Category Archives: SÁNG TÁC
Tết Tha Hương
(Thơ hoài hương ngày Tết của một số nhà thơ
vùng thủ đô Hoa Thịnh Đốn.)
Khi ngày Tết tới, trong kiếp sống tha hương người Việt chúng ta ai cũng có ḷòng tưởng vọng về quê cũ. Riêng đối với các nhà thơ, tình hoài hương lai láng đó được giàn trải bàng bạc thành những vần thơ dâng đầy sầu cảm.
Tết đến rồi kìa! Dù nơi cửa Thiền hay ngoài cõi tục trần vẫn luôn thoang thoảng mùi hương thơm của hoa Xuân:
“Hiên chùa trăng sáng bao la
Mùa Xuân của Đạo nở hoa nhiệm mầu
Hương thiền hàn gắn khổ đau
Ngõ tu phúc huệ, đường vào Chân như”
(Bùi Thanh Tiên)
“Đông đến và mùa khơi tháng giêng
Xuân gieo đêm chuyển mộng an hiền
Bừng vui môi mắt cười xanh quá
Mộng bỗng vàng ươm thơm cúc hoa.”
(Ý Anh)
Mỗi độ vào ngày Tết lại là một lần nhẩm đếm để ghi dấu thêm một năm nữa xa quê và lòng vẫn trĩu nặng hình ảnh dĩ vãng:
“Năm năm mỗi độ Xuân về
Nước non nhắc nhở niềm quê bồi hồi.”
(Kim Y)
“Nắng vàng như mật ong
Gió xanh màu cỏ biếc
Lòng ta đầy tưởng tiếc
Một thời Xuân xa xưa…”
(Hoàng Song Liêm)
Ngày Tết dù có đua nở khoe sắc thắm tươi với vạn vật nhưng nhiều lúc có lẽ đã tắt ngấm trong lòng người ly hương:
“Vui xuân đón Tết nhường thiên hạ
Riêng khách lưu vong vạn cổ sầu”
(Kim Y)
“Quê hương mình đẹp đâu bằng
Xuân xa quê chẳng nghĩ rằng là xuân”
(Hà Bỉnh Trung)
“Quê người đất khách Xuân sang
Trời đông giá lạnh lòng hoang vắng sầu
Cảnh đời sao lắm biển dâu
Tuổi thơ cho đến bạc đầu phong sương”
(Hoàng Trùng Dương)
Lòng nhớ quê hương lại càng nung nấu hơn nữa khi xuân cũng phải đổi màu vì tuyết trắng rơi phủ lạnh lẽo nơi xứ người:
“Xuân xanh, xuân đỏ rồi xuân trắng
Ta biết tìm đâu bóng dáng quê?
Ta biết tìm đâu thêm chút nắng
Khi trời đang lạnh, tuyết lê thê”
(Hà Bỉnh Trung)
“Đêm nay thức đợi Giao Thừa
Vườn sau vi vút gió lùa rặng thông
Một trời tuyết trắng mênh mông
Nhớ về quê mẹ cõi lòng quặn đau“
(Lê Thị Ý)
Quê nhà cách xa cả nửa vòng trái đất, trông vời chỉ thấy núi cùng sông, thấy biển cả mênh mông, thấy dáng chiều buồn vời vợi dưới ánh trăng suông:
“Xuân về đây – không hoa không lá
Vạn vật thờ ơ
Xuân xa lạ
Khách phong sương chợt thấy dạ bồi hồi
Xuân ơi! Xuân!
Từ lâu đã mất xuân rồi
Bao giờ xuân thắm quê tôi trở về”
(Trần Quốc Bảo)
“Rau răm trụi hết lá già
Mùa Xuân gửi ngọn bạc hà xa xăm
Chiều nghiêng dáng núi đêm rằm
Lũng trăng cũng giục âm thầm nhớ quê”
(Giang Hữu Tuyên)
“Dụng tửu phá thành sầu”, một chén rượu đưa tiễn năm cũ và đón chờ năm mới cũng vẫn chẳng làm ấm lòng người xa xứ, không mang lại chút vui nào:
“Năm châu lạc bước, vùi mưa tuyết
Nhìn đâu chẳng thấy bóng quê hương
Rượu đêm trừ tịch, xuân đất khách
Vẫn không cạn nổi, chén chán chường!”
(Vũ Hối)
“Ta rót mừng ta ly rượu đỏ
Chào Xuân đất khách, Tết tha hương
Hỡi ơi quê mẹ xa ngàn dặm
Se sắt lòng ta nỗi nhớ thương!”
(Hoàng Song Liêm)
“Xuân à! Những tưởng Xuân đi.
Nào hay Xuân lại tức thì đến ngay.
Đời say, Xuân cũng say say.
Hoa vàng, bướm trắng, ngất ngây một trời.
Xuân à! Những tưởng Xuân tươi.
Ngờ đâu Xuân cũng biết cười gió đông
Bên kia Xuân đẹp, Xuân nồng.
Bên này Xuân quá lạnh lùng, hỡi Xuân!”
(Đăng Nguyên)
Dù đầy nhung nhớ nhưng chỉ cần nghĩ đến hình ảnh quê nhà là tâm hồn người ly hương lại đã bừng lên niềm hoan hỉ chen lẫn mối hận lòng:
“Quê hương khuất nẻo chân trời
Bỗng dưng chớp rạng sáng ngời quê hương”
(Vi Khuê)
“ngỡ là xuân đến sau đông
Hoa đào xinh xắn tô hồng môi duyên
chỉ vì quốc hận chưa quên
hồn thơ u uẩn giữa mênh mông đời”
(Cao Nguyên)
Thời xưa thi sĩ Lamenais viết: “Kẻ tha hương ở đâu cũng cảm thấy cô đơn, lạc lõng” (L’exilé partout est seul). Thời nay các nhà thơ xa xứ cũng có tâm trạng đồng điệu, cõi lòng cũng lạnh lẽo khi nhớ tới tiếng pháo nổ ròn, nhớ về bóng mai vàng chào đón Tết trong ánh nắng quê xưa:
“Đâu còn đón Tết, mai vàng
Ngậm ngùi nuốt lệ, trái ngang nghẹn ngào”
(Vũ Hối)
“Xin gửi qua giùm chút nắng Xuân
Bên này đã lạnh thuở Thu phân
Bây giờ trời đất tràn băng giá
Không biết làm sao để ấm lòng”
(Lãm Thúy)
Dù khi có hoa đào nở, có hoa mai vàng hé nụ nhưng ngày xuân vẫn có vẻ gượng gạo, chẳng mang lại niềm vui:
“Ngỡ ngàng viễn xứ xa xôi
Bồng bềnh mây trắng nổi trôi quê người
Rộn ràng đào thắm khoe tươi
Mai vàng hé nụ gượng cười đón xuân”
(Quỳnh Anh)
Trong cuộc sống xa xứ bà Mẹ hiền cao niên luôn nhớ đến quê cũ khi xuân về.
“Làm sao em quên được
khi lúc nào Mẹ cũng âu lo.
Nghĩ đến những người thân còn kẹt lại.
Tối ngày, Mẹ cứ thở ngắn than dài…
Hỏi mãi, hỏi hoài
“Bao giờ mình mới được
về sống ở Việt Nam?”
(Hồng Thủy)
Khi chính bà Mẹ mình còn kẹt lại quê nhà thời nhà thơ đâu còn thiết đến đón Tết vì vắng hình ảnh kính yêu trong tâm khảm:
“Mẹ mất vào cuối năm
Hỏi chi hoa mai nở
Chờ gì én phất phơ
Ngàn đời xuân biệt tăm”
(Nguyễn Thị Thanh Bình)
Nhà thơ nhớ lại ngày nào còn viết những vần thơ đón Tết thành khẩn cầu chúc cho Cha Mẹ kéo dài tuổi thọ với đầy ân phước:
“Năm nay Xuân nữa, viết thơ xuân
Cầu cha mẹ thọ, đủ vui mừng
Tài lộc không màng, xin chỉ vậy
Phước là vui sống với song thân”
(Lãm Thúy)
Hình ảnh song thân trong gia đình Việt Nam quả thật mãi đẹp trong tâm hồn các nhà thơ:
“về thôi, Tết đã đến rồi
Mẹ chờ đun lửa canh nồi bánh chưng
Cha chờ rót chén rượu mừng
đêm chờ ngày mới núi rừng rộ hoa”
(Cao Nguyên)
Nhưng rồi theo quy luật “vô thường” Mẹ yêu cũng khuất bóng khiến lòng nhà thơ ngậm ngùi hơn khi năm cùng tháng tận:
“Xuân về chạnh nhớ Mẹ yêu
Nghĩa trang hoang vắng buồn hiu mộ phần
Mẹ đi giã biệt dương trần
Không còn mong đợi mỗi lần xuân qua”
(Hoàng Trùng Dương)
“Nhớ ngày năm ngoái con còn Mẹ
Cùng đón Xuân về, vui biết bao.
Mẹ khuất. Năm nay Xuân quạnh quẽ
Tha hương nghe lạnh gió đông sầu.”
(Lãm Thúy)
Giây phút linh thiêng đón Năm Mới cũng là lúc nhớ đến song thân, đến “Nguồn Cội”:
“Giao thừa kinh nguyện ngát trầm hương
Giây phút thanh tân thắm nụ hường
Bóng Mẹ hiền lương am Tịnh Độ
Dáng Cha phúc hậu mái Xuân Đường.”
(Phan Khâm)
“Thắp nén nhang trầm đón Tết ta
Mâm đầy ngũ quả lại bày ra
Chè sen thơm ngát dâng tiên tổ
Hương khói chân thành khấn Mẹ Cha”
(Nguyễn Thị Ngọc Dung)
Sợ thế hệ con cháu trong tương lai bị vẩn đục bởi bụi bặm cõi trần gian mà quên nếp cũ, nhà thơ nhắc nhở:
“Tân niên khai bút đề thơ
Nhang trầm thơm ngát bàn thờ tổ tiên
Rể, dâu, con, cháu đoàn viên
Cả nhà sum họp ấm êm vui vầy…”
(Hoàng Trùng Dương)
“Tết nay nội ngoại về trời,
Mẹ cha khuất núi, xa vời người thân,
Phong tình cổ tục quên dần,
Gắng công gìn giữ được ngần ấy thôi”
(Nguyễn Thị Ngọc Dung)
Nhà thơ cũng lại nhớ thêm đến cả người con thân yêu đã yểu số xa lìa dương thế:
“Cây đào cũ hết ra hoa.
Con về thiên cổ, Hoa là cành không.
Xuân còn sót lạnh tàn đông
Mẹ còn nguyên, nỗi nhớ nhung đọa đày.”
(Lãm Thúy)
Đôi khi cõi lòng tưởng nhớ đến hình ảnh một bóng hồng năm cũ với nụ cười như hoa nở, nhớ lúc cận kề tình tứ trong buổi gặp gỡ hôm nao, hình ảnh dấu yêu vẫn mãi vương mang trong tiềm thức:
“Tôi vô tình nhớ năm qua
Vào xuân em mát lụa là tháng giêng
Em cười nở nụ thủy tiên
Đời tôi hóa kiếp truân chiên mất rồi”
(Phan Khâm)
“Xuân về chợt thấy thiếu em
Yêu đương nồng thắm êm đềm ngày xưa
Bên nhau biển lặng rừng thưa
Có em quên hết nắng mưa, ưu phiền…”
(Bùi Thanh Tiên)
Thơ hoài hương day dứt nỗi buồn xa xứ, lai láng tình tự dân tộc. Những vần thơ không chỉ còn là những dòng mực trải trên trang giấy vô tri vô giác nữa mà đã thật sự gần gũi với dòng máu chảy trong huyết quản khách ly hương. Bao hình ảnh thân thương xa xưa lại được dịp hồi tưởng lại khi đón Tết xa quê:
“Tha hương Tết lắm ngậm ngùi…
Thương quê, thương bạn, đâu nguôi lòng này
Ngồi đây đếm vạn đắng cay
Giao thừa quê mẹ, phương này tuyết rơi.”
(Vũ Hối)
“Xuân đến rồi ư người bạn nhỏ
đầy thềm tuyết đọng suốt đêm qua
ngẩn ngơ tự hỏi mùa xuân đến
xuân ở ngoài đời hay trong ta…
Nghĩ lại năm xưa xuân hớn hở
bạn bè nhộn nhịp lòng như hoa…
Xuân này ngó lại đầy bông tuyết
tóc trắng bay theo những mộng đời
bạn cũ, quê xưa nào đâu thấy
chỉ thấy quanh nhà tuyết lại rơi.”
(Nguyễn Tường Giang)
Vào cuối năm, khi nhìn tuyết rơi trắng nơi nơi ở khắp đất khách lòng nhà thơ lại gợn lên bao nỗi sầu nhất là khi cô đơn đón Tết:
“Người bạn bên hàng xóm
ngừng đào tuyết, hỏi tôi
man, you looked so sad
what’s your problem?
Vâng, lòng tôi buồn lắm
Hôm nay ngày cuối năm
Bao nhiêu người đón Tết
Tôi ở đây một mình”
(Nguyễn Tường Giang)
Đôi khi bão tuyết mịt mùng, chôn lấp cảnh vật, chôn sâu thêm nỗi niềm nhung nhớ của nhà thơ. Trong màn sương tuyết đó bóng người sao mà mờ ảo, như thực, như hư, chập chờn vì sương tuyết hay vì làn nước mắt, vì giấc mộng mơ:
“Lại một Xuân về trên đất khách
Tết buồn, Tết nhớ, Tết tha hương!
Ngày xanh như lá thu vàng rụng,
Trở giấc đêm về mộng viễn phương.”
(Hoàng Song Liêm)
Nhà thơ đôi lúc cảm thấy không còn thi hứng để sáng tác, khi nghĩ đến cảnh khổ đau của người dân trong nước:
“Tân niên gác bút không khai bút
Thơ xuân ngượng ngập ở đầu môi”
(Trần Quốc Bảo)
Hoặc khi nghĩ đến cảnh xưa tang tóc vì chiến tranh lẫn cảnh đọa đày ngày nay của dân Việt trong nước:
“mùa Tết mà rưng cay khoé mắt
phải anh vừa nhắc chuyện Mậu Thân
Huế chít khăn sô buồn thấm đất
mưa phùn phủ trắng mộ đời hoang”
(Cao Nguyên)
“Anh hỏi em
Mỗi độ Xuân về trên đất Mỹ
Em có bao giờ…
Nghĩ đến Việt Nam không?
Có chứ anh
Em vẫn thường tự hỏi
Những cội mai vàng có còn nở đầy bông?
Chợ Tết Saigon có còn đông như trước?
Chợ Hoa đường Nguyễn Huệ
Tài tử giai nhân
Có còn dập dìu chen chân bước?
Như những ngày…
Đất nước mình còn hai chữ Tự do?”
(Hồng Thủy)
Nhưng đôi khi khung cảnh mùa xuân được lòng hoài hương gợi hứng nhà thơ vẫn đem cả tâm tình gửi vào những vần điệu với nỗi lòng nhung nhớ quê hương:
“Cố hương xa mấy trường đình
Xin đem gởi trọn tâm tình vào thơ”
(Anh Độ)
“Em về quê cũ xin cho gởi
Trắng một cành hoa đến muôn nơi
Sông sẽ cùng hoa đi khắp nẻo
Thì thầm tình tự đất mình ơi.”
(Ý Anh)
Dù vắng tiếng chuông chùa, thiếu mùi trầm hương, thiếu tiếng pháo reo vui, vắng bóng hoa mai vàng rực rỡ lời thơ vẫn vang lên những lời cầu chúc tốt đẹp cho thân nhân và bằng hữu trong cảnh tha hương:
“Thiên nhiên khởi sắc đón mùa sang
Lòng kẻ tha hương bỗng rộn ràng
Đất khách chẳng còn tràng pháo đỏ
Quê người dù thiếu bóng mai vàng
Chúc Xuân lời vẫn ươm tình nghĩa
Mừng Tết thơ luôn đượm ánh quang
Thoang thoảng hương trầm khơi kỷ niệm
Vẳng chuông chùa cũ tiếng còn vang.”
(Tâm Minh)
Trong tận cùng tâm khảm, lời ước đầu năm của các nhà thơ thường là điều mơ ước được trở về lại chốn quê cha đất tổ vào một ngày nào đó trong tương lai:
“Quay đi quay lại đã già
Bước run trên tuyết, thoáng qua nửa đời
Còn bao xuân nữa quê người
Và hôm nào sẽ pháo vui quê nhà”
(Lê Thị Ý)
“Xuân qua lặng lẽ, cành trơ lá
Đất khách quê người nỗi nhớ xa
Giấc mộng muôn trùng sao chưa đến
Bao giờ ta lại gặp quê ta?”
(Bùi Thanh Tiên)
“Xôn xao tiếng gió đêm trừ tịch
Lả ngọn đào xuân lay giấc Xuân.
Lửa ấm sao nghe lòng buốt giá
Giao thừa năm cũ vẫn bâng khuâng…
Bao giờ trở lại quê xưa nhỉ?
Chợt lắng tâm tư sầu gợi sầu
Đất khách, quê người Xuân lữ thứ
Se lòng trăn trở giấc chiêm bao.”
