảnh khảnh, tóc ngang vai, mặt trái xoan dài trông vừa yểu điệu vừa ngây thơ. Có lẽ cô xem hai đứa tôi như em nên cử chỉ, lời nói rất tự nhiên tuy trong lúc đối đáp cô không xưng chị mà cũng không gọi tụi tôi bằng em. Giọng vui mà dịu dàng, cô nói là cho tụi tôi mượn chiếc chiếu để ngủ, sáng mai đem trả lại. Cô chỉ nhà cô, bên kia đường. Có lẽ ba mẹ cô đứng trên lầu thấy hai thằng nhỏ vô gia cư nên sai con gái đem qua cho mượn chiếu. Chúng tôi rất cảm động, lí nhí cám ơn. Ðã tử tế cho mượn chiếu, cô còn ân cần hỏi thăm mấy câu “Nhà ở mô?” “Ở Hội An” “Hội An là ở mô?” “Ði vô Ðà Nẵng rồi đi vô Hội An, xa lắm” “Có đi học không?” “Có, học trường Trần Quý Cáp”. Cô cười, miệng rất đẹp, mắt cũng rất đẹp. “Con trai đi chơi sướng hỉ”. Cô đi qua đường, vô nhà rồi mà hai đứa vẫn còn ngẩn ngơ. Ðược người đẹp nói chuyện thân mật như thế, là lần đầu trong đời nên tôi cứ tưởng cô là cô tiên trong truyện cổ tích vậy. Và hình ảnh cô, lời cô nói, đôi mắt, miệng cười của cô, tôi nhớ mãi đến bây giờ … Buồn ngủ lại gặp chiếu hoa, lại là chiếu do người đẹp đưa, chúng tôi trải lên cỏ, êm như nằm nệm. Hai đứa tôi ngủ thẳng một giấc đến sáng. Tỉnh dậy mới biết là bị mất giày sandale (giày có quai) và cả mũ hướng đạo (mũ rộng vành) nữa. Thời đó, giày có quai và mũ rộng vành là thời trang của học trò. Ðành mua một đôi giép rẻ tiền đi tạm.

dinhcuong theo em ve hue

Chừng đó tuổi mà tôi đã biết mê gái, nên tôi giành phần đi trả chiếu. Lần này tôi thấy cô đẹp hơn hôm qua, nhưng không biết làm thế nào để kéo dài thời gian gặp gỡ, tôi đành hỏi “Xuống sông tắm có được không?” Cô nhìn tôi, mắt sáng trưng vẻ như ngạc nhiên và cô cười “Ðược.” Ðoán chừng cô sẽ lên lầu xem hai đứa tôi làm gì nên tôi nổi máu anh hùng, cởi đồ nhảy xuống sông biểu diễn bơi lội. Cái bờ sông Hương rất cao, đứng nhìn qua bên kia, thấy gần nhưng xuống nước tôi bơi hoài, mỏi nhừ cả chân tay mà vẫn chưa đến bờ. Cầu Trường Tiền sáu vài mười hai nhịp thì sông Hương đâu phải hẹp. Khi đến bờ bên kia, tôi sợ quá không dám bơi trở lại nữa. Thế là tôi cứ mình trần, mặc chiếc quần đùi ướt mem, chạy dọc bờ sông, lên cầu Trường Tiền, chạy vòng về chỗ cũ. Xứ Huế, bấy giờ, các bà gánh hàng bán ngoài chợ còn mặc áo dài, thì cảnh một thằng nhỏ cứ trần trùng trục chạy ngờ ngờ qua cầu trên đường phố là một chuyện lạ. Có lẽ họ tưởng tôi điên. Khi về đến  nơi, tôi nhìn qua bên kia đường, thấy cô bé đứng trên lầu, tựa lan can, nhìn tôi cười. Tôi không nhớ mình có mắc cỡ không, nhưng tôi cũng nhìn cô cười. Và tôi yêu cô ta từ đấy. Tự nhiên mà yêu chứ chẳng có nguyên nhân nào cả. Vì yêu cô bé đó mà tôi yêu lây tất cả các cô gái Huế. Tôi yêu lòng tốt của cha mẹ cô và yêu thương luôn người dân Huế .

Thời đó còn nghỉ hè, trường học đóng cửa, nhưng tôi cũng có gặp được nhiều người đẹp trên các đường phố. Cô nào cũng đẹp dịu dàng và làm điệu khi được con trai nhìn. Dĩ nhiên hai thằng nhà quê, ngơ  ngáo như tụi tôi thì cô nào mà thèm làm điệu.

Sau này, khi vào Sài Gòn học, xem triển lãm tranh của họa sĩ Ðinh Cường, thấy tranh thiếu nữ của ông ta, tôi biết ngay là ông vẽ các cô gái Huế. Ðúng hơn, ông vẽ cô bé mà tôi yêu. Nếu Từ Bi Hồng của Trung Hoa ngày xưa nổi tiếng vẽ về ngựa thì họa sĩ Ðinh Cường vẽ tranh thiếu nữ là tuyệt vời. Vị nào đã sống ở Huế một thời gian, đã thấm được cái hồn của Huế, đã cảm nhận được những gì giấu kín sau gương mặt bình thản như lạnh lùng của cô gái Huế thì mới thấy tranh ông đã thể hiện được cái nội tâm bí ẩn đó Dòng sông Hương lặng lờ, những con đường yên tĩnh. Ðại nội, lăng tẩm, đền đài lúc nào cũng như ngủ say với thời gian, ngay cả con người trên đường phố, cũng di chuyển từ tốn, thong thả … Nhưng không ai biết rằng, trong những khu vườn tưởng chừng vắng vẻ, trong những ngôi nhà cổ kính im lìm, ngay cả trong những cửa hàng buôn bán, những cuộc gặp gỡ quen biết, bao giờ cũng xôn xao những tin đồn, những lời đàm tiếu khắt khe, có khi đến cay độc của những người đàn bà, những cô gái thì thầm về những người đàn bà, những cô gái khác. Và thế là, như một truyền thống tất cả đều được giấu kín. Các cô, từ bé, đã được dặn dò là phải đề phòng một thứ gió độc, vô hình nhưng nguy hiểm, đó là dư luận. Người lớn tuổi làm gương cho lớp trẻ thấy cách thức che giấu những ý nghĩ, những tình cảm của mình. Nhưng khổ nỗi, tuổi mới lớn nào mà không mơ mộng. Tâm hồn cô nào cũng như sợi tơ trước gió, chỉ một chút giao động là đã ngân lên biết bao âm điệu ngọt ngào, thánh thót. Nhưng biết làm sao? Chỉ có họa sĩ Ðinh Cường mới “vẽ ” được những bâng khuâng, những mơ mộng vẩn vơ đó ẩn dưới cái vẻ yểu điệu thục nữ, dưới gương mặt dịu dàng nhưng làm như vô tình  của các cô gái Huế.

Thời còn đi học ở Sài Gòn trước 75, xem tranh Ðinh Cường, bao nhiêu năm rồi mà tôi vẫn còn nhớ hầu  hết các tranh thiếu nữ của ông, chân tay khẳng khiu, cổ cao, ngực chưa phát triển. Ðó là những cô bé điển hình trong những gia đình nền nếp ở Huế. Các cô được nuông chiều quá nên thành nhõng nhẽo, khó tính. Các bà mẹ thường kêu lên “Nó không chịu  ăn. Có ngon bao nhiêu, dỗ dành bao nhiêu, cũng chỉ ăn có chút xíu. Không biết tại sao nữa?” Thì tại sao! Tuổi đó phải ăn quà rong mới lớn được. Tuổi đó phải nô đùa, cười nói, chạy nhảy mới phát triển. Mà các bà mẹ Huế thì cấm tiệt. Thỉnh thoảng lắm, các cô mới lén rủ nhau đi ăn chè Cồn, ăn bánh bèo Vỹ Dạ. Bún mụ Rớt thì chỉ nghe người khác khen ngon hoặc họa hoằn lắm mới liều đi ăn thử, để biết với bạn bè . Ở nhà cũng có bún, có chè, nhưng các cô không thấy ngon vì không có bạn bè cùng sì sụp với nhau. Các cô không thấy ngon vì thiếu cái khung cảnh chộn rộn của quán ăn, thiếu làn gió mát sông Hương, thiếu cây cỏ, đường đất khó khăn khi chở nhau trên chiếc xe đạp và nhất là thiếu bóng dáng mấy cậu học trò cứ lởn vởn, lượn lờ chung quanh với những lời chọc ghẹo vu vơ, bóng gió …