(Hoàng Song Liêm)
Trong tận cùng nỗi nhớ, người dân Việt thầm cầu chúc cho đất nước một ngày nào đó được thật sự độc lập, tự do và hạnh phúc, toàn dân Việt được thật sự giải phóng khỏi mọi khổ đau để những ngày đón Tết năm mới sẽ rộn nở mãi mãi trên đất Việt trong một mùa Xuân dân tộc:
“Trước thềm Năm Mới ta cùng chúc
Quê cũ mai này hết xót xa.”
(Nguyễn Thị Ngọc Dung)
“Ta cứ ngỡ chết rồi mi sẽ khép
Mùa xuân đâu sao chim én chưa về
Mi sẽ khép lúc xuân về tươi đẹp
Anh hãy về cho én lượn trên quê”
(Nguyễn Thị Thanh Bình)
“Mùa Xuân Tổ Quốc không xa nữa
Đồng lúa miền Nam óng ánh vàng
Rừng núi miền Trung hoa rộ nở
Mừng ngày giải phóng được giang san”
(Giang Hữu Tuyên)
Ngọn cờ vàng ba sọc đỏ lại tung bay rực rỡ trong mùa mới, màu cờ chính nghĩa của toàn dân Việt, niềm mơ ước của người xa xứ trong cuộc đời tỵ nạn cộng sản:
“Chúa Xuân phất ngọn cờ vàng
Trên đỉnh cao cổ thụ
Thời gian chín ngọt mênh mang
Chở tin yêu về đầy vũ trụ
Sông núi chuyển mình
Đón chào Chân Thiện Mỹ
Xuân giáng sinh và ngự trị vĩnh hằng”
(Trần Quốc Bảo)
“Ngày mai, vui Xuân chiến thắng
Mai vàng nở rộ, đón Xuân sang!
Khải hoàn ca, ầm vang khắp phố
Cả non sông, rợp bóng cờ vàng!”
(Vũ Hối)
“Chúc tụng Xuân nào đầy mãn nguyện,
Ngày về rực rỡ đất Thăng Long”
(Nguyễn Thị Ngọc Dung)
Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Virginia, USA, tháng 1 năm 2016
Trước Thềm Xuân Bính Tuất)
Hoàng Trường Sa
(Tưởng niệm 42 năm hải chiến Hoàng Sa
của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa
19/01/1974 – 19/01/2016)
Cao Nguyên
Ơi Hoàng Sa! Hỡi Trường sa!
Bi thương tiếng gọi sơn hà Việt Nam
Đang còn bị giặc xâm lăng
Nước trào rỉ máu, Đất oằn xót đau!
Ơi Tổ Quốc! Hỡi Đồng Bào
Yêu thương tiếng gọi thắm màu quê hương
Âm vang trống giục sa trường
Bạch Đằng dậy sóng quật cường oai nghiêm!
Giơ tay cao thét lời nguyền
Hận thù Bắc Thuộc hịch truyền xuất quân
Đánh cho giặc Hán kinh hồn
Muôn đời khiếp sợ tinh thần Văn Lang!
Hoàng Trường Sa của Việt Nam
Đã trong sử sách ngàn năm lưu truyền
Trống đồng hào khí linh thiêng
Hãy vang lên khắp mọi miền núi sông!
Triệu con tim một tấm lòng
Quyết tâm tiêu diệt thù trong giặc ngoài
Việt Nam ơi! Tổ Quốc ơi!
Triệu con dân Việt sẽ khơi sử hồng!
Từ Trường Sơn tới Biển Đông
Thịt da xương máu con Rồng cháu Tiên
Núi Sông là một mạch liền
Không ai có thể đảo điên sơn hà!
Cao Nguyên
Đông Bắc Mỹ – Jan 17, 2015
Paracel-Spratly Islands
In remembrance of The 42-year
Paracel Islands Sea Battle of The Republic of Vietnam Military Forces
(Jan. 19, 1974 – Jan. 19, 2016)
O Paracel Islands! Spratly Islands!
What a moan it was, the call of Vietnam’s Mountains and Rivers
For still being invaded by enemies
Waters overflowed with blood; lands bent down with pain
O Spratly Islands! O Paracel Islands! O Homeland! O Countrymen!
Love, the call deeply painted with homeland’s color
Resounding, the battle field drums called to forward
Bạch Đằng River rising up solemnly unyielding waves!
Holding up hands high with the roaring vows
Hostility against China’s domination, proclamation launched for soldiers to go forth
Fighting the Hans made them scared to their soul
For thousands of years in fear of Van Lang’ spirit
Paracel and Spratly Islands are of Vietnam
Already inscribed in History for thousand years to pass on
The bronze drums of sacred heroics
Let them resound all over the mountains and rivers
Million hearts but only one will
Determined to destroy outer and inner foes
O Vietnam! O Father Land!
Millions of citizens will make Hồng’s History to start
From the Long Mountain to the East Sea
All are the flesh and skin of Dragon’s and Fairy’s descendants
Mountains and rivers are one continual vein
Nobody can make any topsy-turvy reverse to Mountains and Rivers
Cao Nguyen
(Translator: William Hoàng)
Có Quê Hương Trong Giọng Nói Người Mình
Nguyễn Quang Dũng
Tôi rời quê nhà, vượt biển với vợ con tìm tự do, năm 1981. Lúc đó tôi 27 tuổi. Đến nay như vậy đã hơn 30 năm xa xứ. Và Tết vẫn là khoảng thời gian nhắc nhớ nhiều nhất trong tôi về quê hương khốn khó Việt Nam.
Năm đầu tiên xa nhà, tôi ăn Tết ở trại tỵ nạn Bataan.
Tối giao thừa, tôi nghe bà con trong trại tỵ nạn xách nồi niêu, soong chảo, thùng thiếc lên mái nhà khua gõ ầm ĩ… thay cho tiếng pháo mừng xuân. Trong bóng đêm của trại tỵ nạn không có khung cảnh quen thuộc, ấm cúng mà trang nghiêm, của Ba tôi thắp đèn cầy, đốt nén nhang trên bàn thờ tổ tiên đã chưng đầy hoa quả, khấn vái cầu nguyện cho một năm mới bình yên, tôi bỗng thấy nhớ nhà vô hạn.
Nhớ nhà và buồn muốn khóc.
Tới Mỹ năm 1982, vất vả với những lo toan cho đời sống mới trước mặt, tất bật với ngày đêm và công việc mưu sinh, nhiều khi quên bẵng đi chuyện nhớ nhà, thì vẫn là ngày Tết nhắc nhớ trong tôi đến Ông-Bà-Cha-Mẹ-Anh-Em. Vậy mới biết những gì tôi lớn-lên-và-sống-với từ thuở nhỏ ở quê nhà đã ăn sâu trong tiềm thức tôi.
Tôi và vợ tôi lui hui dựng lại cái bàn thờ Tổ Tiên trong căn nhà mình ở Mỹ theo trí nhớ.
Tượng Phật Bà Quan Thế Âm thì bọn tôi xin được từ lúc đi lau chùi nhà bếp và cắt cỏ ở nhà một Ông Tướng người Mỹ từng chỉ huy lực lượng quân sự của Mỹ tại Việt Nam. Bức tượng Phật Bà bằng đá Non Nước Đà Nẵng rất đẹp nhưng bị đặt nằm dưới đất trong một góc vườn của vợ chồng ông tướng. Với mớ tiếng Anh rất còn lơ mơ của tôi lúc đó, tôi hỏi bà Tướng là tại sao bà lại để lăn lóc tượng Phật Bà như thế này? Bà ấy rất ngạc nhiên, nhưng cuối cùng thì cũng hiểu ra và giải thích với tôi là bà ấy không hiểu về Phật giáo và không biết bức tượng là một biểu tượng thiêng liêng đối với chúng tôi như vậy. Và bà bèn tặng vợ chồng tôi tượng ấy. Tôi không bao giờ quên ông bà Tướng người Mỹ rất tốt bụng này.
Những thứ còn lại là chân đèn cầy, bình thắp hương, bình cắm hoa, dĩa chưng hoa quả và hình ảnh những người thân đã khuất. Vậy là tạm đủ cho Bàn Thờ Ông Bà, theo những gì bọn tôi còn nhớ.
Giao Thừa những năm đó, khoảng thập niên 90, chỉ có tôi và vợ tôi loay hoay chưng hoa quả nhang đèn trên bàn thờ Tổ Tiên. Đúng giao thừa, tôi đốt nén nhang khấn vái Ông Bà – cũng giống như Ba tôi vẫn khấn vái như vậy vào Lễ Giao Thừa.
Trong giây phút cuối năm ấy, trước bàn thờ Tổ Tiên, hình như tôi vẫn muốn được trở về, sống lại cái khung cảnh quay quần với Ba Má anh em tôi trong phút Giao Thừa.
Tôi vẫn thấy nhớ nhà và nghèn nghẹn muốn khóc.
Ở những khoảnh khắc chuyển giao của cũ và mới, của kết thúc và bắt đầu, của năm cũ và năm mới tôi nhận ra quê hương không phải là những gì trừu tượng, xa vời trong trí tưởng mà đó là những tình cảm rất rõ nét tự lúc nào đã bám chặt trong tôi. Là Ba tôi. Là Má tôi. Là Anh Em tôi. Là Nơi Chốn tôi sinh ra và lớn lên.
Dần dà, tôi tiếp xúc và tham gia sinh hoạt với những người đồng hương trong vùng tôi ở và quen dần với những cái tết xa quê.
Sinh sống giữa nơi chốn của người Mỹ và những người nói tiếng Mỹ, tôi vẫn khựng lại khi nghe tiếng người đàn ông hay đàn bà la rầy con bằng tiếng Việt, tiếng người mình, ở những siêu thị hay ở những nơi mà tôi không nghĩ là nghe được tiếng Việt.
Thì ra tự trong giọng nói người Việt mình tôi nhận ra trong tôi một sợi dây liền lạc, một nỗi gắn bó với quê nhà giờ đã xa tít nửa vòng trái đất.
Tôi nhận ra ở cộng đồng người Việt ở đây có rất nhiều Hội Ái Hữu mang tên những vùng đất ở Việt Nam. Hội Gò Công. Hội Long Xuyên. Hội Nha Trang. Hội Huế. Hội Quảng Đà. Hội Đà Lạt. Hội Quảng Trị….
Tôi nhận ra sợi dây liên lạc với quê hương giữa những người đồng hương nằm ngay trong giọng nói quê nhà. Gần gũi và thân tình nảy sinh một cách tự nhiên khi người mình gặp nhau, nghe lại được những giọng nói rất đặc thù Việt Nam – rất “Quảng Nam”, rất “Huế”, rất “Sàigòn”, rất “Nha Trang”, rất “Quảng Trị”…
Ba Má tôi gốc Quảng Trị – chánh quán làng An Du Nam, Vĩnh Linh, Quảng Trị. Trước 1975, An Du Nam nằm bên kia vĩ tuyến 17, bên kia sông Bến Hải, thuộc miền Bắc.
Ba tôi, một công chức trung cấp của chính quyền miền Nam, trôi nổi theo vận nước từ Quảng Trị xuôi về miệt miền Nam. Cư sở cuối cùng của ông là Sài Gòn. Tôi dĩ nhiên
cũng đi theo ông. Từ Phan Rang ra Nha Trang, rồi Kontum, về lại Nha Trang, và trước 1972, tới ở Sàigòn cho đến ngày mất nước. Vì di chuyển theo Ba tôi đó đây như vậy nên tôi dường như không gắn bó với vùng đất nào của quê nhà.
Nhưng có một điều theo tôi suốt từ nhỏ tới lớn, không rời: Đó là giọng nói Quảng Trị của Ba Má tôi. Tôi nghe và rất quen thuộc giọng Quảng Trị của Ba Má tôi từ nhỏ, nhưng không nói được giọng Quảng Trị, có lẽ là do tôi sinh tại Phan Rang và lớn lên trong Nam.
Tôi gặp lại các anh Lê Quyền, Phan Khâm, Nguyễn Bồng trong Hội Quảng Trị vùng Hoa Thịnh Đốn trong các sinh hoạt cộng đồng người Việt vùng Thủ Đô. Tôi được nghe lại giọng nói quê mình.
Giọng nói của các anh giống như giọng nói của Ba tôi. Rất Quảng Trị. Không lầm lẫn đâu được. Đó là giọng nói của nằng-nặng-triũ-buồn-trong-âm-hưởng. Tôi nhớ Má tôi nói với tôi là – “ngoài quê mình sống cực lắm con ơi.” Có phải chăng là cuộc sống kham khổ trên mảnh đất Quảng Trị quê nhà làm giọng nói người Quảng Trị mình cũng bị trĩu nặng vì những lo toan?
Tết lại gần tới, khi viết những dòng này, tôi lại thấy nhớ quê nhà. Và nhớ hình ảnh Ba tôi lui hui khấn vái trước bàn thờ tổ tiên đêm Giao Thừa.
Ba tôi mất tháng 8 năm 2010, tại Sàigòn.
Tôi đang rất nhớ giọng nói Quảng Trị của Ba tôi. Hình như quê nhà đang vương vương trong ánh mắt.
Tôi lại thấy lòng buồn. Muốn khóc.
Nguyễn Quang Dũng
VA, những ngày gần Tết
Cô Gái Huế với Tranh Thiếu Nữ của họa sĩ Ðinh Cường
Phạm Thành Châu
Trí nhớ, khoảng năm 1970, sau khi tốt nghiệp trường Hành Chánh, tôi được bổ về Thừa thiên, Huế, làm việc. Nhiệm sở là quận Quảng Ðiền, với chức vụ Phó Quận Hành chánh. Quảng Ðiền cách Huế vài chục cây số, có cái địa danh rất nhiều người biết là phá Tam Giang với hai câu thơ “Thương em anh cũng muốn vô. Sợ truông nhà Hồ, sợ phá Tam Giang”. Phá Tam Giang cách quận lỵ, là chợ Ngũ Xã, chừng một cây số.
Thỉnh thoảng tôi ra đứng nhìn cái đầm nước rộng mông mênh đó mà chẳng thấy một chút xúc động, mơ mộng nào. Phía bên kia mờ mịt bờ dương liễu xanh thẫm, xa đến nỗi thành một vạch dài, chia cắt nước với trời. Sau lưng tôi là bờ đất với những cây dại rải rác. Làng xóm ở tít đằng xa. Sau lũy tre xơ xác là những ngôi nhà tre lụp xụp bên cạnh những thửa ruộng, những con đường quê vắng vẻ. Chiến tranh đã tiêu diệt một số người, một số khác tìm về thành phố sống lây lất, chỉ còn lại những người liều chết, sống bám ruộng đồng để săn sóc mồ mả tổ tiên, ông bà, cha mẹ …
Không rõ thời phát sinh hai câu thơ trên, phá Tam Giang nguy hiểm ra làm sao, chứ lúc đứng nhìn mặt nước yên tĩnh, bao la, tôi chẳng thấy sóng gió gì cả. Vậy mà cái anh chàng bạc tình nào đó nỡ ngâm nga hai câu thơ trên để nại lý do không thể vào Huế gặp “em”. Hay là anh ta cũng có cố gắng vượt truông nhà Hồ vào đến phá Tam Giang, thấy cảnh vật quá đìu hiu, anh ta cụt hứng, tặc lưỡi một cái và quay về với cô hàng xóm?
Ðã vậy có người còn bày đặt, thêm hai câu “Phá Tam Giang giờ này đã cạn. Truông nhà Hồ Nội tán cấm nghiêm”. Cô nào mà thèm nói như thế ? Thứ con trai hèn nhát, “thiếu tư cách” cỡ đó mà người đẹp phải năn nỉ ? Cô gái Huế, từ bao đời nay, là tiểu thư khuê các, vương tôn công tử thiếu điều quỳ lạy, chắc gì được để mắt đến, chưa nói đến gia pháp nghiêm minh, kín cổng cao tường, làm sao có chuyện liên hệ nam nữ, dù là quen biết, với một người con trai ở xa đến độ phải vượt truông nhà Hồ, vượt phá Tam Giang?…
Ủa? Thế còn tranh thiếu nữ của hoạ sĩ Ðinh Cường đâu, sao không nói đến? Xin thưa, vì yêu cô gái Huế quá nên tôi lạc đề. Mà cái tình yêu đó có nguyên nhân sâu xa nên tôi xin được phép dài dòng thêm chút nữa.
Năm đó tôi khoảng 15 tuổi, ở Hội An. Nhân dịp nghỉ hè, tôi rủ thằng bạn hàng xóm (đó là thằng Ðỗ Ðình Tân), hiện nay ở Philadelphia, làm một chuyến phiêu lưu ra Huế. Hai đứa tôi chưa biết Huế bao giờ, không có bà con nào ở Huế, vậy mà cứ đón xe đi bừa. Trong túi chẳng có nhiều, chỉ đủ trả tiền xe đò, còn thừa chút đỉnh thì ăn bánh mì không (không có nhân), uống nước máy bên đường. Chúng tôi xuống xe ở bến An Cựu, bắt đầu lang thang khắp nơi. Ðến giốc Nam Giao, qua nhà ga, thăm trường Ðồng Khánh, trường Quốc Học, qua cầu trường Tiền, đến chợ Ðông Ba, vào thăm Ðại Nội… Nghĩa là đọc sách, rồi hỏi người ta nơi nào nổi tiếng ở Huế là đến. Buổi chiều, sau khi rã cẳng, hai đứa tôi đến bãi cỏ trên bờ sông Hương, ngay trước nhà sách Ưng Hạ nằm dài ra, vừa chuyện trò vừa đón gió mát… Khi đèn đường sáng lên thì trời cũng chạng vạng. Hai đứa tôi chợt thấy bên kia đường, một cô bé đi qua, tay ôm chiếc chiếu. Cô lớn hơn tụi tôi khoảng vài tuổi, người mảnh khảnh, tóc ngang vai, mặt trái xoan dài trông vừa yểu điệu vừa ngây thơ. Có lẽ cô xem hai đứa tôi như em nên cử chỉ, lời nói rất tự nhiên tuy trong lúc đối đáp cô không xưng chị mà cũng không gọi tụi tôi bằng em. Giọng vui mà dịu dàng, cô nói là cho tụi tôi mượn chiếc chiếu để ngủ, sáng mai đem trả lại. Cô chỉ nhà cô, bên kia đường. Có lẽ ba mẹ cô đứng trên lầu thấy hai thằng nhỏ vô gia cư nên sai con gái đem qua cho mượn chiếu. Chúng tôi rất cảm động, lí nhí cám ơn. Ðã tử tế cho mượn chiếu, cô còn ân cần hỏi thăm mấy câu “Nhà ở mô?” “Ở Hội An” “Hội An là ở mô?” “Ði vô Ðà Nẵng rồi đi vô Hội An, xa lắm” “Có đi học không?” “Có, học trường Trần Quý Cáp”. Cô cười, miệng rất đẹp, mắt cũng rất đẹp. “Con trai đi chơi sướng hỉ”. Cô đi qua đường, vô nhà rồi mà hai đứa vẫn còn ngẩn ngơ. Ðược người đẹp nói chuyện thân mật như thế, là lần đầu trong đời nên tôi cứ tưởng cô là cô tiên trong truyện cổ tích vậy. Và hình ảnh cô, lời cô nói, đôi mắt, miệng cười của cô, tôi nhớ mãi đến bây giờ … Buồn ngủ lại gặp chiếu hoa, lại là chiếu do người đẹp đưa, chúng tôi trải lên cỏ, êm như nằm nệm. Hai đứa tôi ngủ thẳng một giấc đến sáng. Tỉnh dậy mới biết là bị mất giày sandale (giày có quai) và cả mũ hướng đạo (mũ rộng vành) nữa. Thời đó, giày có quai và mũ rộng vành là thời trang của học trò. Ðành mua một đôi giép rẻ tiền đi tạm.
Chừng đó tuổi mà tôi đã biết mê gái, nên tôi giành phần đi trả chiếu. Lần này tôi thấy cô đẹp hơn hôm qua, nhưng không biết làm thế nào để kéo dài thời gian gặp gỡ, tôi đành hỏi “Xuống sông tắm có được không?” Cô nhìn tôi, mắt sáng trưng vẻ như ngạc nhiên và cô cười “Ðược.” Ðoán chừng cô sẽ lên lầu xem hai đứa tôi làm gì nên tôi nổi máu anh hùng, cởi đồ nhảy xuống sông biểu diễn bơi lội. Cái bờ sông Hương rất cao, đứng nhìn qua bên kia, thấy gần nhưng xuống nước tôi bơi hoài, mỏi nhừ cả chân tay mà vẫn chưa đến bờ. Cầu Trường Tiền sáu vài mười hai nhịp thì sông Hương đâu phải hẹp. Khi đến bờ bên kia, tôi sợ quá không dám bơi trở lại nữa. Thế là tôi cứ mình trần, mặc chiếc quần đùi ướt mem, chạy dọc bờ sông, lên cầu Trường Tiền, chạy vòng về chỗ cũ. Xứ Huế, bấy giờ, các bà gánh hàng bán ngoài chợ còn mặc áo dài, thì cảnh một thằng nhỏ cứ trần trùng trục chạy ngờ ngờ qua cầu trên đường phố là một chuyện lạ. Có lẽ họ tưởng tôi điên. Khi về đến nơi, tôi nhìn qua bên kia đường, thấy cô bé đứng trên lầu, tựa lan can, nhìn tôi cười. Tôi không nhớ mình có mắc cỡ không, nhưng tôi cũng nhìn cô cười. Và tôi yêu cô ta từ đấy. Tự nhiên mà yêu chứ chẳng có nguyên nhân nào cả. Vì yêu cô bé đó mà tôi yêu lây tất cả các cô gái Huế. Tôi yêu lòng tốt của cha mẹ cô và yêu thương luôn người dân Huế .
Thời đó còn nghỉ hè, trường học đóng cửa, nhưng tôi cũng có gặp được nhiều người đẹp trên các đường phố. Cô nào cũng đẹp dịu dàng và làm điệu khi được con trai nhìn. Dĩ nhiên hai thằng nhà quê, ngơ ngáo như tụi tôi thì cô nào mà thèm làm điệu.
Sau này, khi vào Sài Gòn học, xem triển lãm tranh của họa sĩ Ðinh Cường, thấy tranh thiếu nữ của ông ta, tôi biết ngay là ông vẽ các cô gái Huế. Ðúng hơn, ông vẽ cô bé mà tôi yêu. Nếu Từ Bi Hồng của Trung Hoa ngày xưa nổi tiếng vẽ về ngựa thì họa sĩ Ðinh Cường vẽ tranh thiếu nữ là tuyệt vời. Vị nào đã sống ở Huế một thời gian, đã thấm được cái hồn của Huế, đã cảm nhận được những gì giấu kín sau gương mặt bình thản như lạnh lùng của cô gái Huế thì mới thấy tranh ông đã thể hiện được cái nội tâm bí ẩn đó Dòng sông Hương lặng lờ, những con đường yên tĩnh. Ðại nội, lăng tẩm, đền đài lúc nào cũng như ngủ say với thời gian, ngay cả con người trên đường phố, cũng di chuyển từ tốn, thong thả … Nhưng không ai biết rằng, trong những khu vườn tưởng chừng vắng vẻ, trong những ngôi nhà cổ kính im lìm, ngay cả trong những cửa hàng buôn bán, những cuộc gặp gỡ quen biết, bao giờ cũng xôn xao những tin đồn, những lời đàm tiếu khắt khe, có khi đến cay độc của những người đàn bà, những cô gái thì thầm về những người đàn bà, những cô gái khác. Và thế là, như một truyền thống tất cả đều được giấu kín. Các cô, từ bé, đã được dặn dò là phải đề phòng một thứ gió độc, vô hình nhưng nguy hiểm, đó là dư luận. Người lớn tuổi làm gương cho lớp trẻ thấy cách thức che giấu những ý nghĩ, những tình cảm của mình. Nhưng khổ nỗi, tuổi mới lớn nào mà không mơ mộng. Tâm hồn cô nào cũng như sợi tơ trước gió, chỉ một chút giao động là đã ngân lên biết bao âm điệu ngọt ngào, thánh thót. Nhưng biết làm sao? Chỉ có họa sĩ Ðinh Cường mới “vẽ ” được những bâng khuâng, những mơ mộng vẩn vơ đó ẩn dưới cái vẻ yểu điệu thục nữ, dưới gương mặt dịu dàng nhưng làm như vô tình của các cô gái Huế.
Thời còn đi học ở Sài Gòn trước 75, xem tranh Ðinh Cường, bao nhiêu năm rồi mà tôi vẫn còn nhớ hầu hết các tranh thiếu nữ của ông, chân tay khẳng khiu, cổ cao, ngực chưa phát triển. Ðó là những cô bé điển hình trong những gia đình nền nếp ở Huế. Các cô được nuông chiều quá nên thành nhõng nhẽo, khó tính. Các bà mẹ thường kêu lên “Nó không chịu ăn. Có ngon bao nhiêu, dỗ dành bao nhiêu, cũng chỉ ăn có chút xíu. Không biết tại sao nữa?” Thì tại sao! Tuổi đó phải ăn quà rong mới lớn được. Tuổi đó phải nô đùa, cười nói, chạy nhảy mới phát triển. Mà các bà mẹ Huế thì cấm tiệt. Thỉnh thoảng lắm, các cô mới lén rủ nhau đi ăn chè Cồn, ăn bánh bèo Vỹ Dạ. Bún mụ Rớt thì chỉ nghe người khác khen ngon hoặc họa hoằn lắm mới liều đi ăn thử, để biết với bạn bè . Ở nhà cũng có bún, có chè, nhưng các cô không thấy ngon vì không có bạn bè cùng sì sụp với nhau. Các cô không thấy ngon vì thiếu cái khung cảnh chộn rộn của quán ăn, thiếu làn gió mát sông Hương, thiếu cây cỏ, đường đất khó khăn khi chở nhau trên chiếc xe đạp và nhất là thiếu bóng dáng mấy cậu học trò cứ lởn vởn, lượn lờ chung quanh với những lời chọc ghẹo vu vơ, bóng gió …
Tôi nhớ mãi bức tranh ông vẽ một cô, giống cô bé đã cho hai đứa chúng tôi mượn chiếc chiếu. Cô choàng khăn nhiều màu rực rỡ. Có lẽ vào mùa thu, gió thổi tung chiếc khăn, thổi tung cả mái tóc, thổi tung cả tâm hồn mới lớn, yêu người, yêu đời của cô… Và những cành lá của hàng cây bên đường cũng lao xao, rung động. Nền là bầu trời xám nhưng vẫn còn sáng lên những tia nắng rực rỡ … Vẻ mặt cô điềm tĩnh, nhưng người xem vẫn cảm nhận được những xao xuyến trong lòng cô. Một bức khác, vẽ những cô gái đi chơi xuân. Hoa nở khắp nơi, hoa nở chung quanh các cô. Hàng cây bên đường cũng sáng lên như nở hoa. Vẫn những cô gái mới lớn nhưng trông các cô vui và bối rối, như đang túm tụm, quýnh quýu với nhau. Người xem tranh cứ tưởng vì mình ngắm các cô trong tranh khiến các cô mắc cỡ nhưng vui thích. Một bức khác vẽ một cô đi học, mắt nhìn thẳng, vẻ tự tin và “xem thường bọn con trai”. Bạn có khi nào ra Huế và đứng ngắm các cô nữ sinh Ðồng Khánh đi học về chưa? Nếu bạn gặp các cô về trên con đường nhỏ trong Thành Nội thì càng thú vị. Nên thơ vô cùng. Nhưng dù gặp bất cứ đâu, cũng chẳng có cô nào thèm nhìn bạn. Có điều bạn không ngờ, chỉ một cái liếc mắt, dáng người, vẻ mặt cử chỉ bạn đã được các cô nhận biết rất rõ ràng, tỉ mỉ. Các cô còn biết bạn nhìn cô nào nhiều nhất nữa. Nhưng tuyệt đối, không có cách nào bạn gợi chuyện mà các cô trả lời. Vì hễ trả lời là các cô bị dư luận đàm tiếu ngay. Ở Huế, hàng cây bên lối đi, ghế đá công viên, đèn đường buổi tối, bờ sông lộng gió … Chúng như có mắt có tai. Cô nào gặp ai ở đó, nói gì, làm gì, tức khắc, chúng kêu lên và cả thành phố đều biết. Các cô uất ức lắm, chỉ muốn phá vỡ, đạp tung ra, nhưng không được. Vậy là các cô làm cách mạng trong văn, thơ. Những chuyện tình nóng bỏng, những giao tiếp nam nữ nồng nàn, cuồng nhiệt… Các cô tung hê, rên rỉ, chửi rủa. Và chửi rủa thẳng vào cái nề nếp cổ hủ, khắt khe, lạc hậu của dư luận xứ Huế. Ða số các nữ sĩ nổi tiếng đều là người Huế. Có một cách giải thoát nữa là các cô theo gia đình ra khỏi Huế. Lúc đó các cô như chim sổ lồng. Các cô vui tươi, thảnh thơi, thoải mái. Các cô cùng bạn bè thả rễu trên đường phố, liếng thoắng cười nói, cãi vã, sà vào hàng quà rong, chép miệng, hít hà vì cay, vì ngon, chẳng thèm nhìn chừng chung quanh như lúc còn ở Huế. Trong sân trường, các cô chạy nhảy, đuổi bắt nhau, rồi đốp chát, cả đến chọc ghẹo các bạn trai.
Thời còn trung học, ở trong Nam, lớp bạn có cô nào người Huế không? Thật tuyệt vời. Cả lớp như hân hạnh có được cô bạn tiểu thư đến học chung. Bạn vào lớp mà lòng cứ háo hức, muốn nổi bật trước người đẹp, nhất là khi được cô ta chuyện trò với bạn bằng thứ tiếng Huế pha giọng miền Nam, thì tim cứ mềm nhũn ra! Giọng cô vừ thánh thót vừa ngập ngừng như nũng nịu .. Nũng nịu vì biết bạn bè, cả bạn gái nữa, thương yêu, nuông chìu.
Làm việc ở Huế, tôi thường lảng vảng trước nhà cô bé ngày xưa đã cho tôi mượn chiếc chiếu, trên đường Trần Hưng Ðạo, nhưng hình như nhà đã đổi chủ. Không thấy cô nhưng hễ đi ngang qua là tôi vẫn dòm chừng, vừa hy vọng vừa buồn vẩn vơ. Tôi được biết họa sĩ Ðinh Cường cũng ở Huế, ông dạy Hội họa ở trường Mỹ thuật, và các trường Ðồng Khánh, Quốc Học, Thành Nội (Hèn chi ông vẽ các cô nữ sinh Ðồng Khánh hay quá!), nhưng tôi không quan tâm đến ông, chỉ chờ ông triển lãm tranh để đi xem mà thôi. Vả lại, mình không phải văn nghệ sĩ, tiếp xúc với họ, mình thành lạc lõng ngay. Chuyện gặp gỡ sau đây, bạn sẽ thấy các ông văn nghệ sĩ, càng tài hoa càng không giống “người phàm” chút nào.
Một buổi tối, có người bạn đánh xe đến rủ tôi vào Ðại nội thăm họa sĩ Ðinh Cường. Xe chạy qua cửa Hiển Nhơn, vào các con đường hẹp, lát đá, hai bên là tường cao, cây cối um tùm, đèn đường tù mù, vàng vọt. Ðại Nội, tức hoàng cung là nơi gia đình nhà vua ở và làm việc, nay bỏ hoang. Ban ngày, vào Ðại Nội, đã thấy vắng vẻ, ban đêm lại càng âm u như cảnh liêu trai, người lẫn lộn với hồn ma, bóng quế. Nhà hoạ sĩ Ðinh Cường ở cạnh trường Mỹ Thuật Huế, trước đây là văn phòng của hoàng đế Bảo Ðại khi ngài còn làm Quốc trưởng. Khi chúng tôi xuống xe, đã thấy trước nhà ông mấy vị ngồi quanh một cái bàn nhỏ, tay cầm một ly rượu, im lặng như mấy pho tượng. Bạn tôi giới thiệu tôi với họ, chỉ thấy họ gục gặc đầu thay lời chào. Tôi cũng làm như vậy cho hợp cách. Tôi được biết đó là những họa sĩ Văn Ðen, Mai Chửng, Hiếu Ðệ, Bửu Chỉ, Trịnh Cung… và một số nhà văn nổi tiếng từ Sài Gòn ra. Rồi ông Ðinh Cường từ trong nhà đi ra. Ông rót cho chúng tôi ly rượu, tôi cũng cầm và ngồi xuống như họ. Ngồi một lát, tôi chán, đòi về. Lúc đó ông Ðinh Cường mới nhờ tôi sáng mai, chủ nhật, đưa dùm mấy người bạn từ Sài Gòn ra, đi xem lăng tẩm, chùa chiền. Tôi nhận lời nhưng báo trước là xe tôi tệ lắm, sợ mất uy tín mấy ông mà thôi. Nguyên nhân, là khi về nhận nhiệm sở thì không có phương tiện cho ông phó (là tôi) đi công tác. Tay Quận trưởng mới lôi chiếc xe Jeep phế thải từ thời Thế chiến thứ hai ra, kêu mấy tay thợ sử máy cày đến, đục đục, gõ gõ, lui cui mấ ngày thì xe nổ máy, nhưng cái trần thì mục rã, thành một lỗ trống hoác phía trên. Sáng hôm sau, khi tôi đưa chiếc xe cà tàng đó đến thì các ông đứng sẵn ở đấy cứ trố mắt ra mà trầm trồ, suýt soa, coi bộ khoái chí lắm. Khi xe chạy, các ông chen nhau đứng lên, thò đầu qua cái trần xe thủng, nhìn phố xá, nói cười hí hửng như trẻ con. Thiên hạ đi đường nhìn các ông mà kinh ngạc. Cả đến ông cảnh sát chỉ đường trước ty Thông tin cũng đứng nhìn sững, quên cả nhiệm vụ. Nhưng khi xe ra ngoại ô, đến chùa Từ Hiếu thì các ông trở lại yên lặng. Mỗi ông đứng riêng một góc. Ông thì nhì vô chùa, ông thì ngóng ra đồi thông, ông lại quay ra mấy cái mả … Chẳng biết các ông suy nghĩ gì mà không nói với nhau tiếng nào? Tôi chán nhưng cũng đành ngồi ngáp gió, chờ các ông chứ không bỏ về được. Xem thế đủ biết các ông văn nghệ sĩ không giống ai. Nhưng cũng có nhiều người lại thích giao thiệp với họ, kiểu dựa hơi để kiếm chút thơm lây. Giống như tên đánh xe cho quan Tể tướng ngày xưa bên Tàu vậy. Người ta chào quan Tể tướng mà tên đánh xe tưởng người ta chào hắn, mặt cứ vênh lên. Thì chính tôi cũng là tên đánh xe, đang khoe nhặng lên đây nè !