Tôi nhớ mãi bức tranh ông vẽ một cô, giống cô bé đã cho hai đứa chúng tôi mượn chiếc chiếu. Cô choàng khăn nhiều màu rực rỡ. Có lẽ vào mùa thu, gió thổi tung chiếc khăn, thổi tung cả mái tóc, thổi tung cả tâm hồn mới lớn, yêu người, yêu đời của cô… Và những cành lá của hàng cây bên đường cũng lao xao, rung động. Nền là bầu trời xám nhưng vẫn còn sáng lên những tia nắng rực rỡ … Vẻ mặt cô điềm tĩnh, nhưng người xem vẫn cảm nhận được những xao xuyến trong lòng cô. Một bức khác, vẽ những cô gái đi chơi xuân. Hoa nở khắp nơi, hoa nở chung quanh các cô. Hàng cây bên đường cũng sáng lên như nở hoa. Vẫn những cô gái mới lớn nhưng trông các cô vui và bối rối, như đang túm tụm, quýnh quýu với nhau. Người xem tranh cứ tưởng vì mình ngắm các cô trong tranh khiến các cô mắc cỡ nhưng vui thích. Một bức khác vẽ một cô đi học, mắt nhìn thẳng, vẻ tự tin và “xem thường bọn con trai”. Bạn có khi nào ra Huế và đứng ngắm các cô nữ sinh Ðồng Khánh đi học về chưa? Nếu bạn gặp các cô về trên con đường nhỏ trong Thành Nội thì càng thú vị. Nên thơ vô cùng. Nhưng dù gặp bất cứ đâu, cũng chẳng có cô nào thèm nhìn bạn. Có điều bạn không ngờ, chỉ một cái liếc mắt, dáng người, vẻ mặt cử chỉ bạn đã được các cô nhận biết rất rõ ràng, tỉ mỉ. Các cô còn biết bạn nhìn cô nào nhiều nhất nữa. Nhưng tuyệt đối, không có cách nào bạn gợi chuyện mà các cô trả lời. Vì hễ trả lời là các cô bị dư luận đàm tiếu ngay. Ở Huế, hàng cây bên lối đi, ghế đá công viên, đèn đường buổi tối, bờ sông lộng gió … Chúng như có mắt có tai. Cô nào gặp ai ở đó, nói gì, làm gì, tức khắc, chúng kêu lên và cả thành phố đều biết. Các cô uất ức lắm, chỉ muốn phá vỡ, đạp tung ra, nhưng không được. Vậy là các cô làm cách mạng trong văn, thơ. Những chuyện tình nóng bỏng, những giao tiếp nam nữ nồng nàn, cuồng nhiệt… Các cô tung hê, rên rỉ, chửi rủa. Và chửi rủa thẳng vào cái nề nếp cổ hủ, khắt khe, lạc hậu của dư luận xứ Huế. Ða số các nữ sĩ nổi tiếng đều là người Huế. Có một cách giải thoát nữa là các cô theo gia đình ra khỏi Huế.  Lúc đó các cô như chim sổ lồng. Các cô vui tươi, thảnh thơi, thoải mái. Các cô cùng bạn bè thả rễu trên đường phố, liếng thoắng cười nói, cãi vã, sà vào hàng quà rong, chép miệng, hít hà vì cay, vì ngon, chẳng thèm nhìn chừng chung quanh như lúc còn ở Huế. Trong sân trường, các cô chạy nhảy, đuổi bắt nhau, rồi đốp chát, cả đến chọc ghẹo các bạn trai.

Thời còn trung học, ở trong Nam, lớp bạn có cô nào người Huế không? Thật tuyệt vời. Cả lớp như hân hạnh có được cô bạn tiểu thư đến học chung. Bạn vào lớp mà lòng cứ háo hức, muốn nổi bật trước người đẹp, nhất là khi được cô ta chuyện trò với bạn bằng thứ tiếng Huế pha giọng miền Nam, thì tim cứ mềm nhũn ra! Giọng cô vừ thánh thót  vừa ngập ngừng như nũng nịu .. Nũng nịu vì biết bạn bè, cả bạn gái nữa, thương yêu, nuông chìu.

Làm việc ở Huế, tôi thường lảng vảng trước nhà cô bé ngày xưa đã cho tôi mượn chiếc chiếu, trên đường Trần Hưng Ðạo, nhưng hình như nhà đã đổi chủ. Không thấy cô nhưng hễ đi ngang qua là tôi vẫn dòm chừng, vừa hy vọng vừa buồn vẩn vơ. Tôi  được biết họa sĩ Ðinh Cường cũng ở Huế, ông dạy Hội họa ở trường Mỹ thuật,  và các trường Ðồng Khánh, Quốc Học, Thành Nội (Hèn chi ông vẽ các cô nữ sinh Ðồng Khánh hay quá!), nhưng tôi không quan tâm đến ông, chỉ chờ ông triển lãm tranh để đi xem mà thôi. Vả lại, mình không phải văn nghệ sĩ, tiếp xúc với họ, mình thành lạc lõng ngay. Chuyện gặp gỡ sau đây, bạn sẽ thấy các ông văn nghệ sĩ, càng tài hoa càng không giống “người phàm” chút nào.

dinhcuong de nho hue

Một buổi tối, có người bạn đánh xe đến rủ tôi vào Ðại nội thăm họa sĩ Ðinh Cường. Xe chạy qua cửa Hiển Nhơn, vào các con đường hẹp, lát đá, hai bên là tường cao, cây cối um tùm, đèn đường tù mù, vàng vọt. Ðại Nội, tức hoàng cung là nơi gia đình nhà vua ở và làm việc, nay bỏ hoang. Ban ngày, vào Ðại Nội, đã thấy vắng vẻ, ban đêm lại càng âm u như cảnh liêu trai, người lẫn lộn với hồn ma, bóng quế. Nhà hoạ sĩ Ðinh Cường ở cạnh trường Mỹ Thuật Huế, trước đây là văn phòng của hoàng đế Bảo Ðại khi ngài còn làm Quốc trưởng. Khi chúng tôi xuống xe, đã thấy trước nhà ông mấy vị ngồi quanh một cái bàn nhỏ, tay cầm một ly rượu, im lặng như mấy pho tượng. Bạn tôi giới thiệu tôi với họ, chỉ thấy họ gục gặc đầu thay lời chào. Tôi cũng làm như vậy cho hợp cách. Tôi được biết đó là những họa sĩ Văn Ðen, Mai Chửng, Hiếu Ðệ, Bửu Chỉ, Trịnh Cung… và một số nhà văn nổi tiếng từ Sài Gòn ra. Rồi ông Ðinh Cường từ trong nhà đi ra. Ông rót cho chúng tôi ly rượu, tôi cũng cầm và ngồi xuống như họ. Ngồi một lát, tôi chán, đòi về. Lúc đó ông Ðinh Cường mới nhờ tôi sáng mai, chủ nhật, đưa dùm mấy người bạn từ Sài Gòn ra, đi xem lăng tẩm, chùa chiền. Tôi nhận lời nhưng báo trước là xe tôi tệ lắm, sợ mất uy tín mấy ông mà thôi. Nguyên nhân, là khi về nhận nhiệm sở thì không có phương tiện cho ông phó (là tôi) đi công tác. Tay Quận trưởng mới lôi chiếc xe Jeep phế thải từ thời Thế chiến thứ hai ra, kêu mấy tay thợ sử máy cày đến, đục đục, gõ gõ, lui cui mấ ngày thì xe nổ máy, nhưng cái trần thì mục rã, thành một lỗ trống hoác phía trên. Sáng hôm sau, khi tôi đưa chiếc xe cà tàng đó đến thì các ông đứng sẵn ở đấy cứ trố mắt ra mà trầm trồ, suýt soa, coi bộ khoái chí lắm. Khi xe chạy, các ông chen nhau đứng lên, thò đầu qua cái trần xe thủng, nhìn phố xá, nói cười hí hửng như trẻ con. Thiên hạ đi đường nhìn các ông mà kinh ngạc. Cả đến ông cảnh sát chỉ đường trước ty Thông tin cũng đứng nhìn sững, quên cả nhiệm vụ. Nhưng khi xe ra ngoại ô, đến chùa Từ Hiếu thì các ông trở lại yên lặng. Mỗi ông đứng riêng một góc. Ông thì nhì vô chùa, ông thì ngóng ra đồi thông, ông lại quay ra mấy cái mả … Chẳng biết các ông suy nghĩ gì mà không nói với nhau tiếng nào? Tôi chán nhưng cũng đành ngồi ngáp gió, chờ các ông chứ không bỏ về được. Xem thế đủ biết các ông văn nghệ sĩ không giống ai. Nhưng cũng có nhiều người lại thích giao thiệp với họ, kiểu dựa hơi để kiếm chút thơm lây. Giống như tên đánh xe cho quan Tể tướng ngày xưa bên Tàu vậy. Người ta chào quan Tể tướng mà tên đánh xe tưởng người ta chào hắn, mặt cứ vênh lên. Thì chính tôi cũng là tên đánh xe, đang khoe nhặng lên đây nè !

Nữa, lại lạc đề rồi! Xin lỗi, tôi xin trở lại chuyện tranh thiếu nữ của họa sĩ Ðinh Cường. Năm 75, sập tiệm. Tôi đi tù rồi đi HO qua Mỹ. Xui khiến sao tôi và hoạ sĩ Ðinh Cường ở cùng tiểu bang Virginia, nhà cũng gần nhau. Ông không nhớ ra tôi nhưng tôi thì nhận ra ông vì ông trông giống hình ông Tổng thống Mỹ trong tờ trăm Ðô la.

Tôi xin phép được đến nhà ông để xem tranh.  Tranh ông bây giờ tuyệt vời hơn trước, từ bố cục, đường nét đến màu sắc. Nhất là màu sắc, ông đi màu như ông đã “ngộ ” với màu, chìm đắm, hòa nhập với màu vào tranh. Ông vẽ tranh bằng cái tâm, cái hồn của ông chứ không bằng tay, bằng cọ … khiến người xem rung động, hạnh phúc… Nhiều nhà văn, nhà thơ hải ngoại ra sách đều nhờ ông cái tranh bìa. Thơ, truyện có hay có dở, nhưng rủi mua nhằm sách dở thì cái tranh bìa Ðinh Cường cũng an ủi rất nhiều. Cái bìa lộng lẫy, sang trọng đã đáng tiền rồi.

Có lần nghe đài RFI (Pháp) phỏng vấn, ông bảo có chịu ảnh hưởng của họa sĩ Modigliani, nhất là về tranh thiếu nữ, nhưng tôi vẫn thấy tranh ông có những nét độc đáo, rất Việt Nam, rất Huế.  Hình như ông đang mở ra một hướng mới cho tranh ông. Có những bức tranh, phải vừa thưởng thức vừa suy tư để tìm xem nhân vật trong tranh đang nghĩ gì, và sẽ làm gì ?… Tuyệt vời nhất là tranh khỏa thân. Chỉ vài đường cọ, tất cả hiện nguyên một cô gái. Dầy dầy sẵn đúc một tòa thiên nhiên. Nhưng trông cô ngây thơ, hoang dã và thánh thiện đến độ người xem không thấy ham muốn gì hơn là ao ước được ôm hôn cô và cảm thấy mình cũng thánh thiện như cô. Tôi nhớ cô bé ngày xưa, nhớ tranh thiếu nữ của ông quá. Tôi đến để tìm xem, nhưng ông không còn vẽ các cô  gái mới lớn nữa mà ông vẽ các cô đã trưởng thành, nẩy nở toàn vẹn, giống như tranh phụ nữ vài thế kỷ trước. Nhưng tranh cổ điển quá khêu gợi, quá dung tục. Tranh ông kín đáo hơn. Chỉ để lộ một phần quần trắng ở chỗ mông tròn lẳn, thơm tho, như mời gọi, mà tà áo dài không che hết được. Vẻ mặt cô gái như trầm ngâm, suy tư…

Tôi nghĩ đến cô bé ngày xưa đã cho tôi mượn chiếc chiếu, bây giờ có lẽ cô cũng đã lớn như thế Nhưng hiện nay cô ta ra sao? Cô ta ở đâu? Cô đâu có ngờ rằng, một lần cô vô tình nhìn tôi cười mà tôi nhớ đến cô mãi.