Nữa, lại lạc đề rồi! Xin lỗi, tôi xin trở lại chuyện tranh thiếu nữ của họa sĩ Ðinh Cường. Năm 75, sập tiệm. Tôi đi tù rồi đi HO qua Mỹ. Xui khiến sao tôi và hoạ sĩ Ðinh Cường ở cùng tiểu bang Virginia, nhà cũng gần nhau. Ông không nhớ ra tôi nhưng tôi thì nhận ra ông vì ông trông giống hình ông Tổng thống Mỹ trong tờ trăm Ðô la.
Tôi xin phép được đến nhà ông để xem tranh. Tranh ông bây giờ tuyệt vời hơn trước, từ bố cục, đường nét đến màu sắc. Nhất là màu sắc, ông đi màu như ông đã “ngộ ” với màu, chìm đắm, hòa nhập với màu vào tranh. Ông vẽ tranh bằng cái tâm, cái hồn của ông chứ không bằng tay, bằng cọ … khiến người xem rung động, hạnh phúc… Nhiều nhà văn, nhà thơ hải ngoại ra sách đều nhờ ông cái tranh bìa. Thơ, truyện có hay có dở, nhưng rủi mua nhằm sách dở thì cái tranh bìa Ðinh Cường cũng an ủi rất nhiều. Cái bìa lộng lẫy, sang trọng đã đáng tiền rồi.
Có lần nghe đài RFI (Pháp) phỏng vấn, ông bảo có chịu ảnh hưởng của họa sĩ Modigliani, nhất là về tranh thiếu nữ, nhưng tôi vẫn thấy tranh ông có những nét độc đáo, rất Việt Nam, rất Huế. Hình như ông đang mở ra một hướng mới cho tranh ông. Có những bức tranh, phải vừa thưởng thức vừa suy tư để tìm xem nhân vật trong tranh đang nghĩ gì, và sẽ làm gì ?… Tuyệt vời nhất là tranh khỏa thân. Chỉ vài đường cọ, tất cả hiện nguyên một cô gái. Dầy dầy sẵn đúc một tòa thiên nhiên. Nhưng trông cô ngây thơ, hoang dã và thánh thiện đến độ người xem không thấy ham muốn gì hơn là ao ước được ôm hôn cô và cảm thấy mình cũng thánh thiện như cô. Tôi nhớ cô bé ngày xưa, nhớ tranh thiếu nữ của ông quá. Tôi đến để tìm xem, nhưng ông không còn vẽ các cô gái mới lớn nữa mà ông vẽ các cô đã trưởng thành, nẩy nở toàn vẹn, giống như tranh phụ nữ vài thế kỷ trước. Nhưng tranh cổ điển quá khêu gợi, quá dung tục. Tranh ông kín đáo hơn. Chỉ để lộ một phần quần trắng ở chỗ mông tròn lẳn, thơm tho, như mời gọi, mà tà áo dài không che hết được. Vẻ mặt cô gái như trầm ngâm, suy tư…
Tôi nghĩ đến cô bé ngày xưa đã cho tôi mượn chiếc chiếu, bây giờ có lẽ cô cũng đã lớn như thế Nhưng hiện nay cô ta ra sao? Cô ta ở đâu? Cô đâu có ngờ rằng, một lần cô vô tình nhìn tôi cười mà tôi nhớ đến cô mãi.
Họa sĩ Ðinh Cường không còn vẽ tranh thiếu nữ tuổi mới lớn nữa. Ông đã để những cô bé mới lớn đó và cả những mơ mộng, nhớ nhung vẩn vơ của tôi ở lại bên kia bờ đại dương xa xôi.
Phạm Thành Châu
Ngày Xuân nói chuyện Thơ, Rượu và Trà.
Phạm Doanh
Vào đầu thế kỉ thứ 20, Trần tế Xương 1870-1907, nhà Thơ nước Việt ta đã có bài tứ tuyệt:
Một trà, một rượu,một đàn bà,
Ba cái lăng nhăng nó quấy ta.
Chừa được cái gì hay cái nấy,
Có chăng chừa rượu với chừa trà.
Nay chỉ xin đề cấp tới hai thứ mà nhà thơ Trần tế Xương muốn chừa. Thiết nghĩ cái mà Trần tế Xương không muốn chừa hay không thể chừa thì nói cùng hội Cao Niên có vẻ như là thừa thãi vì hai lẽ : hiện tại trên truyền hình quảng cáo cho Viagra lẫn Cialis đầy hấp dẫn rồi và thứ nhì do vì “ lực bất tòng tâm”. Vậy chỉ xin bàn về rượu và trà trong thơ .. Tàu.
I. Về Rượu
Xin khởi đầu với Thi tiên Lí Bạch.
Nhà Thơ hô : hãy nghiêng chén trong bài:
Tương tiến tửu. Lí Bạch
卷162_8 《將進酒》. 李白
Quân bất kiến:
君不見
Hoàng-hà chi thủy thiên thượng lai,
黃河之水天上來,
Bôn lưu đáo hải bất phục hồi.
奔流到海不復回。
Hựu bất kiến:
又不見
Cao đường minh kính bi bạch phát,
高堂明鏡悲白髮,
Triêu như thanh ti, mộ như tuyết.
朝如青絲暮成雪。
Nhân sinh đắc ý tu tận hoan,
人生得意須盡歡,
Mạc sử kim tôn không đối nguyệt.
莫使金樽空對月。
Thiên sinh ngã tài tất hữu dụng,
天生我材必有用,
Thiên kim tán tận hoàn phục lai.
千金散盡還複來。
Phanh dương, tể ngưu thả vi lạc,
烹羊宰牛且為樂,
Hội tu nhất ẩm tam bách bôi.
會須一飲三百杯。
Sầm phu-tử, Đan Khâu sinh.
岑夫子,丹丘生,
Tương tiến tửu, Quân mạc đình.
將進酒,君莫停。
Dữ quân ca nhất khúc,
與君歌一曲,
Thỉnh quân vị ngã khuynh nhĩ thinh!
請君為我側耳聽。
Chung cổ, soạn ngọc bất đắc quí,
鐘鼓饌玉不足貴,
Đãn nguyện trường túy bất nguyện tinh.
但願長醉不願醒。
Cổ lai thánh hiền giai tịch mịch,
古來聖賢皆寂寞,
Duy hữu ẩm giả lưu kì danh.
惟有飲者留其名。
Trần Vương tích thời yến Bình-lạc,
陳王昔時宴平樂,
Đẩu tửu thập thiên tứ hoan hước.
鬥酒十千恣歡謔。
Chủ nhân hà vi ngôn thiểu tiền,
主人何為言少錢,
Kính tu cô thủ đối quân chước.
徑須沽取對君酌。
Ngũ hoa mã, Thiên kim cừu.
五花馬,千金裘,
Hô nhi tương xuất hoán mĩ tửu.
呼兒將出換美酒,
Dữ nhĩ đồng tiêu vạn cổ sầu!
與爾同銷萬古愁。
Giải xuôi: Hãy chuốc rượu!
Anh không thấy sao : nước sông Hoàng từ trên trời rơi xuống, tuôn ra bể không hề trở lại, lại chẳng thấy kia : gương sáng, lầu cao soi rõ nỗi buồn vì tóc sớm bạc. Sáng còn như tơ xanh mà chiều đã như tuyết. Đời người khi đắc ý nên tận hưởng niềm vui, đừng để chén vàng cạn trơ dưới ánh trăng. Trời sinh ta ắt có chỗ dùng, nghìn vàng tiêu hết rồi lại có. Mổ dê, giết trâu để mà chè chén vui vẻ, phải uống một lần tới ba trăm chén mới đủ. Hỡi cụ Sầm [* Sầm trưng quân 岑征君*], này anh [* Nguyên 元丹丘* ] Đan Khâu [* Sầm và Nguyên là hai người bạn cùng thời với Lí Bạch *], rượu sắp đưa ra rồi, các người đừng ngừng chén! Vì bạn ta sẽ hát lên một bài, vì ta xin các bạn hãy nghiêng tai lắng nghe. Buổi tiệc lớn có tiếng chiêng, tiếng trống cũng không quí bằng. Ta không muốn tỉnh, chỉ muốn say khướt! Từ xưa thánh hiền đâu có được nghe nói đến, chỉ có kẻ say mới được nhắc đến tên mà thôi. Ngày xưa Trần Vương [* 陳王 hay Trần tư Vương 陳思王 tước của Tào Thực 曹植 , 192 – 232, tự Tử Kiến 子建, thời Tam quốc 三國 là con thứ ba của Ngụy vũ Đế 魏武帝 Tào Tháo, em của Văn Đế 文帝. Giỏi về văn chương *] mở tiệc nơi cung Bình-lạc [* Bình-lạc 平樂 : tên quán đời Hán . Có hai quán mang cùng tên . Cái thứ nhất xây vào thời Tây Hán 西漢, triều vua Cao Tổ 高祖, tại Trường-an 長安, trong vườn Thượng-lâm 上林苑, phía bắc cung Vị-ương 未央. Toà thứ hai dựng vào thời Đông Hán東漢 đời vua Minh-đế 明帝, tại phía ngoài cửa tây thành Lạc-dương 洛陽. Tào Thực 曹植 trong bài thơ “ Danh đô thiên 名都篇 “ có câu :” Ngã qui yến Bình-lạc, Mĩ tửu đẩu thập thiên 我歸宴平樂,美酒斗十千 ( Tiệc Bình-lạc ta về, Rượu ngon cả nghìn chén ) “ *], rượu quí vạn đồng một đấu, mặc sức ăn uống vui say, chủ nhân cớ sao lại nói thiếu tiền. Hãy mua rượu ngay để ta cùng bạn chuốc chén. Này là ngựa quí năm sắc, áo cừu trị giá cả ngàn vàng, hãy sai con đem ra mà đổi lấy rượu ngon, cùng nhau ta phá tan cơn sầu muôn thuở!
Dịch vần:
Thấy chăng ai:
Nước sông Hoàng từ trời trút đổ,
Tuôn ra khơi có trở lại đâu.
Lại chẳng thấy :
Sầu tóc bạc, lầu cao gương sáng,
Sớm tơ xanh, tối trắng tuyết pha!
Đời vừa ý hưởng đi mà,
Chớ để chén với trăng già trơ trơ.
Trời cho ta của tất phải dùng,
Ngàn vàng tiêu hết lại đầy vung.
Giết trâu, mổ dê vui cho đã,
Xúm nhau chè chén đủ ngàn chung!
Hỡi cụ Sầm,
Ới anh Nguyên.
Hãy chuốc rượu,
Chén cho tràn!
Vì người ta hát khúc ca,
Xin người hãy lắng nghe ta dạt dào!
Cỗ bàn chuông trống quí đâu,
Say vùi chớ để lúc nào tỉnh queo!
Xưa nay hiền thánh buồn teo,
Chỉ chàng say khướt danh lưu cõi đời.
Tiệc Trần Vương xưa nơi Bình-lạc,
Ngàn vạn li thù tạc liên miên.
Chủ nhân chớ ngại thiếu tiền,
Miễn sao có rượu chuốc liền với ai.
Giắt ngựa câu,
Lấy áo cừu.
Sai con đem đổi rượu mau,
Cùng người ta giết cái sầu ngàn xưa!
Nhìn quanh không thấy ai , nên Nhà Thơ phải:
Độc chước.
卷182_28 《獨酌》李白
Xuân thảo như hữu ý, La sinh ngọc đường âm.
春草如有意,羅生玉堂陰。
Đông phong xuy sầu lai, Bạch phát tọa tương xâm.
東風吹愁來,白髮坐相侵。
Độc chước khuyến cô ảnh, Nhàn ca diện phương lâm.
獨酌勸孤影,閑歌面芳林。
Trường tùng nhĩ hà tri, Tiêu sắt vị thùy ngâm?
長松爾何知,蕭瑟為誰吟。
Thủ vũ thạch thượng nguyệt, Tất hoành hoa gian cầm.
手舞石上月,膝橫花間琴。
Quá thử nhất hồ ngoại, Du du phi ngã tâm.
過此一壺外,悠悠非我心
Dịch vần :
Cỏ xuân như cố ý,
Mọc lan phía nam nhà.
Gió đông mang sầu tới,
Thấm vào mái tóc hoa.
Chuốc rượu cùng với bóng,
Ca vang trước rừng già.
Thông cao liệu có biết,
Trẩm bổng vì ai mà ?
Tay múa, trăng trên đá,
Gối duỗi, đàn dưới hoa.
Tới đó một bầu rượu,
Nào lo gì đời ta!
Rồi ban đêm dưới trăng :
Nguyệt hạ độc chước, tứ thủ.
Trích bài 1
卷182_22 《月下獨酌四首》李白
Kì nhất
其一
Hoa gian nhất hồ tửu, Độc chước vô tương thân.
花間一壺酒,獨酌無相親。
Cử bôi yêu minh nguyệt, Đối ảnh thành tam nhân.
舉杯邀明月,對影成三人。
Nguyệt kí bất giải ẩm, Ảnh đồ tuỳ ngã thân.
月既不解飲,影徒隨我身。
Tạm bạn nguyệt tương ảnh, Hành lạc tu cập xuân.
暫伴月將影,行樂須及春。
Ngã ca nguyệt bồi hồi, Ngã vũ ảnh linh loạn.
我歌月裴回,我舞影零亂。
Tỉnh thời đồng giao hoan, Túy hậu các phân tán.
醒時同交歡,醉後各分散。
Vĩnh kết vô tình du, Tương kì diểu Vân-hán.
永結無情遊,相期邈雲漢。
Giải xuôi : Dưới trăng uống rượu một mình, bốn bài.
Trích bài đầu
Dưới hoa một bình rượu, một mình rót uống, không có ai là thân cả. Nâng chén mời trăng sáng, cùng với bóng mình là ba người. Trăng đã không biết uống rượu, mà bóng chỉ biết theo ta. Tạm làm bạn với trăng cùng bóng mình, hưởng vui cho kịp ngày xuân. Ta hát, trăng ngây ngất không rời, ta múa bóng quay cuồng tả tơi. Khi say thì cùng vui đùa như thế đó, đến khi hết say rồi thì mỗi người một nơi. Muốn được tình chơi vu vơ thắt chặt mãi mãi thì chỉ có cùng hẹn nhau trên giải Ngân hà !
Dịch vần :
Dưới hoa một bầu rượu,
Cạn li chỉ có ta.
Cất chén mời chị nguyệt,
Với bóng nữa là ba.
Trăng kia không biết uống,
Bóng này chẳng rời xa.
Bạn cùng trăng với bóng,
Vui chơi kẻo nữa già.
Ta hát trăng ngây ngất,
Ta múa bóng sa đà !
Khi say cùng vui vẻ,
Lúc tỉnh lại phôi pha.
Gắn bó kiếp bèo nổi,
Hẹn nhau giải Ngân-hà !
Và :
Xuân nhật độc chước nhị thủ.
Trích bài đầu
卷182_30 《春日獨酌二首》李白
其一.
Đông phong phiến thục khí, Thủy mộc vinh xuân huy.
東風扇淑氣,水木榮春暉。
Bạch nhật chiếu lục thảo, Lạc hoa tán thả phi.
白日照綠草,落花散且飛。
Cô vân hoàn không sơn, Chúng điểu các dĩ qui.
孤雲還空山,眾鳥各已歸。
Bỉ vật giai hữu thác, Ngô sinh độc vô y.
彼物皆有托,吾生獨無依。
Đối thử thạch thượng nguyệt, Trường tuý ca phương phi.
對此石上月,長醉歌芳菲。
Giải xuôi : Ngày Xuân một mình chuốc rượu, hai bài.
Trích bài đầu
Bài một.
Gió xuân thổi hơi ấm tới, cây cỏ, nước non rạng rỡ dưới ánh xuân. Mặt trời chiếu đám cỏ xanh, cánh hoa rơi bay tứ tung. Mây trời lờ lững trong núi vắng, và chim đâu đó đều đã về tổ. Những loài đó đều có chỗ nương tựa, duy đời ta chẳng có chỗ nào nương nhờ ! Thấy như thế nên ngồi trên đá ngắm trăng, uống say rồi ca cho thoả.
Dịch vần :
Gió xuân mang hơi ấm,
Cây nước rạng xuân tươi.
Nắng soi cỏ xanh mượt,
Cánh hoa rụng bời bời.
Mây lẻ nơi đầu núi,
Chim đàn về tổ rồi.
Vạn vật đều có chỗ,
Riêng ta không một nơi.
Đành trên đá ngắm nguyệt,
Say nhừ ca hát vui.
Phải giải thích sao mình cần rượu đến thế :
Xuân nhật túy, khởi ngôn chí.
卷182_37 《春日醉起言志》李白
Xử thế nhược đại mộng, Hồ vi lao kì sinh.
處世若大夢,胡為勞其生。
Sở dĩ chung nhật túy, Đồi nhiên ngoạ tiền doanh.
所以終日醉,頹然臥前楹。
Giác lai miện đình tiền, Nhất điểu hoa gian minh.
覺來盼庭前,一鳥花間鳴。
Tá vấn thử hà nhật, Xuân phong ngữ lưu oanh.
借問此何時,春風語流鶯。
Cảm chi dục thán tức, Đối tửu hoàn tự khuynh.
感之欲歎息,對酒還自傾。
Hạo ca đãi minh nguyệt, Khúc tận dĩ vong tình.
浩歌待明月,曲盡已忘情
Giải xuôi : Ngày xuân say rượu, tỉnh rồi nói ý chí mình.
Cuộc đời như một giấc mộng dài, tội chi mà phải vất vả đời mình. Chỉ nên suốt ngày hãy say sưa, nằm lăn quay cạnh cột trước hiên nhà. Tỉnh dậy nhìn ra sân, một con chim trong bụi hoa đang hót. Thử hỏi hôm nay là ngày nào mà chim oanh lại học nói trong gió xuân như vậy. Lòng cảm xúc, muốn thở than, nhưng rồi lại nghiêng bầu rượu. Cất tiếng ca vang chờ trăng sáng, ca hết khúc quên cả nỗi lòng mình.
Dịch vần :
Cuộc đời giấc mộng lớn,
Làm chi cho nhọc mình.
Suốt ngày hãy say tít,
Trước hiên cứ lăn kềnh.
Tỉnh rồi nhìn trước cửa,
Dưới hoa chim liệng quanh.
Hôm nay là mấy nhỉ,
Gió xuân hoà tiếng oanh.
Xúc cảm lòng muốn nói,
Rượu kia lại nghiêng bình.
Hát ngao chờ trăng sáng.
Khúc dứt lòng nhẹ tênh.
Tiếp theo là Thi thánh Đỗ Phủ.
Nhà Thơ từng ham rượu, nhưng rồi vì bệnh tật nên “ chừa” bớt. Tuy nhiên ông ca tụng các vị tiên trong làng say:
Ẩm trung bát tiên ca.
卷216_25 《飲中八仙歌》杜甫
知章騎馬似乘船,
Tri Chương kị mã tự thừa thuyền,
眼花落井水底眠.
Khán hoa lạc tỉnh thủy để miên.
汝陽三鬥始朝天,
Nhữ Dương tam đẩu thủy triều thiên.
道逢麹車口流涎.
Đạo phùng khúc xa khẩu lưu diên.
恨不移封向酒泉,
Hận bất di phong hướng tửu tuyền.
左相日興費萬錢.
Tả tướng nhật hứng phí vạn tiền,
飲如長鯨吸百川,
Ẩm như trường kình hấp bách xuyên.
銜杯樂聖稱世賢.
Hàm bôi lạc thánh xưng tị hiền.
宗之瀟灑美少年,
Tông Chi tiêu sái mỹ thiếu niên,
舉觴白眼望青天.
Cử trường bạch nhãn vọng thanh thiên.
皎如玉樹臨風前,
Hiệu như ngọc thụ lâm phong tiền,
蘇晉長齋繡佛前.
Tô Phổ trường trai tú phật tiền,
醉中往往愛逃禪,
Túy trung vãng vãng ái đào thiền.
李白一鬥詩百篇.
Lí Bạch nhất đẩu thi bách thiên,
長安市上酒家眠,
Trường-an thị thượng tửu gia miên.
天子呼來不上船.
Thiên tử hô lai bất thượng thuyền.
自稱臣是酒中仙,
Tự xưng thần thị tửu trung tiên.
張旭三杯草聖傳.
Trương Húc tam bôi thảo thánh truyền,
脫帽露頂王公前,
Thoát mạo lộ đỉnh vương công tiền.
揮毫落紙如雲煙.
Huy hào lạc chỉ như vân yên.
焦遂五斗方卓然,
Tiêu Toại ngũ đẩu phương trác nhiên,
高談雄辨驚四筵.
Cao đàm hùng biện kinh tứ diên .
Giải xuôi : Bài ca về tám vị tiên trong giới uống rượu.
Tri Chương [* Hạ tri Chương 賀知章 , 659 – 744 tự là Quí Chân 季真 , tự xưng là Tứ minh cuồng khách 四明狂客, người vùng Vĩnh-hưng 永興, Việt châu 越州 , là một nhà thư pháp nổi tiếng. Tiến sĩ đời Vũ tắc Thiên 武則天 cầm quyền ( 684 – 701 ), làm quan tới Thái tử tân khách 太子賓客, bí thư giám 祕書監, nên có tên gọi Hạ Giám 賀監. Năm thứ ba đời Thiên-bảo thiên bảo 天寶 ( 744 ), dâng sớ từ quan nguyện làm đạo sĩ, về quê vùng Cối-kê 會稽. *] cưỡi ngựa mà giống như ngồi thuyền [* Vùng Ngô 吴 quê của Hạ Tri Chương, dân chúng thạo thuyền bè, nên Nhà Thơ dùng để so sánh cưỡi ngựa và chèo thuyền. Theo Việt tuyệt thư 越絕書 : “ Phu việt thủy hành nhi sơn xứ , dĩ thuyền vi xa , dĩ tiếp vi mã 夫越水行而山處, 以船為車, 以楫 為馬 ( Vượt sông mà qua vùng núi như lấy thuyền làm xe, lấy chèo làm ngựa ) “ *] , mải coi hoa nên sa chân xuống giếng nước, ông ngủ luôn dưới đáy giếng. Nhữ-dương [* Nhữ dương vương Lí Tiến 汝陽王 李璡 là con đầu của Ninh vương 寧王 Lí Hiến 李憲 Ninh vương 寧王, tên Hiến 憲 tự là Thành Khí qua đời, có tên thụy là Nhượng hoàng đế 讓皇帝. Mới đầu được lập làm thái tử, sau vì Lí Long Cơ ( Đường Minh hoàng ) có công diệt được họ Vi ( thái hậu ), nên được nhường ngôi kế vị này. Hiến có mười con trai, mà Tiến là con trai đầu. Lí Tiến ? – 750, được phong vương quận Nhữ-dương, từng giữ chức thái-bộc khanh, giao tình thơ, rượu với Hạ-tri Chương 賀知章 và Chử đình Hối 褚庭誨. Năm đầu đời Thiên-bảo 天寶 ( 742 ), sau khi an táng cha, được phong thêm Đặc tiến 特进, tặng thái-tử thiếu sư 赠太子少师.*] phải uống ba chén [* Tam đấu 三斗: Ba chung. Cát Hồng 葛洪 , 284 – 363, nhà văn đời Đông Tấn東晉 trong sách Bão phác tử 抱朴子, chương Tửu giới 酒誡 : “ Vu công dẫn mãn nhất hộc, nhi đoạn ngục ích minh; Quản Lộ khuynh ngưỡng tam đẩu , nhi thanh biện khỉ xán 於公 引滿一斛, 而斷獄益明; 管輅傾仰 三鬥,而清辯綺粲 ( Với ngài nhâm nhi một chén mà sử án nghiêm minh, Quản Lộ uống tràn ba chung mà ăn nói vanh vách ) “ *] trước khi vào cung chầu vua. Trên đường trông thấy xe chở men rượu mà nước miếng chảy rào rào, giận rằng mình không được phong ở đất Suối Rượu [* Tửu-tuyền 酒泉 : tên một ấp xưa . Theo Tả truyện 左傳, chương Trang công nhị thập nhất niên 莊公二十一年: “ Vương dữ chi Tửu-tuyền 王與之 酒泉 ( Nhà vua cấp cho ấp Tửu-tuyền ) “. Đỗ Dự 杜預 chú : “ Tửu-tuyền , Chu ấp 酒泉, 周邑 ( Tửu-tuyền, ấp thuộc nhà Chu ) “. Có người chú giải : tân quận , có huyện Tửu-tuyền, tỉnh Cam-túc 甘肅. Theo truyền thuyết, dưới chân thành có suối vàng ( kim tuyền 金泉 ) , nước suối có hơi rượu. Theo Thập di kí 拾遺記 : Diêu Phức 姚馥, người Khương 羌 vốn ham rượu, bạn bè đặt tên là Lực khát Khương 力渴羌, vua Vũ đế 武帝 nhà Tấn 晉 , cử giữ chức tể 宰 vùng Triều-ca 朝歌, ông ta đáp : “ Xin từ chối tới huyện Triều-ca, hạ thần thường giữ chức nuôi ngựa đã lâu, luôn luôn được ban rượu được vui tới trọn đời”. Vua phán : “ Triều-ca , kinh đô cũ của vua Trụ 紂 , có Tửu trì 酒池 ( thuộc tỉnh Hà-nam 河南省 ), khiến già Khương không bi khô héo vì khát.” Ông đáp : “ Lão Khương này đã dần tiêm nhiễm văn minh, nếu vui lòng với thứ nước tại Tửu-trì thì biến thành dân thời vua Trụ nhà Ân 殷 mất. Nhà vua vui mừng cho đổi đi giữ chức thái thú vùng Tửu tuyền 酒泉太守 *]. Tả Tướng [* Lí thích Chi 李適之,694 -747, người vùng Thành-kỉ 成紀, Lũng-tây 隴西. Ông là cháu nội Lí thừa Kiền 李承乾, làm tới chức thứ sử Thông-châu 通州刺史, hình bộ thượng thư 通州刺史. Năm đầu đời Thiên-bảo 天寶 ( 742 ) , giữ chức tả tướng , nhưng vì tranh quyền với Lí lâm Phủ 李林甫, thất bại nên bị bãi tướng. Sau đo làm thái tử thiếu bảo 太子少保, chức vị không có quyền hành. Năm thứ sáu đời Thiên-bảo 天寶 ( 747 ) bị biếm đi Viên-châu 袁州 và qua đời nơi này. *] trong ngày hứng lên tiêu tiền rượu đến vạn đồng. Uống như con cá kình lớn hút luôn tới cả trăm con sông [* trường kình hấp bách xuyên 長鯨吸百川 : cá kình dài hớp nước trăm sông. Tả Tư 左思, 250 – 305, nhà văn học thời Tây Tấn 西晋 trong Ngô đô phú 吳都賦: “ Trường kình thôn hàng , Tu nghê thổ lãng 長鯨吞航, 修鯢吐浪 ( Kình dài nuốt thuyền, Giải lớn nhà sóng ) “. Mộc Hoa 木華, 290 – ??, nhà văn thời Tây Tấn 西晋 trong Hải phú 海賦 : “ Ngư tắc hoành hải chi kình , đột ngột cô du , hấp ba tắc hồng địch súc, xuy lạo tắc bách xuyên đảo lưu 魚則橫海之鯨, 突兀孤游, 噏波則洪踧蹜, 吹潦則 百川 流 ( Cá ắt có Kình nằm dài trên biển, bỗng dưng bơi đi, hút sóng khiến nước dồn, phun vòi làm trăm sông ngập. ) “ *] , Nâng chén [* hàm bôi 銜杯 : nâng li , cụng chén. Lưu Linh 劉伶, 221 – 300, nhà văn thời Tây Tấn 西晋 trong Tửu đức tụng 酒德頌 : “ Phủng anh thừa tào, hàm bôi sấu lao 捧甖承槽, 銜杯漱醪 ( Đỡ chén hứng vò, Nâng li xúc rượu ) “ *] tự xưng là thánh yêu đời, người hiền đi ở ẩn [* Lạc thánh xưng thế hiền 樂聖稱世賢 : thánh khoái xưng là người hiền trên đời. Theo Tam quốc chí 三國志 , tập Ngụy chí 魏志 , chương Từ Mạc truyện 徐邈傳: “ Bình nhật túy khách vị tửu thanh giả vi thánh nhân , trọc giả vi hiền nhân 平日醉客謂酒清者為 聖人,濁者為賢人 ( Thường ngày các bợm nhậu dùng tiếng lóng gọi người trơ rượu là bậc thánh, người nát rượu là người hiền ) “ . Cụm từ trích trong bài thơ của ông, sau khi bị Lí lâm Phủ bãi chức tả tướng “ Tị hiền sơ bãi tướng, Lạc-thánh thả hàm bôi. Vị vấn môn tiền khách, Kim triêu kỉ cá lai? 避賢初罷相, 樂聖且銜杯. 為問門前客, 今朝幾個來 ( Tị hiền vừa mất chức, Thánh Khoái lại nghiêng chai. Xin hỏi khách trước cửa, Chiều nay có tới chơi? ) *]. Tông Chi [*Thôi tông Chi 崔宗之 ?? – ?? , tên là Thành Phụ 成輔. Là con của Thôi nhật Dụng 崔日用, nhờ thế tập mà được phong là Tề quốc công 齊國公. Trải qua các chức tả ti lang trung 左司郎中, thị ngự sử 侍禦史 , sau bị đổi đi Kim-lăng 金陵 *] thời nhỏ rất thanh thoát [* tiêu sái 瀟灑 : cũng viết là 瀟洒, lâng lâng thoát tục, không bị ràng buộc , an nhiên tự tại. *], trẻ đẹp [* Mĩ thiếu niên 美少年 : trẻ tuổi xinh tươi. Nguyễn Tịch 阮籍, nhà thơ nước Ngụy 魏 thời Tam quốc 三國 , trong Vịnh hoài thi bát thập nhị thủ 詠懷詩八 十二首, bài 4 : “ Ngưng sương triêm dã thảo, Triêu vi mị thiếu niên 凝霜沾野草, 朝 爲 媚少年 ( Sương đọng ướt cỏ nội, Sớm là gái kiều mị ) “ *], Nâng li lên là trên đời không thấy ai là tri kỉ, chỉ thấy trời cao xanh [* bạch nhãn vọng thanh thiên 白眼望青天 : chỉ đưa mắt trắng lên nhìn trời xanh : thái độ làm cao, khinh người đời. Theo Tấn thư 晉書 quyển 49, chương Nguyễn Tịch truyện 阮籍傳: “ Nhậm tình bất ki, kiến lễ tục chi sĩ , dĩ bạch nhãn đối chi 任情不羈,見禮俗之士, 以白眼對之 ( Đối xử không câu nệ, gặp người mà cứ giữ gìn theo lề thói, thiô lấy cặp mắt trắng mà đối xử )” . Theo Liệt tử 列子, chương Hoàng đế thiên 黃帝篇 : “ Phù chí nhân giả , thượng hám thanh thiên 夫至人者,上闚青天 ( Hễ là người nhân thì cứ hay nhìn lên trời ) “ *], trắng đẹp như cây ngọc trước làn gió [* ngọc thụ lâm phong 玉樹臨風 : cây ngọc trong gió. Thái độ lâng lâng sau khi uống rượu. Dương Hùng 揚雄 , 53 BC – 18 BC , nhà văn học thời Tây Hán 西漢 trong Cam tuyền phú 甘泉赋: “ Thúy ngọc thụ chi thanh thông hề, bích mã tê chi lân phiên 翠玉树之青葱兮, 璧馬犀之瞵㻞 ( Cây ngọc xanh có mầu đậm chừ, mã tê ( ngọc mã não và sừng tê giác ) biếc nổi vằn ) “. Theo Thế thuyết 世說 : “ Mao Tằng dữ Hạ hầu Huyền cộng tọa, thì nhân vị kiêm gia ỷ ngọc thụ 毛曾與夏 侯玄 共坐, 時人謂兼 葭 倚玉樹 ( Mao Tằng cùng ngồi với Hạ hầu Huyền , người đương thời nói là cây sậy dựa vào cây ngọc ) “ *]. Tô Tấn [* Tô Tấn 蘇晉 biết làm văn khi mới lên ba. Có sáng tác Bát quái luận 八卦論. Giữ chức lại bộ thị lang 吏部侍郎, bí thư thiếu giám 秘書少監 cho Vương Thiệu 王紹. Ứng thi tiến sĩ , sau lại dự khoa thi đại lễ đều trúng tuyển. Trong thời Tiên-thiên 先天 ( 712 ) chuyển làm trung thư xá nhân 纍遷中書舍人, sùng văn quán học sĩ 崇文館學士. Khi Đường minh Hoàng trị vì, các văn thư đều do Tô Tấn soạn trước. Sau vì bị gièm pha, lấy cớ có cha già, xin về hưu. Năm thứ mười bốn đời Khai-nguyên 開元 ( 726 ) lại ra làm lại bộ thị lang , giữ việc tuyển người, biết đề bạt, chức vị cuối cùng là thái tử tả thứ tử 太子左庶子 *], người trai giới thờ Phật [* trường trai : 長齋 : ăn chay. chỉ các người theo Phật giáo , nhất quyết không ăn sau giờ trưa. Sau này dùng chỉ người chỉ ăn rau, kiêng thịt. Từ Lăng 徐陵 , 507 – 583, nhà thơ nước Trần 陳 thời Nam Bắc triều 南北朝, trong Đông-dương, Song-lâm tự Phó đại sĩ bi 東陽雙 林寺傅大士碑 : “ Tự tu thiền viễn hác, tuyệt lạp trường trai 自修 禪遠 壑, 絶粒長齋 ( Tự tu thiền hang sâu, nhịn ăn chay dài ) “ *], Khi say lại thường thường ưa ngồi thiền [* ái đào thiền 愛逃禪 : ưa ngồi niệm Phật. Khi say, nhưng thường hối lỗi nên ngồi thiền cảnh tỉnh *]. Lí Bạch [* Lí Bạch 李白 sinh ngày 28 tháng 2 năm 701, qua đời năm 762, tự Thái Bạch 太白 , tự nhận là cùng chung ông tổ với dòng vua Đường, gốc vùng Thành-kỉ 成紀 , Lũng-tây 隴西 ( nay là Thiên-thủy 天水, Cam-túc 甘肅 ). Thời nhỏ sống trong vùng Thục, đọc sách theo đạo giáo. Năm hai mươi lăm tuổi sang vùng Lỗ quận 魯郡. Trong quãng thời gian này có tới Trường-an 長安 định mưu tìm công danh, nhưng không ưng ý nên quay lại phía đông. Quãng những năm đầu đời Thiên-bảo 天寶, vì có lời tiến cử của công chúa Ngọc Chân 玉真公主, nên ông theo chiếu vua mà về kinh, làm việc trong hàn lâm. Không lâu vỉ bị gièm pha, nên lại rời Trường-an, đi chu du các nơi. Khi có loạn An Sử , vì tình thế chưa yên, nên gia nhập chiến khu của Vĩnh-vương 永王 . Sau đó Vĩnh-vương bị Túc Tông 肅宗 giết, ông cũng bị trách phạt, phải đi đày vùng Dạ-lang 夜郎. Sau đó được đại xá, trở về miền đông, sống nhờ ông chú họ tại Đông-đồ 當塗 ( nay thuộc tỉnh An-huy 安徽 ) , không bao lâu, ông qua đời nơi đây. *] chỉ cần một li thôi là hàng trăm bài thơ ra, Nơi phố chợ Trường-an, tại quán rượu [* tửu gia 酒家: cửa hàng bán rượu, tiệm ăn Tư-mã Thiên 司馬遷, 145 BC – 86 BC, trong Sử kí 史記 chương Loan Bố Quí Bố liệt truyện 欒布季 布 列傳 : “ Cùng khốn, Nhẫm dong vu Tề , vi tửu nhân bảo 窮困, 賃傭於 齊,為酒人保 ( Cùng khốn, được trở về Tề, do chủ nhà hàng bảo lãnh )”. Bùi Nhân 裴駰 trong Tập giải 集解 , viện dẫn Hán thư âm nghĩa 漢書音 義 : “ Tửu gia tác bảo dong dã 酒家作保傭也 ( Hàng rượu đứng ra bảo lãnh ) “ *] say ngủ khì. Nhà vua cho thuyền tới đón, vì say quá mà lóng cóng hồi lâu mới bước lên được thuyền, [* Còn có nhiều giải thích khác. Cổ áo gọi là thuyền, Lí Bạch được đón về cung mà không kịp mặc áo cho đàng hoàng, đúng như câu chuyện dật sử về nhà thơ này. Vì được Ngô Quân 吳 匀, một đạo sĩ tiến cử cho vua Đường minh Hoàng, và nhà vua đang cần người viết lời để phổ nhạc cho phi Dương ngọc Hoàn 楊玉環, tại Trầm hương đình 沉香亭 hát , nên đã vội và tìm Lí Bạch gấp về làm công tác này. Tới cung vua, Lí Bạch hơi tỉnh rượu, khiến viên hoạn quan đầy thế lực là Cao lực sĩ 髙力士 phải cởi giày, mài mực, trải giấy và Lí Bạch vung bút viết nên ba bài Thanh bình điệu 清平調. Trong Chính tự thông正字通 , bình dân gọi thuyền là khâm xuyên 襟穿 ( mặc áo, choàng áo). Người xứ Thục gọi giải áo là xuyên 穿, người dân quê gọi trại ra là thuyền *], Thường nói rằng mình là vị tiên say rượu. Trương Húc [* Trương Húc 張旭 658 -747, tự Bá Cao 伯高, là một nhà thư pháp nổi danh. Sinh quán tại huyện Ngô 吳縣 thuộc quận Ngô 吳郡 ( nay là Tô-châu thị 蘇州市 tỉnh Giang-tô 江蘇省 ) . Ông được tôn xưng là Thảo thánh 草聖 vì tài thư pháp. Quãng thời Khai-nguyên làm quan tới chức thường thục úy 常熟尉, sau làm kim ngô trưởng sử金吾長史, nên người đời gọi ông là Trương trưởng sử 張長史 *] uống ba chén rượu là [* viết chữ rất đẹp *] người đời tôn là vị thánh viết chữ, tụt khăn [* thoát mạo 脫帽 : rũ khăn bịt đầu : tỏ ý hào phóng, mê mải vì nghệ thuật. Trong Nhạc phủ thi tập 樂府詩集, chương Tương hòa ca từ tam 相和歌辭三, bài Mạch thượng tang 陌上桑: “ Thiếu niên kiến la phu, thoát mạo trứ tiếu đầu 少年見羅敷,脫帽著帩頭 ( Thuở bé thấy cô hái dâu, Tụt khăn để lộ cái đầu tóc trơ ) “*], để đầu trần trước mặt các quan lớn, Vung bút trên giấy [*huy hào lạc chỉ 揮毫落紙: vung bút lông trên giấy. Cao Doãn 高允, 390 – 487, nhà văn học nước Ngụy 魏 thời Nam Bắc triều 南北朝 trong Chinh sĩ tụng 徵士頌 : “ Tĩnh ngôn tư chi, Trung tâm cửu tồi, Huy hào tụng đức, San nhĩ tăng ai 靜言思之, 中心九摧, 揮毫頌 德, 潸爾增哀 ( Ngưng nói mà suy, Chín đoạn ruột đứt. Vung bút ngợi ca , Khóc ông não nuột ) “ . Tông Khâm 宗钦, ??- 450, nhà văn học nước Ngụy 魏 thời Nam Bắc triều 南北朝 trong Tặng Cao Doãn 贈高允: “ Đạn hào châu linh, Lạc chỉ cẩm xán 彈毫珠零, 落紙錦粲 ( Bút đưa ngọc sáng, Giấy trải gấm loáng ) “. Phan Nhạc 潘岳, 247 – 300, nhà văn học thời Tây Tấn 西晋 trong Dương Kinh-hâu lỗi 楊荊州誄 : “ Hàn động nhược phi, lạc chỉ như vân 翰動若 飛, 落紙如雲 ( Bút vung như bay, Giấy cuốn tưởng mây ) “*] như mây khói vờn [* vân yên 雲煙 : mây và khói , chỉ vết mực như mây khói *]. Tiêu Toại [* Tiêu Toại 焦遂 ?? – ??. là người trong giới bình dân, nên không thấy kinh điển nói đến. Tuy nhiên có Viên Giao 袁郊 ??? – ???, nhà văn thời Đường, đời Hàm-thông咸通 ( 860 – 874 ) trong Cam trạch dao 甘澤謠 có thuật : “ Đào Hiện 陶峴, trong đời Khai-nguyên 開元 ( 713 – 742 ) , có nhà trong núi Côn Sơn, tự đóng thuyền, có khách là tiền tiến sĩ Mạnh ngạn Thâm 前進士孟彥深, tiến sĩ Mạnh vân Khanh 進士孟雲卿, kẻ áo vải Tiêu Toại ( bố y Tiêu Toại 布衣焦遂 ), đều bỏ vợ con lại, cùng lên thuyền đi ngao du vùng sông núi *] vừa mới làm độ năm sáu chai [* ngũ lục 五六: năm sáu Tư-mã Thiên 司馬遷, 145 BC – 86 BC, trong Sử kí 史記 chương Hoạt kê liệt truyện 滑稽列 : “ (Thuần vu Khôn viết) …nhược bằng hữu giao du, cửu bất tương kiến, tốt nhiên tương đổ, hoan nhiên đạo cố, tư tình tương ngữ, ẩm khả ngũ lục đẩu kính túy hĩ ( 淳于髡 曰 ) 若朋友交遊, 久不相見, 卒然相睹, 歡然道故, 私情 相 語, 飲 可 五六 斗徑 醉矣 ( (Thuần vu Khôn nói).. như bạn bè đàn đúm, lâu không gặp nhau, bỗng chợt được thấy mặt, mừng vui nói chuyện xưa, lòng riêng cởi mở, làm chừng năm sáu sị là đã sỉn rồi ) “ *] là quá mức [* trác nhiên 卓然: cao vút, xuất quần, vượt bực . Lưu Hướng 劉向, 77 BC – 6 BC, nhà văn học thời Hán 漢, trong Thuyết uyển 說苑 , chương Kiến bổn 建本 : “ Trần ai chi ngoại , trác nhiên độc lập, siêu nhiên tuyệt thế,, thử thượng thánh chi sở du thần dã 塵埃之外, 卓然獨立, 超然絶世, 此上聖之所 游神也 ( Ngoài cõi đời này, riêng nó cao vút, thật là cao nhất đời, đó là nơi bậc thánh lớn rong chơi ) “. Đào Tiềm 陶潛, 365 – 427, nhà thơ đời Đông Tấn 東晉 trong Ẩm tửu nhị thập thủ 飲酒, bài 8, : “ Ngưng sương điễn dị loại, Trác nhiên kiến cao chi 凝霜殄異類, 卓然見高枝 ( Sương đọng hại loài khác, Sừng sững thấy cành cao ) “ *], Nói thao thao và không dứt [*Cao đàm, hùng biện 高谈 雄 辩 : nói chuyện to tiếng, bàn luận ồn ào. Dữu Tín 庾信, 513 – 581, nhà thơ nước Bắc Chu 北周 thời Nam Bắc triều 南北朝 trong Dự lân chỉ điện hiệu thư hòa lưu nghi đồng 預麟趾殿 校書 和劉儀同: “ Cao đàm biến bạch mã , Hùng biện tắc phi hồ 高譚 變白馬, 雄辯塞飛狐 ( Nói cao đuổi ngựa trắng, Bàn lớn chặn cáo bay ) “*] khiến bốn bên trong bàn tiệc [*Tứ diên 四筵 : bốn phía : trước, sau, phải, trái so với người phát biểu trong bữa tiệc. Tạ Chiêm 謝瞻, ??? – ???, nhà thơ nước Tống 宋 thời Nam Bắc triều 南北朝 trong Cửu nhật tòng Tống công hí mã đài tập tống Khổng lệnh 九日從宋公戲馬台集送孔令 : “ Tứ diên triêm phương lễ , Trung đường khởi ti đồng 四筵沾芳醴, 中堂 起絲 桐 ( Bốn bề thấm rượu thơm, Giữa phòng vang tiếng nhạc ) “ *] phải kinh nể.
Dịch vần :
A.
Tri-chương cưỡi ngựa như ngồi thuyền,
Mắt mờ, rớt đáy giếng, ngủ liền.
Nhữ-dương, sớm chầu : say mới lên,
Dỏ dãi : đi đường gặp xe men,
Suối Rượu giận chẳng ở kề bên.
Tả Tướng ngày uống tốn hàng nghìn,
Kình hút trăm sông, sánh cũng nên,
Thánh vui làng nhậu : ấy người hiền.
Tông-chi đẹp mã từ thiếu niên,
Nâng li, mắt trắng cứ nhìn lên,
Trước gió cây ngọc đẹp như tiên.
Tô Phổ niệm Phật, chay kinh niên,
Khi gặp cơn say : trốn ngồi thiền.
Lí Bạch một chén, thơ trăm thiên,
Ngủ lì quán rượu chợ Trường-yên,
Vua cho gọi tới, chẳng lên thuyền,
Còn nói : ” Làng say, ta là tiên
Trương Húc ba chén tay vẫy liền,
Tụt mũ, đầu trần trước quan trên,
Bút vung mặt giấy : mây khói chen.
Tiêu Toại năm chén là láu liên,
Nói năng hoạt bát nể bốn bên.
B.
Tri-chương cưỡi ngựa như thuyền,
Mắt mờ, rớt giếng ngủ liền đáy sâu.
Nhữ-dương ba chén mới chầu,
Xe men vừa thấy rào rào dãi ra.
Hận Tửu Tuyền chẳng bổ về,
Tả Tướng ngày hứng dám chi ngàn đồng.
Như cá voi hút trăm sông,
Nâng li thánh khoái, tự xưng người hiền.
Tông-chi đẹp tự thiếu niên,
Chén nâng, mắt trắng chỉ nhìn trời trong.
Trắng như cây ngọc gió rung,
Tô Phổ thờ Phật một lòng giới trai.
Thích trốn thiền, khi cạn chai,
Lí Bạch một đấu, trăm bài thơ ra.
Trường-an quán rượu la cà,
Thuyền vua tới đón, cứ lờ không lên.
Tự xưng mình là trích tiên,
Trương Húc ba chén, tay biên nét thần.
Trước quan, khăn tụt đầu trần,
Bút lông lướt giấy, mây vần khói lan.
Tiêu Toại năm chén nóng ran,
Ăn thông nói thạo cả bàn đều kinh.
Với người bạn thân là Trịnh Kiền :
Túy thì ca.
卷216_17 《醉時歌》杜甫
Nguyên chú : Tặng Quảng Văn bác sĩ Trịnh Kiền
[*原注 : 贈廣文館博士鄭虔 *]
Chư công cổn cổn đăng đài tỉnh,
諸公袞袞登臺省,
Quảng-văn tiên sinh quan độc lãnh.
廣文先生官獨冷.
Giáp đệ phân phân yếm lương nhục,
甲第紛紛厭粱肉,
Quảng-văn tiên sinh phạn bất túc.
廣文先生飯不足.
Tiên sinh hữu đạo xuất Hi hoàng,
先生有道出羲皇,
Tiên sinh hữu tài quá Khuất, Tống.
先生有才過屈宋.
Đức tôn nhất đại thường khảm kha,
德尊一代常轗軻,
Danh thùy vạn cổ tri hà dụng.
名垂萬古知何用.
Đỗ-lăng dã khách nhân cánh suy,
杜陵野客人更嗤,
Bi cát đoản trách mấn như ti.
被褐短窄鬢如絲.
Nhật đích thái thương ngũ thăng mễ,
日糴太倉五升米,
Thì phó Trịnh lão đồng khâm kì.
時赴鄭老同襟期.
Đắc tiền tức tương mịch,
得錢即相覓,
Cô tửu bất phục nghi.
沽酒不復疑.
Vong hình đáo nhĩ nhữ,
忘形到爾汝,
Thống ẩm chân ngô sư.
痛飲真吾師.
Thanh dạ trầm trầm động xuân chước,
清夜沈沈動春酌,
Đăng tiền tế vũ thiềm hoa lạc.
燈前細雨簷花落.
Đãn giác cao ca hữu quỉ thần.
但覺高歌有鬼神,
Yên tri ngã tử điền câu hác.
焉知餓死填溝壑.
Tương Như dật tài thân địch khí,
相如逸才親滌器,
Tử Vân thức tự chung đầu các.
子雲識字終投閣.
Tiên sinh tảo phú ” Qui khứ lai “,
先生早賦歸去來,
Thạch điền mao ốc hoang thương đài.
石田茅屋荒蒼苔.
Nho thuật ư ngã hà hữu tai,
儒術於我何有哉,
Khổng Khâu, Đạo Chích câu trần ai.
孔丘盜跖俱塵埃.
Bất tu văn thử ý thảm thảng,
不須聞此意慘愴,
Sinh tiền tương ngộ thả hàm bôi.
生前相遇且銜杯.
Giải xuôi : Bài hát lúc say rượu.