Họa sĩ Ðinh Cường không còn vẽ tranh thiếu nữ tuổi mới lớn nữa. Ông đã để những cô bé mới lớn đó và cả những mơ mộng, nhớ nhung vẩn vơ của tôi ở lại bên kia bờ đại dương xa xôi.

Phạm Thành Châu

Trận Tuyết Mùa Xuân Bất Ngờ

Truyện Nhật Bản của SAE SHUICHI
 SƠN TÙNG dịch từ bản Anh ngữ của Miyamoto Noriko

snow_0

– 1 –

Trong suốt hai mươi năm Osugi làm chủ một trà thất, chưa bao giờ xảy ra một việc như vậy trước đây.

Hoàng hôn đang xuống. Những cơn gió lạnh mùa đông không ngừng thổi, bứt đi và tung rải ra những chiếc lá vàng cháy cuối cùng của cây zelkova ở bên hông trà thất. Người đàn bà đến từ hướng Futatsuya trên xa lộ Tôkaiđô, trông giống như đang bị cơn gió săn đuổi. Bà ta ngồi sụp xuống chiếc ghế dài dưới mái hiên trà thất.

– Chào bà. Mừng bà chiếu cố trà thất của chúng tôi.

Osugi đang nghĩ đến việc đóng cửa, nhưng bây giờ nàng sẵn sàng rời chỗ ngồi bên lò sưởi và hối hả bước ra cửa.

Vào khoảng thời gian này hàng năm, dòng người hành hương đến Enoshima và Ôyama đột ngột ngưng lại, và khung cảnh trở nên yên tĩnh cho đến cuối năm. Vào mùa bận rộn, những người có sức khỏe đều rời Edo vào sáng sớm, đến các quán trọ ởFujisawa trên xa lộ Tôkaiđô trước khi trời tối và nghỉ đêm ở đó. Sáng hôm sau, họ đi lễ tại đền thờ thần tài – Banzai-ten – trên Enoshima, và đi ngang Fujisawa lần nữa trước khi trực chỉ Ôyama.

Tương đối ít người chọn phía lề đường đi ngang Tsujiđô, nơi trà thất tọa lạc. Dầu sao thì trà thất chỉ cách Enoshima có nửa dặm, vì vậy những người đi từ Enoshima để hành lễ tại Ôyama có thói quen đi gấp mà không dừng lại. Những người dừng chân nghỉ là những người già yếu đến từ hướng khác, từ Ôyama đến Enoshima, họ hưởng vội đôi phút nghỉ ngơi trước khi rảo bước trên bờ Vịnh Sagami để sang Enoshima ở phía bên kia.

Cái quán trà nhỏ không có nhiều khách hàng, nhưng Osuji đã cai quản nó từ khi mười chín tuổi và kết hôn với Kumazô, một người vác kiệu tại những quán trọ ở Fujisawa. Trước kia còn có bà mẹ chồng phụ giúp, bây giờ chỉ còn một mình.

– Hôm nay gió quá. Trời lạnh thật bất ngờ. Hẳn là bà phải mệt lắm.

Nói với giọng ấm áp, Osugi bước tới gần người khách hàng và nhận ra người đàn bà gập mình khó chịu, bám lấy một cây gậy tre với hai vai nhô lên. Người đàn bà ăn vận theo cách đi đường xa: một chiếc khăn tay được cột quanh đầu để chống gió, một chiếc giỏ tre bọc trong một miếng vải buộc ở lưng, cuốn xà-cạp, và bọc kín cổ tay và cánh tay. Nhưng trông bà không có vẻ là một người đi hành hương đền thờ ở Enoshima. Osugi liếc nhìn khuôn mặt và thân hình gầy còm của người đàn bà, và nghĩ rằng bà ta trẻ hơn mình, có lẽ là một thiếu phụ ở giữa lứa tuổi ba mươi. Bà ta có vẻ hoàn toàn suy kiệt.

– Tôi sẽ bưng trà nóng mời bà ngay. Bà sẽ bị lạnh ở ngoài ấy, xin mời bà vào bên trong.

Osugi nói qua vai người đàn bà trong khi quay vào trong để rót nước trà đậm và bưng nhanh ra ngoài cho người khách lạ.

Người thiếu phụ vẫn ngồi trên chiếc ghế dưới mái hiên trà thất, ngửa mặt nhìn Osugi để cảm ơn. Mái tóc rối ướt đẫm mồ hôi, và xõa xuống mặt với hai xương gò má nhô lên. Mặt bà đỏ bừng và vẫn còn thở một cách khó khăn. Osugi đặt tách trà bên trong quán và bước ra để nắm tay thiếu phụ và giúp bà đứng dậy.

Osugi kêu lên trong nỗi ngạc nhiên.

– Trời, bà sốt thế này!

Dưới bàn tay của Osugi, vai người thiếu phụ nóng bỏng và xương bả vai sắc nhọn dưới lớp áo kimono bằng vải phủ bụi đường.

Người thiếu phụ chống chế, nói rằng sẽ lại sức sau một lúc nghỉ ngơi, và tỏ ra không muốn làm phiền Osugi. Nhưng, Osugi trải một chiếc nệm trong căn phòng nhỏ bên cạnh phòng chứa đồ, giúp thiếuphụ cởi đôi dép rơm và đặt bà nằm lên giường. Nàng làm mát trán người thiếu phụ với một chiếc khăn ướt.

– Tên tôi là Okiku. Tôi đến từ Gotemba và đang trên đường tới thủ đô. Tôi rất tiếc đã làm phiền bà như thế này.

– Không có gì phiền cả, bạn thân mến. Sao bà không nghỉ lại đây đêm nay?

– Nhưng tôi không thể…

– Hãy ngủ yên một đêm, và cơn sốt của bà sẽ hạ xuống. Sáng mai bà sẽ khoẻ lại. Chỉ có tôi và chồng tôi ở đây, vì vậy bà không cần phải bận tâm về bất cứ điều gì.

Okiku, như bà tự gọi, cảm ơn Osugi lần nữa. Đôi mắt bà không chỉ đẫm lệ, mà còn sưng lên vì cơn sốt. Bà có vẻ thư dãn và nhắm đôi mắt lại. Bà không đẹp, nhưng có khuôn mặt tươi tắn phúc hậu, giờ đây trở nên xanh xao đáng thương với hai quầng đen bên dưới cặp mắt. Okuki không có vẻ là bị đau ốm bất ngờ, và đã quyết định đi Edo mặc dù sức khỏe yếu kém.

Đàn bà không đi xa một mình, và Osugi thắc mắc về lý do cuộc hành trình của Okiku.

Osugi đóng những tấm cửa gỗ của trà thất, rồi bắt đầu sửa soạn bữa ăn tối cho chồng và một ít cháo cho Okiku. Khi trời tối, gió thổi mạnh hơn bao giờ. Căn phòng của Okiku yên lặng giữa tiếng lay chuyển của cây zelkova to lớn và tiếng rung đập từng hồi của những tấm cửa gỗ. Osugi nhìn đăm đăm vào những ngọn lửa đỏ trong lò sưởi, băn khoăn về người đàn bà đau yếu. Nàng vẫn thường nhìn sâu vào những ngọn lửa, thả hồn trong suy tư, nhưng bây giờ ngọn lửa có vẻ thật qúy và bình yên đến nỗi nước mắt Osugi ứa ra vì xúc động với vận may của chính mình.

Osugi có thể đã mất ba đứa con vì bệnh tật khi chúng còn nhỏ, nhưng nay con trai đầu lòng của nàng đã mười chín tuổi và làm việc tại một lữ quán ở Enoshima, đứa con gái mười lăm tuổi đang học việc tại một tiệm làm bánh đậu ở Fujisawa. Nàng thực sự không có gì để phải lo âu. Cho đến hai năm trước trước đây, Osugi vẫn còn săn sóc bà mẹ chồng khi bà phải nằm một chỗ vì bại liệt. Mẹ già Ofuku được đưa đến cho Osugi, và vui lòng có một nàng dâu để được chăm sóc. Bà là loại người không làm hại bất cứ cái gì, ngay cả khi bắt được một con rận bà cũng chỉ thích thả nó vào một thùng nước. Ngay trước khi chết, bà chắp hai tay co quắp trước ngực như thể đang cầu nguyện, và cảm ơn Osugi. Mùa xuân này là giỗ thứ hai của bà. Chồng của Osugi, Kumazô, lớn hơn nàng bảy tuổi. Anh thích uống rượu, và vẫn còn hay đấm nhau với những người vác kiệu khác. Nhưng, anh là một người tốt có cá tính mạnh, và chăm lo cho Osugi. Họ nghèo, nhưng cái quán bán nước trà đủ bảo đảm cuộc sống cho họ.

Mùa xuân tới đây, Osugi sẽ được bốn mươi tuổi. Nàng chưa bao giờ đi cúng chùa ở Ôyama, chưa tới Edo, nhưng thỉnh thoảng nàng cố thu xếp để đi viếng ngôi đền ở Enoshima. Như vậy là đủ cho Osugi, và nàng không bao giờ cảm thấy thôi thúc phải đi xa.

– Phải chăng tôi là một người đàn bà không ham muốn? – Nàng thắc mắc, tự hỏi.

Nàng mỉm cười với hình ảnh hài hước của mình trong khi nhìn đăm đăm vào những ngọn lửa bập bùng.