Các ngài ngất ngưởng nơi đài, tỉnh [* Đài , tỉnh : tên các tổ chức của các cơ quan trung ương ( thời Hán ) đài 臺 lập ra, trong Tam đài三臺 . Coi việc dâng thư lên vua ( thượng thư尚書 ) là Trung đài 中臺, Xét đoán việc ( ngự sử 御史 ) là Hiến đài 憲臺, Để gặp vua ( Yết giả 謁者 ) là Ngoại đài 外臺 . ( thời Đường ) dùng Tỉnh 省: Trung thư tỉnh 中書省 và Môn hạ tỉnh門下省 ( lưỡng viện ), nhân viên làm việc trong đó được gọi là Các lão 閣老. Bao quát lên trên có thượng thư tỉnh尚書省. Cả cái khối này nói chung là Tam tỉnh三省. Thời trước, thượng thư tỉnh thường được đặt ngay trước cửa bắc cung vua, nên còn có tên gọi Bắc tỉnh北省 . Quán là cơ quan cho những người nằm chờ bổ nhiệm, được hưởng ít trợ cấp, như Nhà Thơ lúc đó *], Riêng thày Quảng văn một viên quan tép riu. Dinh các ngài thì tấp nập, thịt rượu ê hề, Nhà thầy Quảng văn thì bữa ăn cũng chẳng no. Đạo thày gốc từ thời Phục Hi [* Hi hoàng 羲皇 chỉ họ Phục Hi 伏羲氏 : một vị hoàng đế thời cổ, tương truyền dạy dân làm ruộng, đánh cá, nuôi súc vật, sáng tạo ra bát quái, tạo chữ viết.*], Tài của thày vượt cả Khuất Tống [* Khuất Tống 屈宋 nói gộp cúa Khuất Nguyên 屈原 và Tống Ngọc 宋玉, hai nhà văn nổi tiếng thời Sở. Lưu Hiệp 劉勰 , 465 – 520, nhà văn học nước Lương 梁 thời Nam Bắc triều 南北朝, trong Văn tâm điêu long 文心雕龍, chương Biện tao 辨騷 : “ Tự Cửu Hoài dĩ hạ, cự niếp kì tích, nhi Khuất Tống dật bộ, mạc chi năng truy 自九懷以, 遽躡其 跡, 而屈 宋逸步, 莫之能追 ( Từ chương Cửu hoài [*( Cửu hoài 九懷 : tên một chương, chương thứ 15 của Vương Bao 王褒 trong tập Sở Từ 楚辭, kế tục dòng văn chương Khuất Nguyên mà viết ra. ) trở xuống, tiếp theo vết chân chủ họ, hai ông Khuất Nguyên, Tống Ngọc đã ngưng nghỉ, không thể theo kịp được. ) “ . Khuất Nguyên 屈原, 343 BC – ??BC, tên Bình 平, còn có tên là Chính Tắc正則 tự Linh Quân 靈鈞, người nước Sở , cuối thời Chiến quốc. Sinh quán vùng Đan-dương 丹陽 ( nay là huyện Tỉ-qui 秭歸縣, Hồ-bắc. ). Từng giữ chức Tam lư đại phu 三閭大夫. Thời vua Hoài Vương 懷王 mắc lỗi và bị phóng trục lên vùng bắc Hán, bi phẫn viết ra thiên Li tao 離騷 để tỏ lòng trung trinh. Sau đó lại gọi về. Ít lâu sau lại mắc lỗi ‘ nói bừa ‘, lần này phóng trục xuống vùng nam Sở ( Giang Nam 江南 ) Quá bi phẫn nên nhảy xuống sông Mịch la 汩羅 chết chìm. Thêm các chương Thiên Vấn 天問, Cửu Chương九章, gom chung lại là Sở Từ 楚辭 và Tống Ngọc 宋玉 298 BC – 222 BC , người thời Chiến quốc 戰國, nước Sở 楚國, là một nhà từ phú nổi danh. Người vùng Yên-thành 鄢城 ( nay là thị xã Nghi-thành 宜城市, tỉnh Hồ-bắc 湖北省 ). Viết nhiều bài phú có tiếng như Cao-đường ( mô tả chuyện thần núi Vu sơn cùng Sở Tương-vương ) , Cửu biện : mô tả cảnh thu bi thiết, biện minh cho thày của mình là Khuất Nguyên . Tài nghệ cao với, tiếp tục đường truyển thống “ Sở từ “ khởi đầu từ Khuất Nguyên , nên người đời sau hay dùng cụm từ Khuất Tống 屈宋 để chỉ chung hai người và cũng hàm ý nỗi u uất của “ lời nước Sở “ *]. Đạo đức nhất đời mà luôn luôn lận đận, Chẳng biết lưu danh cho ngàn đời để làm gì. Ông nhà quê ở làng Đỗ-lăng kia [* Nhà Thơ tự ám chỉ. Đỗ-lăng 杜陵 : tên đất tại phía đông nam thành Trường-an, vào thời Tần có tên Đỗ-huyện, sau nhân vì có lăng mộ vua Hán tuyên đế nên mang tên Đỗ-lăng. Về phía đông nam Đỗ-lăng có Thiếu-lăng, đó là lăng của Hứa hậu, vợ cả nhà vua. Nhà Thơ thuộc chi nhánh họ Đỗ phòng Tương-dương 襄陽 , là hậu duệ xa cúa Đỗ Dự 杜預, gốc người vùng kinh triệu Đỗ-lăng. Nhà Thơ tự xưng là Đỗ-lăng dã lão, hay Đỗ Thiếu-lăng cũng vì theo tổ tịch. *], Trông điệu bộ lại thảm hại hơn. Áo vải vừa ngắn vừa chật, đầu bạc như tơ, Ngày ngày được hưởng năm thăng gạo từ kho Thái-thương [* Thái thương ngũ thăng mễ 太倉 五 升米 : năm thùng gạo của nhà nước. Tháng tám năm 753, tại Trường-an mưa nhiều gạo trở nên thiếu hụt, nhà vua phải cho xuất năm vạn thùng gạo từ kho thái thương để bán giá rẻ cho người nghèo. *], thường hay đến nhà lão Trịnh để cùng tâm sự [* khâm kì 襟期 cùng nghĩa với tâm kì 心期, khâm hoài 襟懷 : có cùng chí hướng , hoài bão, ý thích, chí thú 志趣 *]. Hễ có tiền là tìm nhau, Mua rượu chứ còn làm gì nữa. Quên cả hình hài, đến nỗi xưng mày tao với nhau, Say như chúng tôi đây thật đáng bậc thày. Đêm xuân âm thầm, lặng lẽ chuốc chén, Trước đèn mưa phùn, ngoài hiên hoa rụng. Hãy cứ hát nghêu ngao cho quỉ thần nghe, Biết đâu sau này mình cũng chết vất ngoài mương rãnh! [* câu hác 溝壑 :cũng viết là 沟壑 khe lạch trong núi, chỉ chết nơi gò hang hiểm hóc hay gặp cảnh ngộ̣ khó khăn. Theo Tả truyện 左傳, chương Chiêu công thập tam niên 昭公十三年 : “ Tiểu nhân lão nhi vô tử, tri tễ vu câu hác hĩ 小人老而無子,知擠於溝壑矣 ( Kẻ thường dân mà không có con, hiểu rằng mình sẽ bị bỏ vào nơi hang hốc ) “ . Theo Mạnh tử 孟子, chương Đằng văn công hạ 滕文公下 : “Chí sĩ bất vong tại câu hác, dũng sĩ bất vong tang kì nguyên 志士不忘在溝壑, 勇士不忘喪其元 ( Bậc chí sĩ không nề hà chết nơi gò hang, dũng sĩ không nề hà chết không còn đầu ) “ . Triệu Kì 趙岐 chú giải : “ Quân tử cố cùng, cố thường niệm tử vô quan quách một câu hác nhi bất hận dã 君子固窮, 故常念死無棺槨沒溝壑而不恨也 ( Bậc quân tử chập nhận cảnh khó, cho nên thường nghĩ rằng dù chết không có quan quách để chôn nơi gò hang mà cũng không ân hận ) *], Kìa tài cao như [* Tư-mã *] Tương Như [* Tư-mã Tương Như 司馬 相如: ( 179 BC – 117 BC ) hiệu Trường Khanh. Gốc người đất Thục ( Thành-đô, Tứ Xuyên ), người viết phú tài ba, đời Tây Hán. Đời vua Hán Cảnh Đế giữ chức Vũ Kị Thường Thị, sau cáo bệnh từ quan. Sau nhờ bài ‘Tử Hư phú’ mà Hán Vũ Đế ưa thích, sau dâng bài ‘ Thượng Lâm’ lại được vua mời ra làm quan , khi đi cầu công danh, có đề ở một cây cầu ‘ nếu không cưỡi xe bốn ngựa, không lại qua cầu này’. Ý nói có thành công mới qua lại cầu Là một tài tử, dùng tiếng đàn ( Khúc Phượng cầu hoàng ) mà quyến rũ được người đàn bà goá là Trác văn Quân. Sau này khi dưỡng bệnh ( bệnh tiết niệu ) Tư-mã Tương Như định cưới cô gái xóm Mậu-lăng ở Hưng-bình, Thiểm-tây, nhưng Trác văn quân ghen, Tương Như bỏ ý định đó và cả hai về Thành-đô mở quán rượu Có 4 bài phú nổi tiếng : Tử hư phú, Thượng lâm phú, Đại nhân phú, Ai Nhị thế phú. Hai bài Trường môn phú và Mĩ nhân phú bị nghi ngờ không phải là do ông sáng tác*], còn có lúc phải đi rửa chén bát [* sau khi thành hôn với Trác văn quân, hai người mở quán rượu tại Lâm-cùng 臨邛, Thục quận 蜀郡, Văn Quân ngồi quầy coi lò hâm rượu, Tương Như rửa chén. Địch khí 滌器 : rửa sạch đồ dùng, hay chỉ chậu dùng để rửa. Theo Hán thư 漢書, chương Tư-mã tương như truyện thượng 司馬相如傳上 : “ Tương Như thân tự trứ độc tị côn , dữ dong bảo tạp tác, địch khí vu thị trung 相如 身自著犢鼻褌, 與庸保雜 作, 滌器於市中 ( Tương Như trên người quấn cái khố hình mũi trâu, làm công việc vặt vãnh , rửa chén bát trong quán ) . Lưu Hiệp 劉勰 , thời Nam triều, nước Lương trong Văn tâm điêu long 文心雕龍 , chương Thì tự 時序 : “ Mãi Thần phụ tân nhi y cẩm, Tương Như địch khí nhi bị tú 買臣負薪而衣錦, 相 如 滌器而被綉 ( Mãi Thần vác củi mà sau này mặc áo gấm, Tương Như trước rửa chén mà sau có áo thêu. ) *], Nọ học thức rộng như Tử Vân [* Tử Vân 子雲 tên tự của Dương Hùng 揚雄, 53 BC – 18 BC , nhà văn học thời Tây Hán 西漢, người gốc Thành-đô. Thời trai trẻ ham làm phú, học theo Tư-mã Tương-như. Sau đổi hướng, viết Thái Huyền太玄 ( mô phỏng kinh dịch ), Pháp ngôn 法言để sánh với Luận ngữ ( sách do các học trò Khổng tử ghi chép lời thày dạy ), theo Thương Hiệt倉頡 mà soạn ra Huấn toản 訓纂, theo Nghiêu châm 虞箴 mà soạn ra Châu châm州箴. Tham khảo Hán thư 漢書 , quyển 87, phần sau, chương Dương Hùng liệt truyện tán 揚雄列傳贊 : Vào năm Hùng hơn 40 tuổi, rời Thục lên kinh đô, Vương Âm 王音 là quan đại tư mã xa kị tương quân 司馬車騎將軍 thấy văn của Hùng có phong cách, bèn cử làm nhân viên trong văn phòng, chờ chiếu vua bổ nhiệm. Hơn măm sau dâng bài phú Vũ liệp 羽獵賦, bổ làm quan, chức cấp sự hoàng môn 給事黃門 , sánh cùng Vương Mãng 王莽 Lưu Hâm 劉歆 . Đầu đời vua Ai đế 哀帝 cùng làm quan với Đổng Hiền 董賢. Vào những năm trong triều vua Thành đế 成帝 ( 32 BC – 7 BC ) , Ai đế 哀帝 ( 6 BC – 2 BC ), Bình đế 平帝 ( 1 BC – 4 AD ) cùng giữ chức tam công 三公 với Vương Mãng và Đổng Hiền, quyền khuynh át cả vua, hanh thông không ngưng, nên suốt trong ba đời vua, Hùng không rời chức quan. Kịp tới khi Vương Mãng chiếm ngôi vua, nhiều người dùng giấy khen để khoe mong được bổ vào chức vị cao, Hùng không làm thố, cùng các kì cựu giữ nguyên chực đại phu, dửng dưng với danh lợi. Hùng ham cái học thời cổ, vui với đạo, ý chỉ mong có tác phẩm để lại đời sau. Hùng cho trong các kinh, kinh Dịch 易經 là quan trọng, nên viết Thái huyền 太玄, trong các truyện , Luận ngữ 論語 là quan trọng, nên viết Pháp ngôn 法言, sách về lịch sử ( sử thiên 史篇), có Thương hiệt 倉頡 là chân thành, nên viết Huấn toán 訓纂, về châm không có cái nào hay hơn Ngu châm 虞箴 , nên viết Châu châm 州箴 . Phú 賦 không bài nào thâm thúy hơn Li tao 離騷, nên quay về mà phổ biến, Văn ( từ 辭 ) không bài nào chải chuốt như của Tương Như 相如, nên viết bốn bài phú : dùng bản gốc cúa Tương Như mà châm chước, dùng cái đó làm đà mà tiến lên. Cần nội dung bản văn, không cần văn vẻ, nên người đương thời không mấy chú ý, nhưng được hai vị là Lưu Hâm 劉歆 và Phạm Thuân 範逡 kính trọng, mà Hoàn Đàm 桓譚 cho là tuyệt luân *], rút cục cũng nhảy lầu [* đầu các 投閣 : nhảy lầu . Theo Hán thư 漢書, Dương Hùng truyện tán 揚雄傳贊: Dương Hùng khi đang soạn sách tại gác Thiên-lộc 天祿, thì Lưu Phân 劉棻 người từng tới nhờ Dương Hùng giải thích chữ viết thời cổ. Lúc đó Lưu Phân bị Vương Mãng 王莽 ngờ có tội. Khi viên cai ngục tới bắt, Dương Hùng sợ không thoát, nên nhảy từ trên lầu xuống và chết. Vương Mãng nghe tin Dương Hùng nhảy lầu chết, mới hỏi : “ Hùng không liên quan, sao lại tới chỗ đó? ( Hùng tố bất dữ sự , hà cố tại thử ? 雄素不與 事,何故 在此?)”. Sau có chiếu bãi án, khiến dân nơi thủ đô phân vân truyền nhau lời than : “ Duy tịch mịch, tự đầu các. Viên thanh tĩnh, tác phù mệnh 惟寂寞,自投 閣. 爰清靜,作符命 ( vốn vô can, tự nhảy lầu. Giữ thanh tĩnh, theo mệnh trời ) “. Nhan sư Cổ 顏師古, người đời Đường giái thích câu đó như sau : “ Câu này lấy gốc trong tập “ Giải trào “ của Dương Hùng, giống như câu sấm vậy. Sau này cụm từ chỉ việc không may bất ngờ sảy ra. *]. Thầy đã sớm học bài phú ” Về đi thôi ” [* Qui khứ lai 歸去來 chỉ bài Qui khứ lại từ 歸去來辭 của Đào Tiềm 陶潛 tự Uyên-minh 淵明) 365 – 427, người đời Đông Tấn, quê ở Sài-tang 柴桑, Tầm-dương 潯陽. Trong bài có câu “ Qui khứ lai hề, điền viên tương vu hồ bất qui? Kí tự dĩ tâm vi hình dịch, hề trù trướng nhi độc bi 歸去來兮, 田園將蕪胡不歸?既自以心為形役, 奚惆悵而獨悲 ( Về đi thôi, sao chẳng về, Ruộng vườn hoang vắng làm lơ sao đành. Hại lòng chính bởi thân mình, Sao còn bứt rứt thêm tình sầu bi ) *], Ruộng đá lều tranh siêu vẹo, rêu xanh nham nhở. Thôi đạo nho có ích gì cho ta đâu, Khổng Khâu [* Khổng Khâu 孔丘 được tôn làm thánh, ông thày muôn đời, mà sau này gọi là Nho học *] hay Đạo Chích [* Đạo Chích 盜跖 , người thời Xuân thu, chuyên nghề trộm cắp, lại là em của Liễu hạ Huệ柳下惠 , một người hiền được Khổng Khâu ca ngợi. *] cũng chết thành tro bụi cả rồi. Đừng nên nói chuyện ấy cho thêm đau lòng, Còn sống còn gặp nhau đây thì cứ say đi !
Dịch vần:
Đài tỉnh vênh vang các vị ngồi,
Thày Quảng-văn kia chức quan ôi.
Người ta ê hề xôi với thịt,
Quảng-văn may ra đủ bữa thôi.
Đạo thày truyền giữ từ Phục Hi,
Khuất, Tống hai người còn thua tài.
Đạo đức thế sao mà lận đận,
Lưu danh thiên cổ để cho ai.
Đỗ-lăng quê kệch đáng cười hơn,
Tóc bạc áo thô ngắn cũn cỡn.
Kho vua cho ngày gạo năm thăng,
Tới nhà Quảng-văn để nói dỡn.
Có tiền là gặp nhau,
Mua rượu chứ còn đâu.
Bọn mình nhậu, tay tổ,
Quên đời xưng mày tao.
Đêm xuân âm thầm chuốc rượu say,
Đèn mờ mưa bụi, cánh hoa bay.
Hãy cứ hát vang cùng ma quỉ,
Chết rấp ngoài đường nào ai hay.
Tài cỡ Tương Như còn rửa chén,
Giỏi sánh Tử Vân, lầu lăn quay.
Thày sớm ngâm bài “ Qui khứ lai”,
Ruộng sỏi nhà tranh rêu bám đầy.
Đạo Nho giúp gì cho ta thay,
Khổng, Chích rồi ra cũng bụi bay.
Chuyện ấy nói chi cho đau đớn,
Còn sống gặp đây hãy cứ say.
II. Và Trà.
茶王
Tẩu bút tạ Mạnh gián-nghị kí tân trà.
卷388_10 《走筆謝孟諫議寄新茶》盧仝
Nhật cao trượng ngũ thụy chính nùng,
日高丈五睡正濃,
Quân tương đả môn kinh Chu công.
軍將打門驚周公。
Khẩu ngôn gián-nghị kí thư tín,
口雲諫議送書信,
Bạch quyến tà phong tao đạo ấn.
白絹斜封三道印。
Khai giam uyển kiến gián-nghị diện,
開緘宛見諫議面,
Thủ duyệt nguyệt đoàn tam bách phiến.
手閱月團三百片。
Văn đạo tân niên nhập sơn lí,
聞道新年入山裏,
Trập trùng kinh đông xuân phong khỉ.
蟄蟲驚動春風起。
Thiên tử tứ thường Dương-tiện trà,
天子須嘗陽羨茶,
Bách thảo bất cảm tiên khai hoa.
百草不敢先開花。
Nhân phong ám kết châu bài lỗi,
仁風暗結珠琲瓃,
Tiên xuân tụ xuất hoàng kim nha.
先春抽出黃金芽。
Trích tiên bồi phương toàn phong lí,
摘鮮焙芳旋封裹,
Chí tinh chí hảo thả bất xa.
至精至好且不奢。
Chí tôn chi dư hợp vương công,
至尊之餘合王公,
Hà sự tiện đáo sơn nhân gia.
何事便到山人家。
Sài môn phản quan vô tục khách,
柴門反關無俗客,
Sa mạo lung đầu tự tiên khiết.
紗帽籠頭自煎吃。
Bích vân dẫn phong xuy bất đoạn,
碧雲引風吹不斷,
Bạch hoa phù quang ngưng uyển diện.