Khi cháo chín, Osugi bưng vào cho Okiku. Nhưng, Okiku không muốn ăn, và chỉ cố đưa đôi đũa lên môi một hay hai lần. Cơn sốt của bà còn cao. Osugi ăn tối một mình. Mãi khuya Kumazô mới trở về nhà trong cơn say rượu.

Nghe Osugi báo tin về người khách lạ, Kumazô liếc vào căn phòng nhỏ qua chỗ rách trên tấm cửa giấy. Mặt đỏ gay vì rượu, anh tặc lưỡi.

– Bà định làm gì đây, vác lấy một phế nhân à?

– Hạ cái giọng ông xuống!

Osugi kéo tay áo chồng và rít giọng.

– Tôi định hỏi, tôi có thể làm gì nữa?

– Ờ, tôi nghĩ là tốt hơn bà nên làm cái gì bà cảm thấy thích hợp. Còn tôi, tôi đi lên giường ngủ.

Sáng sớm hôm sau, Kumazô rời nhà đi làm như thường lệ. Cơn gió đã ngưng thổi trong đêm, và một lớp sương giá trắng đã bám trên tấm thảm lá rải rác bên ngoài. Suốt đêm qua, Osugi đã thức dậy không biết bao nhiêu lần để chăm sóc Okiku, đem thuốc bắc sắc cho bà, thay nước trong chậu, làm mát trán bà với một chiếc khăn ướt. Nhưng, cho đến sáng cơn sốt không hạ giảm, và Okiku nằm liệt trên giường, suy kiệt. Xế trưa, Osugi mời một bác sĩ tới khám cho Okiku, nhưng ông ta chỉ lắc đầu. Trước khi ra về, ông ta bảo Osugi báo tin cho các viên chức trong tỉnh, hoặc tỉnh nhà của người bệnh. Quán trà có nhiều khách nên phải tới xế chiều Osugi mới lại quỳ một lần nữa bên chiếc gối của Okiku.

Okiku nhướng đôi mắt nửa nhắm nửa mở, với một tay tới cái giỏ tre nhỏ bọc vải bên cạnh chiếc gối và cố ngồi thẳng dậy trong khi thì thào những lời nói sảng:

– Tôi phải đi gặp Isuke.

– Không thể được đâu, bạn ạ, với tình trạng như thế này của bà.

– Osugi cúi mặt bên tai Okiku để hỏi – Isuke là một chàng trai ở Edo ư?

Okiku mở hai mắt và níu hai tay Osugi:

– Tôi biết tôi đang đau, nhưng tôi vẫn đi được! Tôi phải gặp Isuke khi tôi còn sống.

Okiku mỉm cười yếu ớt.

Bà khởi đầu kể về câu chuyện của mình, với giọng khỏe như đang vắt hết những giọt sức lực cuối cùng trong người. Và đây, nói một cách nôm na, những gì Okiku đã kể.

Tại Gotemba, một tỉnh nổi tiếng về nghề thủ công làm giỏ đan bằng tre, Okiku đã gắn bó sâu xa với Isuke, một thợ thủ công làm đồ bằng tre, khi anh ta hai mươi mốt tuổi và Okiku mười bảy. Họ thề thốt với nhau rằng một ngày kia họ sẽ trở thành vợ chồng, nhưng khi Okiku mười chín tuổi Isuke bỏ đi Edo, hứa hẹn sẽ lập gia đình với nàng một khi anh ta đạt tới đẳng cấp bậc thầy thủ công nghệ chuyên ngành về những giỏ tre hay những hộp sơn mài. Sau đó, họ viết thư cho nhau trong ba năm, nhưng rồi suốt mười lăm năm nàng không được tin gì về chàng. Dù vậy, Okiku vẫn tiếp tục chờ đợi.

Thế rồi, mới mười ngày trước đây, Okiku nghe tin đồn rằng Isuke vẫn còn ở Edo, làm việc trong một cửa hàng bán những hộp sơn mài tên là Yashuya tại Kyôbashi Yazaemonchô. Okiku quyết định làm một cuộc hành trình đơn độc dù đang đau yếu, và gạt sang một bên tất cả sự chống đối của những người chung quanh.

Một lần nữa Okiku xê dịch bàn tay gầy guộc về phía chiếc hộp bên cạnh gối. Osugi giúp gỡ bỏ lớp vải bọc bên ngoài.

– Chiếc giỏ tre nhỏ này – Okiku nói, mấy ngón tay vuốt ve cái giỏ – là của Isuke để lại cho tôi khi anh đi Edo. Anh tự làm nó đấy.

Khi nói như vậy, người đàn bà ở giữa lứa tuổi ba mươi mỉm cười như một cô gái nhỏ.

– Tôi là một con già khờ dại. Nhưng không sao. Bà quá tử tế với tôi, và nếu tôi phải chết trên đường đi, ít nhất tôi cũng có chiếc giỏ của anh ấy bên mình.

– Okiku, đừng nói dại.

– Tôi rất tiếc đã gây quá nhiều phiền nhiễu cho bà…

Okiku nhắm mắt lại, và một khoảnh khắc sau thở hơi cuối cùng. Bàn tay đặt trên chiếc giỏ tre buông lỏng xuống sàn, và bà nằm bất động.

Những tia nắng sớm của mặt trời vào đầu mùa đông chiếu sáng những tấm cửa lùa bằng giấy, nhuộm chúng thành màu đỏ như máu, và chói lọi trên gương mặt chết tái nhợt của người đàn bà.

– 2 –

Trong chiếc giỏ tre nhỏ có chiếc kimono may bằng tay cho đàn ông còn mới nguyên và bằng vải có nền sọc theo kiểu Komochijima. Trong chiếc giỏ cũng có vài món đồ trang sức và những đồ dùng cho chuyến đi xa của Okiku. Có lẽ Okiku đã may vội chiếc kimono cho Isuke mặc dù đang đau. Những đường kim mũi chỉ của chiếc kimono là những tình cảm của người đàn bà trong mười tám năm chờ đợi.

Người đàn bà quá vãng mang theo mình tờ giấy phép đi đường của một ngôi đền tại Gotemba nên Osugi quyết định giao trả mọi thứ cho vị trưởng giáo tại Honryuji, một ngôi đền kế cận. Khi một lữ khách chết trên đường đi, ngôi đền địa phương sẽ nhận lãnh thi thể, làm lễ cầu siêu, và báo tin cho giáo khu nơi cư trú của người chết. Osugi cũng yêu cầu gửi trả những vật tùy thân của Okiku, nhưng quyết định giữ lại chiếc giỏ tre và cái áo kimono của người đàn ông. Nàng cảm thấy muốn tự tay trao những di vật này cho Isuke, kẻ đang làm công tại một tiệm bán hộp sơn mài ở Edo, dựa theo tin tức đã được cung cấp.

Chiếc giỏ tre được nói là do Isuke làm là một món đồ đan bằng tre tầm thường. Nó không có vẻ gì là một tác phẩm xuất sắc, dù là dưới mắt Osugi. Nhưng, hình như Okiku đã dùng chiếc giỏ này rất cẩn thận trong nhiều năm, vì những góc cạnh vẫn còn nguyên không bị hư hại, và mặt tre lên nước do chất béo từ những ngón tay làm cho nó thành màu vàng hổ phách bóng láng như tình yêu của Okiku. Ít nhất một lần mỗi ngày, Isugi sờ vào chiếc giỏ tre một cách nhẹ nhàng, vuốt ve nó như chính nàng là Okiku đã mơn trớn nó mỗi ngày khi còn sống.

– Hồn vía bà hồi này có vẻ như ở đâu đâu. Quên người đàn bà ấy đi cho rồi. Bà đã đối xử tốt với bà ta. Không ai như bà, bận tâm đến một chuyện không đâu quá lâu như thế.

Kumazô nói như vậy. Nhưng vào lúc đêm khuya, trước khi Kumazô trở về nhà vào những lần công việc vác kiệu bắt phải đi xa, Osugi tự nhận ra mình đang lắng nghe ngọn gió bắc, tay vuốt ve cái giỏ tre và thì thầm trong lòng. “Chưa bao giờ trong suốt cuộc đời ta chỉ nghĩ đến một người đàn ông quá lâu như Okiku đã làm.”

Hình như Osugi có một mối ưu phiền lớn không nguôi – không phải vì nàng thiếu hạnh phúc với Kumazô về bất cứ phương diện nào.

“Tôi băn khoăn không hiểu Isuke là loại người như thế nào…Nhưng, đây là điều kỳ lạ đặc biệt. Tôi, sắp sửa bốn mươi tuổi, và đang có những ý nghĩ như vậy!” Osugi tự nhủ.

Những ngày mùa đông qua đi. Quán trà bận rộn vào cuối năm và đầu năm mới, với những lữ khách trên đường lui tới các ngôi đền ở Enoshima hay Ôyama. Công việc chỉ ổn định lại sau tuần lễ đầu tiên của năm mới.

Năm mới này cũng là sinh nhật thứ bốn mươi của Osugi, và nàng nói với Kumazô rằng nàng muốn đi Edo. Nàng bảo muốn ngắm cảnh thành phố và thăm đền Asakusa ít nhất một lần trong đời, và trong khi đó muốn giao trả cái giỏ tre và chiếc kimono. Kumazô đáp rằng nếu việc ấy đem lại sự bình ổn cho tâm trí nàng thì có thể đi một mình. Đây không phải là một cuộc hành trình thơ mộng. Nếu đi nhanh, nàng có thể tới đó và trở về trong đôi ngày, nghỉ đêm tại Edo.

Osugi ra khỏi nhà trước bình minh, với Kumazô tiễn chân vợ lên đường. Ăn vận thích hợp, Osugi đi dọc theo xa lộ Tôkaidô trong ánh nắng dịu dàng đầu xuân, băng qua những tỉnh lẻ Totsuka, Hodogaya và Kanagawa, và nhận ra đang vui hưởng chuyến du hành một mình đầu tiên chưa bao giờ trải qua trong đời. Nàng đã để chiếc kimono sọc do Okiku may vào trong cái giỏ tre do Ikuse đan, bọc bên ngoài bằng một tấm vải vuông và buộc vào lưng giống như Okiku đã làm. Điều đó khiến Osugi khích động, giống như chính nàng thay vì Okiku đang đi tới gặp một người đàn ông. Nhưng Isuke là một con người không tim đã bỏ rơi Okiku trong mười lăm năm dài. Có thể anh ta đã kết hôn với người đàn bà nào khác, và đang nuôi dưỡng một gia đình.

“Ta có nên nhân danh Okiku, nói cho anh ta biết cảm nghĩ của một phụ nữ bị bỏ rơi và thêm vài ý nghĩ của chính mình…”, Osugi tự hỏi.

Osugi ăn trưa với đồ hộp ở Kawasaki, và bầu trời trở nên u ám từ khi nàng đi trên cầu Rôkugô. Vào lúc nàng đi ngang Shinagawa, một trận tuyết nhẹ bắt đầu rơi. Phản ảnh sự thay đổi của thời tiết, tâm trí Osugi mang đầy nỗi oán hận Isuke. Nàng tiếp tục bứơc đi vào ngay khu vực thị tứ của Edo, không cả cảm thấy mệt mỏi, và bây giờ đang vui thích với chuyến đi một mình của nàng.

Trời đầy gió bụi, và tuyết bắt đầu rơi xuống thật sự khi Osugi tới Yashuya ở Yazaemonchô. Yashuya là một cửa hàng lớn, với nhiều rương hộp sơn mài, cả lớn lẫn nhỏ, được trưng bày bên trong. Có những hộp bằng tre lớn và dài, những hộp đan có ngăn kéo. Có rương và một cặp hộp bằng tre để buộc một đầu và khoác trên vai.

Có những hộp tre để vác. Có những chiếc hộp để ở góc nhà, loại hộp lớn để đựng quần áo, thùng đựng sách, và nhiều loại nữa.

Được một người học việc ra tiếp, Osugi cho biết lý do cuộc thăm viếng, một người đàn ông lớn tuổi trong đám thợ đan giỏ trong căn phòng lớn có sàn gỗ nhìn lên và nói:

– Nếu bà đi tìm Isuke, anh ta không có ở đây lúc này.

– Ơ…

– Anh ta là một thợ thủ công giang hồ. Hắn ở tiệm này một dạo vào mùa thu, nhưng không bao giờ tính chuyện ổn định. Thằng cha ấy là một tay thợ vụng, nhưng điều kỳ cục là dường như hắn lại có đầu óc của một bậc thầy.

– Vậy anh ấy không làm ở đây nữa à?

– Thỉnh thoảng hắn tới đây với những rương hộp do hắn làm.

– Bây giờ anh ấy ở đâu?

– Có thể ở dãy nhà trong con đường hẻm ở Shamisen Bori.

Chắc vì tội nghiệp Osugi đã tới cửa hàng trong cơn tuyết đổ, người thợ thủ công già bước ra cửa tiệm và chỉ dẫn đường đi tới Shamisen Bori.

Sau tám giờ tối Osugi mới tìm ra chỗ ở của Isuke trong con đường hẻm, chân nàng lội ngập trong tuyết giờ đã dày tới mười phân tây. Nàng có ý tới gặp Isuke và định sẽ đi tìm chỗ nghỉ đêm sau cuộc gặp mặt.

Nơi Isuke ở là một chỗ trọ hai phòng trong một dãy nhà hư hỏng, với ánh sáng chiếu qua những cánh cửa lùa ở lối vào.

– Xin lỗi, – Osugi gọi to, hạ chiếc nón tre phủ tuyết trên đầu.

Nàng khó nhận ra giọng nói của mình, nó như thật căng và sắc. Nàng bất chợt tự thấy hối tiếc đã đến đây đường đột như thế này. Và, đồng thời cũng cảm thấy sự hiện diện của nàng ở đây có thể an ủi linh hồn Okiku, và có thể giúp nàng xếp lại ký ức về người đàn bà ấy.

– Ai đấy? Ai thì cũng xin mời vào. – Một người đàn ông trả lời sau một thoáng yên lặng.

Osugi phủi tuyết bám trên chiếc kimono và bước vào cửa tiền bẩn thỉu chật hẹp, cúi gập mình và nói:

– Tôi từ Tsujimo đến, và tên là Osugi. Hẳn ông là Isuke.

– Ờ, vâng, chính tôi…

Isuke ngồi trên một chiếc chiếu rơm trải trên sàn gỗ. Hình như anh ta đang uống rượu, và một chai sakê rẻ tiền đang nằm trong tay khi anh nhìn Osugi một cách nghi ngại. Anh ta gầy như một cái gắp than, và hình như vào khoảng bốn mươi tuổi.

“Vậy ra đây là Isuke…Anh ta đang rung động!” – Osugi tự nhủ.

Anh ta có vẻ không giống một người đàn ông chải chuốt, hay vô tình, hoặc là cái gì khác như Osugi đã tưởng tượng. Tim nàng đập mạnh và nàng sợ Isuke, những cảm giác khiến nàng ngạc nhiên về chính mình. Qua tấm màn rách treo bên giường, nàng có thể nhìn thấy chiếc giường ngủ đã được xếp lại và một cái hộp đan dở dang bên cạnh ngọn đèn dầu. Có rất nhiều miếng tre róc và gỗ mỏng bỏ rải rác khắp phòng khiến Osugi khó mà tìm được một chỗ để đặt chân, và cũng nhận ra mùi sơn mài. Nàng cảm thấy nhẹ nhõm vì không thấy dấu vết của sự hiện diện của một phụ nữ.

“Anh ta ở một mình trong căn nhà này và làm giỏ tre.” – Osugi tự nhủ thầm.

– Bà muốn gì đây, người đàn bà xa lạ này? – Isuke hỏi với nụ cười méo mó, trong lúc Osugi nhìn quanh mà chưa nói ngay nàng đến đây làm gì.

– Ồ, xin lỗi.

Osugi cũng mỉm cười để che giấu sự bối rối. Họ cười và nhìn vào mắt nhau.

“Anh ta có đôi mắt thật đẹp!” Osugi kêu thầm.

Trước đây, chưa bao giờ nàng thấy cặp mắt đẹp như vậy nơi một người đàn ông. Thân hình xương xảu của anh ta có vẻ suy yếu, nhưng nụ cười hóm hỉnh giống như của một thằng con trai vừa bắt được một con côn trùng và không biết có nên thả ra hay không.

Osugi thu góp sức lực và bắt đầu nói về Okiku. Isuke trông xúc động, và nói:

– Mời bà bước vào trong phòng. Xin lỗi vì tôi không đốt lửa sưởi.

Anh ta bước tới cái lò trong bếp, và đứng đó như sẵn sàng châm lửa. Osugi ngăn cản anh ta bằng cách nói nàng sẽ đi ngay, rồi đi vào câu chuyện của nàng trong lúc ngồi xuống bực cửa giữa lối vào và căn phòng. Isuke ngồi xuống sàn lần nữa với hai tay đặt trên đầu gối, lắng nghe trong yên lặng. Nhưng, khi Osugi đẩy tới trước cái giỏ tre đựng chiếc kimono bằng vải, Isuke liếc nhìn rồi quay đi chỗ khác và nói:

– Tôi hiểu rồi. Okiku là…

Anh nhắm mắt yên lặng một lúc rồi nói:

– Cảm ơn bà đã tới đây trong cơn tuyết đổ chỉ để đưa cho tôi vật này. Nhưng, bà phải tự nhìn nhận…là con người hơi đa sự một chút, phải không?

Anh ta phun ra phần cuối cùng của những lời thì thầm, hầu như đang nói với chính mình. Osugi cảm thấy bị xúc phạm. Vậy là cuối cùng anh ta đã để lộ nguyên hình. Máu dâng lên trong huyết quản, nàng cố dằn nén để đừng buông ra những lời buộc tội người đàn ông không trung thành. Nhưng, trong khi nhìn anh ta với sự phản đối trong mắt, nàng nhận ra người đàn ông này đã nói đúng: điều nàng đã làm quả là táo bạo, là hành động của một phụ nữ trung niên đã đi quá xa.

– Vâng, tôi cho rằng đã đến lúc phải đi…

Osugi nói với giọng dằn nén và nghe một cảm giác trống rỗng không diễn tả được. Và cũng khó mà chịu được cái nhìn thương hại của người đàn ông với một bên vai nhô cao và cái đầu treo lơ lửng một cách buồn thảm.

Nàng quay lưng lại người đàn ông và mở cánh cửa lùa. Trong bóng tối của con đường hẻm, những bông tuyết đang rơi xoáy xuống mạnh hơn trước.

– Xin bà đợi một chút.

Osugi nghe giọng Isuke khản đục.

– Trong cơn tuyết nặng như vầy, bà sẽ không kiếm được bất cứ chỗ nào để nghỉ đêm đâu. Mọi quán trọ giờ này đều đã đóng cửa hết rồi.

– Nhưng, tôi phải đi.

Isuke lại nói trong lúc Osugi vẫn quay lưng về phía anh ta:

– Tên bà là Osugi, phải không? Tôi không buộc bà phải ở lại nếu bà không muốn, nhưng xin nói cho tôi thêm một chút nữa về Okiku.

– 3 –

Isuke đốt lửa sưởi cho Osugi, xếp những lát tre vào chiếc thùng sắt rỗng. Osugi không có nhiều lắm để nói về Okiku. Isuke không uống thêm rượu sakê, và gần như hoàn toàn bật động trong yên lặng.

Nhưng rồi anh ta nói:

– Tôi sẽ thức suốt đêm nay để làm cho xong cái hộp đan này, vì vậy bà khỏi bận tâm về tôi và xin cứ vào giường nghỉ.

Isuke nhanh nhẹn dọn chiếc giường duy nhất, kéo tấm màn che quanh giường, rồi đi tới ngồi nơi một góc phòng quay lưng lại Osugi.

Âm thanh từ những phần khác của dãy nhà dài thỉnh thoảng có thể nghe được, nhưng đã trở nên yên lặng từ lâu. Trận tuyết mùa xuân tiếp tục rơi một cách ồ ạt không ngừng.

Osugi quyết định nằm xuống với tất cả quần áo trên người. Nàng không ăn tối và bắt đầu cảm thấy đói nhiều đến nỗi nghĩ chắc không thể ngủ được, nhưng định bụng sẽ nằm cho đến khi trời sáng.

– Thật tội nghiệp cho Okiku, nhưng tôi đã say mê tre như bà thấy đó.

Isuke nói, như đang chuyện trò với chính mình, phá vỡ sự im lặng với cái lưng vẫn quay về Osugi. Rồi, từng chút một, anh ta bắt đầu nói về chuyện của mình.

– Không phải không có những người đàn bà khác sau Okiku. Và đúng là tôi đã bỏ rơi nàng, không có gì thay đổi được điều đó. Nhưng, tôi lang thang từ nơi này tới nơi nọ, nhìn ngắm tre, sờ mó nó, và trở nên đam mê…Và càng đam mê bao nhiêu, nó càng trở nên khó hiểu cho tôi bấy nhiêu…Một khúc tre hay gỗ có một mặt hướng về mặt trời và một mặt ở trong bóng tối, bà biết chứ. Tôi biết điều đó từ khi còn là một đứa bé để mũi thò lò. Vậy mà khi đến Edo như một thợ thủ công, tôi khám phá ra là đã không biết một điều. Osugi, khi so sánh cái mặt có ánh nắng và mặt trong bóng tối, mặt nào bà nghĩ là mềm dẻo và mạnh?

Lời nói thật bất ngờ. Osugi cảm thấy cơ thể căng lên trong bóng tối vì Isuke nói với mình và đáp:

– Vâng, bây giờ tôi không rõ.

Giọng Osugi thật trẻ như của một cô gái khiến nàng ngạc nhiên. Sau một thoáng suy nghĩ, nàng nói:

– Mặt mạnh chắc là mặt trong bóng tối hướng về gió bắc. Và mặt mềm là mặt quay ra ánh mặt trời, phải không?

Thật ra, trước đây chưa bao giờ nàng nghĩ tới cái mặt hướng bắc và mặt hướng nam của cùng một khúc tre lại có những đặc tính khác nhau.

– Tại sao bà nghĩ như vậy?

– Ơ, lạnh và sự bất lợi trong bóng tối làm cho mặt tối cứng mạnh. Và mặt tiếp nhận ánh nắng phát triển dễ dàng. Có phải vậy không?

– Bà nói đúng đấy, Osugi.

– Một nửa.

– Mặt có ánh mặt trời mạnh và cũng mềm dẻo. Mặt tối trở nên cứng và dòn. Con người cũng vậy. Sống trong bóng tốt không tốt. Nó làm cho ta thành cứng khô và méo mó. Hãy nhìn tôi đây, đang ở tuổi bốn mươi và như thế này đây.

Isuke cười thành tiếng như một cách tự chứng minh.

Osugi chân thật nói:

– Không hẳn như vậy. Luồng gió bắc khắc nghiệt làm cho anh mạnh mẽ. Những người chỉ đi trong ánh mặt trời trở thành khô kiệt và kiêu căng, và tôi không thích họ.

– Điều ấy có thể đúng với loài người. Nhưng không đúng với tre hay gỗ. Đó là điều tôi thích ở chúng. Chúng có thể ở trong ánh mặt trời mà không trở thành kênh kiệu với sự quan trọng của chúng. Chúng tiếp nhận những tia nắng và lớn mạnh. Cây lớn lên đầy những cành và ngạnh làm cho chúng vững mạnh. Ta cần đối xử với cả tre và gỗ giống như khi chúng ở trong thiên nhiên. Nếu ta hạ một cái cây đã sống trên núi một ngàn năm và chỉ dùng để làm một cái cột nhà, cái nhà ấy cũng sẽ đứng vững trong một ngàn năm.

Mặc dù cai quản một trà thất có nghĩa là được nghe về đủ thứ chuyện, nhưng đây là lần đầu tiên Osugi được nghe về những điều này.

– Và tre cũng như vậy à?

– Với những cây tre già ba năm hay năm năm, vấn đề là ta đừng xáo trộn mặt có ánh nắng và mặt tối của những lát tre, một hộp sơn mài hay một giỏ đan có thể tồn tại hai trăm hay ngay cả ba trăm năm.

Isuke quay lại đối diện với Osugi và lần đầu tiên mỉm cười sung sướng. Anh ta có vẻ như là một người khác.

– Nhưng, Osugi ạ, để có thể cầm một lát tre lên và qua cảm giác mà nói được nó thuộc phiá mặt trời hay phía bóng tối, phải mất ít nhất là mười năm học hỏi. Rồi dựa vào cảm nhận ấy, ta phải làm nhiều phán định trong việc đan tre. Không ai có thể dạy ta điều đó, và ngay cả nếu ta có thể làm được điều đó cũng không phải như vậy là đã trở thành một tay thủ công bậc sư đâu. Sau khi được luyện nghề khoảng mươi năm, người ta sẽ ba hoa như là một tay thợ thủ công có đẳng cấp, nhưng mà không có bao nhiêu người có thể

đan tre như cách nó lớn lên. Và trong trường hợp những hộp sơn mài, ta che phủ tre bằng giấy và sơn mài làm cho nó khó thở. Điều đó mới lại càng khó khăn hơn.

– Anh đang nói rằng những giỏ tre và hộp sơn mài hít thở à?

– Đúng vậy, Osugi. Người ta nói một cây tre mềm không bị gãy dưới sức nặng của tuyết. Nhưng, ngay cả một thanh tre thoạt trông có vẻ tốt, đừng bị đánh lừa. Tre là vật sống động, và nó đặt loài người chúng ta vào cuộc xét nghiệm. Một thợ thủ công với hai bàn tay đẹp là điều ngu ngốc. Không có gã nào với bàn tay sạch sẽ lại là một thợ thủ công thật sự.

“Với phụ nữ cũng vậy. Một ngưoi đàn bà với hai bàn tay đẹp không bao giờ biết đến sự khó nhọc.” Osugi thầm nghĩ.

Isuke tiếp tục nói với vách tường:

– Một khi bà cầm lên một thanh tre, và sau khi biết nó được trồng ở đồng bằng hay trên sườn một ngọn núi, rồi bà đan nó giống như bà là ánh mặt trời chiếu xuống nó hay là ngọn gió thổi qua nó. Một thợ thủ công kiên trì sẽ đan nó theo cách kiên trì, và một kẻ xốc nổi sẽ đan nó theo kiểu xốc nổi. Tại Yashuya có một thợ thủ công già tên là Matsu-san. Lão khởi sự làm việc trước khi mặt trời mọc, và lúc những người khác trong tiệm thức dậy, lão đã hoàn tất phần lớn công việc, đi tắm, hớp nhanh ly rượu, và ăn điểm tâm. Lão ăn vội vã, và trở lại làm việc ngay. Kiểu cách của ông già ấy trông có vẻ là một tay thợ cần mẫn, được coi là xuất sắc. Nhưng, nếu bà hỏi tôi, cho dù bà có thể làm xong công việc của ba người khi mặt trời còn cao, đó chỉ là sự mau lẹ và làm xong công việc. Đó không phải là một tay thủ công bậc thầy.

Osugi cảm thấy vui thích nhìn Isuke trở nên phấn chấn và nói năng lưu loát như một chuyên gia.

– Ồ, tôi thắc mắc không biết có phải là ông già ấy không. Chính ông ta đã nói anh là một người vụng về và giả vờ như là một tay thủ công bậc sư đấy. – Nàng nói và cười, liếc nhìn Isuke qua chỗ rách trên tấm màn che giường ngủ.

– Vụng về và giả vờ như một thủ công bậc sư không phải là tôi.

– Isuke đáp một cách nghiêm chỉnh – Tôi đã bốn mươi tuổi, và vẫn chưa đan được một món đồ tôi thích. Tôi không thể kiếm được việc làm tại bất cứ tiệm nào, vì vậy phải trôi nổi hết nơi này tới nơi khác như một ngọn gió khô, làm việc như một thợ thủ công lang thang có chút tay nghề. Đó là cái loại người bất hạnh vô giá trị mà tôi tự nhận là mình.

Isuke có vẻ khích động vì những lời tự bôi đen chính mình và chợt im lặng. Rồi nói:

– Nhưng, bà nên ngủ đi một chút.

Bỗng, Isuke chạy ra con đường hẻm.

Trong tiếng tuyết rơi không ngừng, có tiếng người xối nước tắm từ phía cái giếng. Một lát sau, Isuke trở lại, làm như đã quên sự có mặt của Osugi, ngồi thẳng lưng trước cái hộp sơn mài đang làm dở, với cái khăn vắt chéo vòng quanh đầu. Chiếc hộp này dài khoảng một thước và rộng độ sáu mươi phân tây, được dùng như một cái rương để đựng quần áo.

Đã quá nửa đêm từ lâu, và căn phòng trở lại yên tĩnh. Cơn gió có vẻ đã ngưng thổi, tất cả những gì có thể nghe thấy là tiếng động nhẹ của những bông tuyết dày đập vào tấm cửa lùa phía trước. Rồi, từ chỗ Isuke ngồi, có tiếng động khác nữa.

Soạch soạch, soạch soạch…

Nó giống như tiếng một người nào đó thở ra thật mạnh, được tạo ra một cách vô tình khi Isuke đan cái hộp. Qua chỗ rách trên tấm màn che giường, Osugi có thể trông thấy cái lưng người đàn ông.

Hình như Isuke dùng tay phải lấy những lát tre để bên phải và đan nhanh chúng bằng cả hai tay. Phía sau chiếc áo khoác ngắn của anh ta ướt mồ hôi và di động với những rung chuyển nhỏ, rõ ràng phản ảnh sự vận động của những bắp thịt nhỏ, xăn chắc.

Soạch soạch, soạch soạch…

Tấm lưng của người đàn ông trong khi làm việc đã xâm chiếm một cách hoàn toàn vô thức tâm trí người đàn bà tới thăm viếng anh ta vào cái đêm tuyết đổ này và đang nằm ngay bên cạnh anh ta. Dường như nó còn làm phát sinh một sự căng thẳng cao độ như sức mạnh của một ngọn dáo, đồng thời cũng tạo ra trong tâm tưởng ánh sáng mặt trời êm dịu và một cơn gió nhẹ.

Osugi thầm nhủ: “Người đàn ông này đã dâng hiến cuộc đời để làm những chiếc hộp sơn mài kia. Đây không phải là một cơn gió khô, đây là một luồng gió êm ái thổi qua một khóm tre.”

Osugi nghe một cảm giác ấm áp kỳ lạ phát tỏa trong đáy lòng.

Nàng cố nhắm mắt. Trong khoảng đen sau đôi mí mắt, nàng vẫn có thể nhìn thấy cái lưng của Isuke. Soạch soạch, soạch soạch… Sâu trong hai tai, nàng vẫn có thể nghe thấy hơi thở dũng mãnh của người đàn ông. Thân thể nàng dường như trở nên ẩm ướt. Nàng chống cự lại, và cùng một lúc lại ôm giữ lấy nó. Nhưng, nàng mau chóng rơi vào giấc ngủ.

Và nằm mơ.

Chìm sâu giữa những bông tuyết dày mùa xuân đang lặng lẽ tuôn rơi không ngừng, nàng và Isuke, hai kẻ gặp nhau lần đầu tiên trong đời, ôm nhau trong vòng tay. Osugi cầm bàn tay Isuke lên và ép nhẹ vào trước ngực nàng. Có những cục chai thô kệch trên ngón tay anh và vô số sẹo nhỏ, vậy mà lòng bàn tay lại dịu như bột, và những ngón tay cũng mềm mại. “Mi không được, mi không được,” giọng nàng réo gọi từ đâu đó, “chồng của mi cũng có cục chai trên vai vì vác kiệu.” Nhưng, Osugi cảm thấy như cả thân thể và linh hồn nàng tan chảy, và nhìn lên một cách mơ mộng từng bông tuyết đang nhảy múa trong khi rơi xuống từ trời cao đen thẳm. Chỉ có hai người, Isuke và nàng, tràn đầy hoan lạc trong vòng tay của nhau…

Khi nàng thức giấc, mặt trời buổi sáng chiếu chói lọi trên những tấm cửa bằng giấy. Trận tuyết suốt đêm qua đã chấm dứt, và bầu trời trong xanh của buổi sáng đầu xuân làm thành một vòng cầu ở trên.

Có mùi thơm của cơm vừa chín trong không khí. Hơi đang bay ra từ chỗ hở giữa cái nắp và mép chiếc nồi đặt trên bếp lò. Không thấy Isuke đâu cả, nhưng chiếc rương sơn mài đã làm xong được đặt ngay ngắn gần đó, và ngọn đèn dầu vẫn còn sáng trên cái kệ nhỏ gắn nơi vách tường.

– A, bà thức dậy rồi à. Bà ngủ ngon chứ?

Isuke nói với một nụ cười tươi vui. Một bó củ cải trắng vừa rửa xong chĩu nặng trên tay cho thấy Isuke vừa mới ra giếng trở về.

– Tôi rất tiếc đã ngủ quá giấc. Bây giờ tôi sẽ làm việc này.- Osugi nói một cách e thẹn, nhưng gần như giựt mớ củ cải trên tay Isuke.

Nàng khởi sự nấu món xúp misô.

–   Bà là người mà tôi phải cảm ơn về việc đã làm điều tôi ưa thích đêm hôm qua.- Isuke nói trong lúc hút thuốc lá với vẻ vui tươi hiển hiện.

Isuke chăm chú ngắm chiếc rương sơn mài vừa làm xong. Nhưng anh ta lắc đầu nhè nhẹ như thể còn có vài chỗ chưa được hoàn toàn ưng ý.

Dưới mắt Osugi, đây có vẻ như là một tác phẩm tuyệt vời và hoàn toàn độc đáo. Nàng sẽ yêu thích nếu có cái rương sau khi nó được phủ giấy và tráng sơn mài.

Một lát sau, ngồi đối diện nhau trong khi ăn sáng, Osugi bật ra nói với giọng rụt rè:

– Isuke, anh không thể cho tôi coi bàn tay anh, phải không?

– Cái gì đây, một điều hoàn toàn bất ngờ hả?

Isuke đặt đôi đũa xuống với một cái nhìn bối rối, rồi e thẹn xòe cả hai bàn tay. Có những cục chai trên đầu những ngón tay, và những sẹo nhỏ, nhưng trông bàn tay mềm dịu, đen thâm như đã được ngâm trong dầu tre thấm vào những nếp nhăn nhỏ nhất.

– Hai bàn tay dơ bẩn, phải không? Nhưng, nếu tôi rửa sạch tay, chúng sẽ bị tre làm cho xước hay đứt. Bà không thể đan tre nếu không có dầu trên bàn tay. Ngay cả khi bị đứt tay, bà cũng không nên dùng bất cứ loại thuốc mỡ nào. Chỉ việc liếm ít cái và rồi nó sẽ tự lành.

– Vâng, chúng giống như tay của một vị Phật. Cảm ơn anh đã cho tôi xem những ngón tay của anh.

Đã đến lúc phải chia tay. Osugi quá thích cái rương đan sơn mài mà Isuke đã làm xong trong một đêm tuyết đổ. Nhưng, nàng chỉ xin Isuke một khúc tre mỏng và tròn để dùng làm gậy chống đi đường.

Những người ở trong dãy nhà dài đang xúc dọn tuyết đã ngập trong con đường hẻm đến ba mươi phân tây. Isuke đưa nàng tới đầu ngõ Shamisen Bori và nói:

– Đây là một trận tuyết lớn, nhưng tuyết mùa xuân sẽ mau tan. Bà nên cẩn thận trên đường về nhà.

– Tôi sẽ cẩn thận.

– Tôi lại sắp sửa ra đi nữa. Một ngày gần đây, tôi sẽ đi viếng ngôi đền ở Enoshima và chắc chắn sẽ thăm trà thất của bà. Và khi tôi đi, – Isuke nhìn vào mắt nàng và đặt hai bàn tay lên hai vai nàng một cách dịu dàng như cử chỉ của một thanh niên trai trẻ – tôi hứa sẽ đem tặng chiếc hộp sơn mài độc nhất trong đời, chiếc đẹp nhất mà tôi chưa bao giờ làm được.

Kể từ ngày ấy, năm này sang năm khác, không biết bao nhiêu trận tuyết đã đổ xuống Tsujidô trên Tôkaidô, dù chúng có nhẹ hơn trận tuyết ở Edo.

Con trai của Osugi đã lấy vợ và nàng đã có cháu nội, con gái nàng cũng đã có chồng, Kumazô đã qua đời năm năm trước đây, và Osugi giờ đây đã ở tuổi sáu mươi.

Nhưng, trong suốt hai mươi năm qua, nàng không bao giờ quên Isuke, người đàn ông đã cùng nàng trải qua một đêm tuyết đổ. Đó không phải chỉ là một giấc mơ. Chiếc gậy tre nàng xin của Isuke giờ đây đã lên nước màu vàng hổ phách, được làm bóng bằng chất dầu từ bàn tay già nua của Osugi.

Vào lúc hoàng hôn một ngày tháng Chạp, khi trận tuyết đầu mùa nhẹ rơi lất phất, một ngưoi đàn ông ở lứa tuổi sáu mươi không biết từ đâu tới, ngồi xuống chiếc ghế dài dưới mái hiên trà thất. Osugi với mái tóc bạc bưng cho người lữ khách một tách nước trà đậm.

– Osugi đây, phải không? Cái này là của bà.

Người đàn ông có một cặp giỏ đan nối với nhau bằng một chiếc đai, một cái đeo phía trước và một cái ở đằng sau. Ông ta lấy từ trong một cái giỏ ra một chiếc hộp tre đan sơn mài để đựng sách và trao cho Osugi, nói:

– Một tháng trước đây, Isuke đã chết trên đường đi. Mấy năm sau này, anh ta không thể sử dụng tay một cách bình thường. Anh ta luôn luôn lăn một cặp hột bồ đào trong lòng bàn tay để làm mềm những ngón tay. Nhưng chiếc hộp sơn mài này…

Osugi không nghe gì nữa. Ép chiếc hộp sơn mài bóng láng vào ngực, nàng ngửi thấy mùi cơn gió nhẹ thổi qua bụi tre, và nghe tiếng động của hai hột bồ đào lúc lắc bên trong, va chạm vào nhau với những âm thanh sắc nhỏ. Có lẽ cùng những tiếng động phát ra khi chúng ở trong tay Isuke.

(Hết)

 Truyện Nhật Bản của SAE SHUICHI
 SƠN TÙNG dịch từ bản Anh ngữ của Miyamoto Noriko

Cuộc hành trình về “Xứ Phật”

Sơn Tùng

Một ngôi chùa tại Tỉnh Udon, Thái Lan, nơi có nhiều người Việt
Một ngôi chùa tại Tỉnh Udon, Thái Lan, nơi có nhiều người Việt

 

Đầu tháng 11 vừa qua tôi đã làm một chuyến đi về phương đông. Lần đầu tiên sau chuyến đi về phương tây 32 năm trước.

Cuối tháng 4 năm 1982, tôi đã ra đi trong đêm tối cùng với 46 người khác trên một chiếc tàu gỗ nhỏ hướng vào biển đen mịt mùng trong nỗi lo sợ từng giây từng phút không rời: sợ gặp biên phòng, sợ sóng bão, sợ đi lạc, nhất là sợ gặp hải tặc Thái Lan… và đi vào một nơi vô định với hy vọng mong manh tới một bến bờ tự do nào đó hay gặp một chiếc tàu cứu vớt.

Tờ “chứng minh nhân dân” với ngôi sao vàng trên cái bìa đỏ máu đã được tôi ném xuống biển khi mặt trời chói lọi ló lên ở phương đông, nơi có Việt Nam mà tôi đã bỏ lại sau lưng.

Hôm nay, như một du khách phong lưu, tôi trở lại phương đông với sổ thông hành của công dân Hoa Kỳ, trên chiếc phản lực cơ khổng lồ chở khách của hãng Hàng Không Nhật All Nippon Airways có những cô tiếp viên xinh đẹp, miệng luôn tươi cười và lễ phép phục vụ.

Nơi đến: Bangkok, kinh đô “Xứ Phật”, với rất nhiều ngôi chùa mái nhọn dát vàng lộng lẫy khắp nơi và đại đa số dân Thái là tìn đồ Phật giáo.

Vừa đặt chân xuống sân bay quốc tế Bangkok, du khách có ấn tượng ngay về màu sắc Phật giáo trên xứ Thái: được chào đón bằng những cái chắp tay và cúi đầu rất cung kính. Nhưng với tôi, một cựu thuyền nhân lần đầu tiên trở lại phương đông, tôi không tránh khỏi hồi tưởng lại  khi đặt chân lên bờ biển Trenganu, Malaysia, 32 năm trước và được dân địa phương dàn chào với gậy gộc trên tay.

Một cuộc hành trình dài sau đó, trước khi tôi trở thành công dân Mỹ, với sổ thông hành Hoa Kỳ trên tay, đô-la trong túi và được cung kính chào đón. Với công việc viết lách, tôi đã tự đặt mình vào bên này lằn ranh trong một mặt trận mới, không tiếng súng nhưng không kém phần quyết liệt và như vậy, dĩ nhiên tôi không nghĩ đến việc về (hay đi) Việt Nam, cho đến khi cuộc chiến ‎ý thức hệ ngả ngũ: ai thắng ai?

Lần này, tôi đi Thái Lan vì có chuyện gia đình cần giải quyết với vài thân nhân ở Việt Namnên đã dùng xứ Thái làm điểm hẹn. Một cuộc gặp gỡ của nhiều thế hệ, nhiều tâm thức trong một đại gia đình. Có người hiểu con đường mà tôi đã chọn, có người tỏ ra tiếc cho tôi đã không trở về Việt Nam như bao nhiêu người khác chỉ vì “còn nghi ngờ những thay đổi đã diễn ra sâu sắc trong cuộc sống tại Việt Nam”.

Một cô cháu đến từ Nam Định nhẹ nhàng nói với tôi:

– Chính sách nhà nước đã thay đổi nhiều, bác cứ về chơi đi, không sao cả. Về vấn đề dân chủ và nhân quyền, người dân Việt Nam hiện nay chưa thể có nhiều tự do như người dân bên Mỹ nhưng cũng có quyền bày tỏ ý kiến của mình mà không bị làm khó khăn, bắt bớ hay tù tội gì cả. Bác cứ về chơi. Ông Thiệu mà còn về cũng chẳng sao đấy thôi.

Tôi nhắc cô cháu về sự lầm lẫn của cô giữa “ông Thiệu” và “ông Kỳ” rồi nói:

– Ông Kỳ đã về Việt Nam nhưng ông Kỳ sau này không còn phải là ông Kỳ ngày trước. Ông Kỳ đòi “Bắc tiến” ngày xưa nay đã “đổi mới” cho hợp thời rồi. Ông Kỳ về, hay đi Việt Nam chẳng những không sao mà còn có lợi cho cả hai đàng. Còn cái chuyện dân chủ và nhân quyền thì ở mỗi nơi thi hành một khác. Trên thế giới có bao nhiêu thể chế khác nhau nhưng ý niệm về nhân quyền chỉ có một, trừ những nước cộng sản. Ngay tại những nước còn giữ các thể chế “lạc hậu”, như nước Nhật, nước Anh, và cả nước Thái này, vẫn có vua, có nữ hoàng, nhưng có nhiều đảng chính trị cho dân lựa chọn, và người dân cũng có đủ mọi thứ tự do khác mà ở Việt Nam ngày nay, tự nhận là “cách mạng” là “Độc lập – Tự do – Hạnh phúc”, không có. Tại Việt Nam ngày nay, nếu chỉ làm những công việc không liên quan gì tới chính trị và đừng làm gì hay nói gì liên quan tới chính trị, nhất là chính trị không do đảng cộng sản lãnh đạo, thì chắc là có thể sống yên, nhưng với những người như tôi, đang làm những công việc không thể không liên quan đến chính trị, như viết văn làm báo, mà lại nghĩ đến chuyện “đi” chơi hay “về” Việt Nam sống thì cô có thể bảo đảm sẽ được hoan nghênh như… ông Kỳ không?

Cô cháu lặng thinh và chuyển đề tài.

Thái Lan là một trường hợp đặc biệt tại Đông Nam Á, đã không bị thực dân Tây phương chiếm làm thuộc địa và vẫn còn duy trị chế độ quân chủ, và uyển chuyển tránh được những cuộc chiến tranh do các thế lực ngoại bang gây ra. Tuy không chung biên giới với Việt Nam, Thái Lan là một nước láng giềng đã có nhiều liên hệ trực tiếp đến những biến động tại Việt Nam từ ba thế kỷ nay.

Ngay từ năm 1785, Thái Lan (sử sách VN gọi là “Tiêm-la”) đã can thiệp vào nội tình Việt Nam, ủng hộ Vua Nguyễn Ánh, bị quân Nguyễn Huệ đánh tan ở Mỹ Tho khiến Nguyễn Ánh phải chạy sang Thái tá túc trong hai năm, và đã giúp Thái đánh lại quân Diến Điện ở phái bắc và quân Mã Lai ở phía nam.

Theo lời đồn, Hồ Chí Minh cũng có lúc đã ẩn náu tại Thái Lan trong những năm bôn ba “tìm đường hại nước”. Nghe nói tại Noong Ổn, một ngôi làng hẻo lánh ở tỉnh Udon, có một “chuồng gà bác Hồ” (khi ấy mang bí danh “Thầu Chín”) được giữ làm di tích.

Thái Lan thực sự liên hệ nhiều tới Việt Nam từ năm 1946, khi hàng trăm ngàn người Việt sinh sống ở Lào, do Việt Minh tuyên truyền và tổ chức, đã vượt sông Mekong sang Thái tị nạn, chống lại âm mưu của người Pháp trở lại tái lập chế độ thuộc địa tại ba nước Đông Dương (Việt, Miên, Lào).

Sau khi Hiệp Định Genève được ký kết năm 1955, phần lớn Việt kiều ở Thái đã hồi hương, về miền Bắc hay miền Nam. Những người ở lại đã nhập tịch dân Thái, khá thành công trên “Xứ Phật”.

Năm 1965, Chiến tranh VN leo thang và Mỹ Hóa, phi trường Utapao trở thành căn cứ của “pháo đài bay” B-52, từ đó bay đi oanh tạc Bắc Việt hay trải thảm đường mòn HCM.  Thái Lan gửi Sư đoàn King Cobra (mãng xà vương) sang VN tham chiến cùng với Mỹ, trong lúc Bangkok trở thành một trong những trung tâm nghỉ dưỡng của Quân đội Hoa Kỳ tại Đông Nam Á.

Tháng 4, 1975 Chiến tranh VN chấm dứt. Hàng triệu người ồ ạt bỏ nước, vượt rừng, vượt biển đi tị nạn cộng sản, tràn ngập bờ biển các nước Đông Nam Á và biên giới Thái Lan. Trong khi người tị nạn Việt Nam được tiếp nhận và đối xử nhân đạo tại nhiều nước, từ Malaysia, Indonesia, Philippines, Hong Kong…thì Thái Lan đã đối xử rất tàn tệ với các người Việt Nam vượt rừng tới tá túc tại nước họ qua biên giới Thái-Miên. Bao nhiêu tội ác đã xảy ra tại Trại Kao I Dang mà những phái đoàn của Cao ủy Tị Nạn LHQ, các Hội Từ Thiện và phóng viên báo chí Tây phương đã ghi nhận.

Kinh hoàng hơn nữa, người Việt trong cơn hoạn nạn đã không được người Thái, những đồng Minh cũ, cứu giúp mà còn bị những chiếc tàu đánh cá của Thái Lan biến thành hải tặc  chặn đường, cướp của, giết người, hãm hiếp phụ nữ. Rõ ràng đây là những tội ác chống nhân loại đã diễn ra liên tục trong hàng chục năm mà Quốc Vương và chính quyền “Xứ Phật” đã không làm bất cứ điều gì để ngăn chặn hay trừng phạt những kẻ phạm tội.

Họ làm như những tội ác kinh tởm ấy không hề xảy ra, hay những con ác quỷ mặt người trong Vịnh Thái Lan không phải là người Thái, không phải là Phật tử của những ngôi chùa nguy nga trên khắp “Xứ Phật”.

Mặt khác, trong khi người tị nạn Việt Nam bị hải tặc Thái Lan cướp bóc, hãm hiếp và giết chết trên đường đi tìm tự do thì thực phẩm và hàng hóa Thái Lan ùn ùn xuất cảng sang Mỹ và các nước Tây phương bán cho những người sống sót, làm giàu!

Thái Lan còn xứng đáng với danh xưng “Xứ Phật” chăng? Và tại sao gần nửa thế kỷ đã trôi qua, Công Lý không hề đến với oan hồn của hàng trăm ngàn nạn nhân của hải tặc Thái Lan?

Trong mấy ngày lưu lại Thái Lan, tôi không tránh khỏi bị những câu hỏi trên đây ám ảnh khiến đôi lúc muốn hét to lên và rời khỏi “Xứ Phật” ngay.

Cuối cùng tôi cũng đã thoát khỏi cuộc tra tấn lương tri và trở về Mỹ, quê hương thứ hai của tôi. Hình ảnh tôi mang theo là gương mặt rạng rỡ niềm tin của một đứa cháu từ Sài-Gòn sang. Nó sinh năm 1986, chín năm sau cái chết của Tự Do tại Nam Việt Nam, và đang chờ một ngày lịch sử để đứng lên.

 Sơn Tùng

Virginia, 12.11.2015