白花浮光凝碗面。
Nhất uyển, hầu vẫn nhuận,
一碗喉吻潤,
Lưỡng uyển phá cô muộn.
兩碗破孤悶。
Tam uyển sưu khô trường,
三碗搜枯腸,
Duy hữu văn tự ngũ thiên quyển.
唯有文字五千卷。
Tứ uyển phát thanh hãn,
四碗發輕汗,
Bình sinh bất bình sự,
平生不平事,
Tận hướng mao khổng tán.
盡向毛孔散。
Ngũ uyển cơ cốt thanh,
五碗肌骨清,
Lục uyển thông tiên linh.
六碗通仙靈。
Thất uyển khiết bất đắc.
七碗吃不得也,
Duy giác lưỡng dịch tập tập thanh phong sinh,
唯覺兩腋習習清風生。
Bồng-lai sơn tại hà xứ?
蓬萊山,在何處。
Ngọc-xuyên tử thừa thử thanh phong dục qui khứ.
玉川子,乘此清風欲歸去。
Sơn thượng quần tiên tư hạ thổ,
山上群仙司下土,
Địa vị thanh tao cách phong vũ.
地位清高隔風雨。
An đắc tri bách vạn ức thương sinh mệnh,
安得知百萬億蒼生命,
Trụy tại điên nhai thụ tân khổ.
墮在巔崖受辛苦。
Tiện vị gián-nghị vấn thương sinh,
便為諫議問蒼生,
Đáo đầu hoàn đắc tô tức phủ?
到頭還得蘇息否。
Giải xuôi: Viết vội để cám ơn quan gián-nghị họ Mạnh đã cho trà mới.
Mặt trời lên cao đến trượng rưỡi rồi mà còn ngủ say, lính đập cửa làm tỉnh mộng [* như Khổng tử đang nằm mộng thấy Chu công *]. Hắn thưa có thơ của quan gián nghị gửi đến, gói bằng lụa trắng có ba dấu niêm khằn. Mở gói ra tưởng như có quan gián-nghị ngay trước mắt, tay nâng niu ba trăm bánh trà tròn như mặt trăng. Nghe nói đầu năm mới vào trong núi, đó là lúc sâu đất ngọ ngoạy, gió xuân nổi lên. Nay vua ban thưởng cho trà Dương-tiện, [* trà này quí *] vì trăm loài cây không dám ra hoa trước nó, gió lành ngầm kết hai trăm hạt ngọc. Trước khi xuân về, mầm nó nẩy tươi như nạm vàng. Hái lúc còn tươi, ướp giữ lấy hương thơm và đem gói kĩ lại. Rất tinh khiết, ngon mà không cầu kì, ơn thừa của nhà vua chỉ dành cho các người trong tôn thất thôi, cớ sao nay nó lại đến nhà người ở xó núi [* là tôi đây *]? Đóng cổng tre lại để không tiếp khách tục, lấy khăn xếp ra đội, tự đun nước để pha trà. [* Trong tách trà *] Như có mây biếc được gió đưa đi không dứt, ánh sáng lung linh, màu hoa trắng tụ lại trên miệng tách. Uống một chén, môi cổ trơn tru, uống hai chén nổi buồn cô đơn tan biến. Uống ba chén trút hết nỗi lòng, chỉ có chữ nghĩa nơi năm ngàn quyển sách. Uống chén thứ tư thì mồ hôi toát ra, nỗi bất bình trong đời theo lỗ chân lông mà tiêu tán. Uống chén thứ năm, da xương trong sạch, tới chén thứ sáu như được lên tiên. Đến chén thứ bảy hết nhắp nổi, chỉ cảm thấy từ hai bên nách luồng gió phần phật toả ra. Núi Bồng-lai ở nơi nào, để Ngọc-xuyên-tử [* hiệu của Nhà Thơ *] cưỡi làn gió mát kia đi tới đó. Các tiên trên núi xa cõi trần ai, địa vị thanh cao, xa vời mưa gió. Làm sao mà biết được số phận cũa trăm ngàn vạn con người, đang rơi xuống vực thẳm với muôn ngàn đau khổ. Xin vì quan gián nghị mà hỏi rằng dân chúng cuối cùng có được sống đầy đủ hay không?
Dịch vần :
Trời lên cao mình vẫn còn ngáy,
Lính tới đập cửa kêu ông dậy.
Thưa : Gián-nghị có gửi một bao,
Ba dấu niêm khằn, lụa trắng phau.
Mở gói, tưởng như người ngay bên,
Tay nâng ba trăm miếng trà tròn.
Nghe nói năm mới vào trong núi,
Côn trùng xao động, gió xuân nổi.
Trà Dương-tiên, nhà vua ban lộc,
Trăm cây chẳng dám ra hoa trước.
Gió lành ngầm kết thành ngọc châu,
Trước xuân, mầm non mới bắt đầu.
Hái về, hương thơm cố ủ kĩ,
Rất nhẹ rất khéo công chẳng nề.
Đồ vua ăn thừa dành quan lớn,
Có đâu lại tới kẻ nhà quê!
Cổng tre đóng lại ngăn khách tục,
Khăn the trùm đầu, tự đun nước.
Mây biếc gió lùa phun không ngừng,
Hoa trắng nổi sáng, miệng chén ngưng.
Một chén : môi họng trơn,
Hai chén : buồn tan cơn.
Ba chén : thông đường ruột,
Chỉ thấy quyển văn đến năm ngàn.
Bốn chén : mồ hôi toát,
Chuyện đời bực tức theo lỗ chân lông mà thoát.
Năm chén : da xương trong,
Sáu chén : thần tiên thông.
Bảy chén nuốt hết xuống,
Chỉ thấy hai nách phần phật nổi cơn giông.
Bồng-lai chốn núi ở đâu,
Để Ngọc-xuyên-tử cưỡi gió đi vào cõi tiên.
Các tiên trên núi hãy xuống đất,
Ở nơi cao gió mưa không hắt.
Làm sao biết được trăm vạn ức con người,
Gục dưới hố sâu, khổ chồng chất.
Nay thay gián-nghị hỏi về dân,
Chừng nào mới no cơm ấm cật?
Nhân ngày xuân, xin chúc thành viên hội Cao Niên: Niên càng Cao.
Phạm Doanh
Cuối Năm Nhớ Quê Xưa
Những vần thơ nhung nhớ quê hương
của một số nhà thơ vùng thủ đô Hoa Thịnh Đốn.
Sống xa quê hương ai cũng có ḷòng tưởng vọng về chốn cũ. Riêng đối với các nhà thơ, nỗi lòng nhung nhớ đó được giàn trải thành những vần thơ dâng đầy sầu cảm:
“Xót xa thân phận ly hương
Tạm dung đất khách chán chường người ơi!
Sầu nghiêng cuối nét lệ rơi
Năm châu lê bước! Chơi vơi nỗi buồn”
(Vũ Hối)
“Ta từ lưu lạc quê người
Thân nương đất khách gượng cười tháng năm
Quê ta muôn dậm xa xăm…”
(Quỳnh Anh)
Quê nhà cách xa cách mịt mù, sóng trùng dương mãi vỗ điệu thảm sầu như gợi thêm lòng nhung nhớ cho thân phận kẻ lạc lõng nơi quê người:
“Như loài cá mỗi năm về cội cũ
Ta cũng mỗi năm quê cũ kêu thầm
Sóng vẫn vỗ theo nhịp hồn ủ rũ
Đời vẫn mơ sao trời chẳng hồi âm”
(Nguyễn Thị Thanh Bình)
“Nơi đây đất nước quê người,
Xót thân lạc lõng, ngậm ngùi quạnh hiu”
(Anh Độ)
“Nhớ thương biết gửi về đâu
Hoàng hôn ngả bóng một màu hoang vu
Quê ta xa cách mịt mù
Trùng dương sóng vỗ phù du bập bềnh”
(Quỳnh Anh)
Hình bóng quê hương ám ảnh trong tâm tư đến nỗi nhà thơ đặt chân tới đâu cũng phảng phất thấy phong cảnh quê người giống quê mình:
“Cảnh đâu lại giống quê mình nhỉ?
Dễ gợi buồn thương với ước mong”
(Hà Bỉnh Trung)
Những con sông quanh co uốn khúc của miền Nam nước Việt cuồn cuộn dâng trào kỷ niệm thơ ấu vẫn còn in đậm dấu ấn trong tâm tư:
“Những nhánh sông tôi nhớ
Đày ắp màu tuổi thơ
Theo tôi vòng thế giới
Nuôi lớn hồn nước non.”
(Nghiêu Minh)
Những cây trái vườn xưa quá thân thương in đậm hình ảnh trong tâm hồn kẻ ly hương, vào sâu trong tiềm thức:
“Mẹ ơi! mấy mùa bông bí nở,
Là đã mấy mùa con tái tê!
Chẳng tròn giấc ngủ, nghìn đêm nhớ
Tình con thắm thiết mãi hương quê!”
(Vũ Hối)
“Ở phương xa nhớ về vườn mía
Lóng mía mật vàng ngọt sắt son
Ôi nhớ quá hương trời cố xứ
Mía vườn nuôi ngọt cả hồn con!”
(Giang Hữu Tuyên)
Hương thơm ngào ngạt tỏa khắp nơi và ướp mãi trong trái tim người xa xứ:
“Lưu lạc bao năm đất nước người
Hướng về quê mẹ vạn trùng khơi
Nhớ sao những buổi chiều êm vắng
Ngào ngạt hương ngâu tỏa khắp trời”
(Trương Anh Thụy)
Trong xã hội đầy tiện nghi vật chất của nền văn minh tân tiến nước người nhà thơ vẫn khó quên được những âm thanh quê nghèo cũ:
“Tiếng thầm
có phải mưa không?
nửa đêm
thèm bếp lửa hồng quê hương!
để nghe tiếng củi
reo giòn
để nghe mưa giọt giọt buồn hiên tranh”
(Vi Khuê)
Tuy đã biết “gió mưa là bệnh của trời” nhưng sao tiếng mưa gió tại quê người vẫn có vẻ buồn hơn thế nhỉ?:
“Tí tách… trạnh lòng người viễn xứ
Rì rào… thêm gợi mối tình quê
Lao xao gió, lá, mưa hòa điệu
Nhạc khúc ly hương dạo não nề”
(Trương Anh Thụy)
“Nơi đây mưa nắng thất thường
Cúi đầu mơ bóng cố hương ngút ngàn”
(Anh Độ)
Đại dương mênh mông chia cách đất khách với quê xưa, vẳng trong tiếng sóng biển dào dạt bản tình ca bất tận giữa đất trời nhà thơ tưởng như biển cũng có thể chuyên chở được chút hơi hướng về quê mẹ:
“Mỗi khi nhớ đến quê hương cũ
Xuống biển tìm hơi hướng đất xưa
Sông núi hỡi ơi! Tình ấp ủ
Còn dâng con sóng đến bao giờ?”
(Hà Bỉnh Trung)
Nhà thơ đôi khi thoáng chút e ngại. Sợ rằng khi có dịp trở về thăm nơi cũ thời chắc mái tóc đã bị nhuộm trắng vì thời gian, vì suy tư và mình bị ngỡ ngàng trước cảnh xưa:
“Mai về tóc bạc đìu hiu
lạ quê lạ cảnh nắng chiều cũng quên
hồn ta phong rủ miếu đền
Vườn hoang trái dại lộn tên đổi hình”
(Nghiêu Minh)
Trong tình hoài hương không phải chỉ nhớ “cảnh” mà còn cả nỗi nhớ “người” nữa, nhất là nhớ những người còn ở lại, những bà con thân nhân ruột thịt:
“Thâm tình cốt nhục chia đôi ngả
Tin nhạn luôn luôn mỏi mắt chờ”
(Kim Y)
“Tôi nhớ quê, và tôi nhớ người
Mênh mang trời biển cách xa xôi
Đâu đây còn chút hơi trong sóng
Hơi của non sông, của giống nòi”
(Hà Bỉnh Trung)
Người đây có thể chỉ là những bạn cũ, những kẻ tri âm đồng điệu:
“Bạn bè phía bển đông vui nhỉ
Miệt này chóc ngóc một mình tôi”
(Trần Quốc Bảo)
“Tôi vẫn biết quê nhà còn bạn cũ
Tình cố nhân ngùn ngụt ấm tâm can”
(Hà Bỉnh Trung)
Trong cái ồn ào náo nhiệt của đời sống đô hội xô bồ tại nước ngoài lòng nhà thơ có lúc trùng xuống, nhớ lại những buổi trưa hè êm ả tại quê xưa nơi vẳng lên âm thanh tha thiết thân thương và bình dị, tiếng Bà ru cháu:
“Trên cánh thời gian chợt trở về
Tiếng bà ru cháu… tưởng vừa nghe
Tình quê thành đỉnh trầm thao thức
Luôn ngát dù hương gió cuốn đi”
(Nguyễn Đức Vinh)
Đôi khi tri kỷ hầu vắng bóng, nhà thơ đành kết bạn với vầng trăng viễn xứ:
“Vời tổ quốc, ngẩng đầu vướng núi,
Mở mắt rồi lại cúi nhìn sông
Trăng cao bóng nước mây lồng,
Mang sầu vong quốc thả dòng nước trôi”
(Anh Độ)
Nhà thơ như muốn nhờ mặt trăng trên cao làm trạm chuyển tiếp đưa lòng nhung nhớ về chốn cũ:
“Sông dài, trời rộng, núi cao
Trăng khuya vời vợi dạt dào tình quê”
(Vũ Hối)
“Lặng nhìn trăng biển về Tây,
Nhớ quê cách nửa vòng quay địa cầu”
(Hà Bỉnh Trung)
Lòng hoang vắng, kẻ ly hương thấy trăng cũng có vẻ đồng điệu, đôi lúc cũng đi hoang như người:
“Hồn ta lạc lõng nơi đây
Nhìn trăng trăng cũng đếm ngày đi hoang”
(Nghiêu Minh)
Cuộc sống xa xứ cũng đã đủ khiến lòng người lạnh lẽo, nhà thơ lại thấm lạnh thêm vì ngoại cảnh. Tuy thế tuyết lạnh bên ngoài có lẽ cũng không so sánh được với cái buốt giá trong tâm hồn con người:
“Bao la đất khách một trời sương
Tuyết trắng phau phau lạnh nẻo đường”
(Anh Độ)
“Tuyết trắng ngoài kia, trời đất não nùng,
Và băng giá trong lòng người xa xứ”
(Lê Thị Ý)
Đôi khi bão tuyết mịt mùng, chôn lấp cảnh vật, chôn sâu thêm nỗi niềm nhung nhớ. Trong cái màn sương tuyết phủ trắng đất trời đó bóng người chập chờn mờ mờ, ảo ảo, như thực, như hư:
“Ngoài kia tuyết trắng ngập đầy
Vùi sâu nỗi nhớ những ngày ly hương”
(Hà Bỉnh Trung)
“Tuyết rơi phủ trắng nẻo đường,
Bóng người như thể chập chờn bóng mây”
(Anh Độ)
Khi cả một bàu trời tuyết bay trắng xóa lòng người cũng lạnh trắng vì kỷ niệm xưa. Trong nhung nhớ nhà lại mượn ruợu giải sầu:
“Uống đi rượu đã rót rồi
Cạn ly để nhớ một thời ly hương”
(Lê thị Ý)
“Những khi tuyết rụng tơi bời
Rượu năm bảy chén chưa nguôi dạ sầu”
(Anh Độ)
Sầu vì nhớ quê, sầu vì nhớ bạn. Vắng bóng kẻ tâm đầu, ý hợp nhà thơ đành uống rượu một mình. Hình bóng tri kỷ hầu như thấp thoáng ẩn hiện dưới đáy ly:
“Mơ nhìn tri kỷ trong ly rượu
Lúc này: mưa tuyết: một mình ta”
(Anh Độ)
Dưới đáy ly đọng muôn vàn nỗi nhớ! Hãy cạn ly để vơi đi nỗi sầu:
“Quê hương bỏ lại từ lâu
Người ơi xin cạn chén sầu cùng ta
Chiều nay chợt thấy nhớ nhà
Vườn sau cỏ cháy, lệ sa giọt dài”
(Lê Thị Ý)
Hãy cạn ly! Hãy say đi để khỏi suy tư thêm nữa:
“Thà say ngủ tít quên đời
Còn hơn khi tỉnh nhớ người quê xa”
(Hà Bỉnh Trung)
Được lòng hoài hương gợi hứng nhà thơ đem cả tâm tình gửi vào những vần điệu. Những vần thơ đầy cảm xúc, đầy nhạc tính, nghe thân thương âm hưởng ca dao đất Mẹ:
“Cố hương xa mấy trường đình
Xin đem gởi trọn tâm tình vào thơ”…
“Thơ vần lục bát đôi câu
Cùng ngâm cho nhẹ nỗi sầu ly hương”…
(Anh Độ)
Dù nơi đất khách phong cảnh có đẹp đến thế nào chăng nữa cũng không làm nguôi ngoai được nỗi nhớ nhà:
“Trời Hoa Thịnh Đốn giăng hoa
Lòng người tỵ nạn vẫn da diết sầu”
(Lê Thị Ý)
“Này quê hương mới, quê hương tạm
Ta chỉ dừng chân quên nỗi đau
Em kiêu sa quá làm ta nhớ
Vườn cũ quê nhà ngát hương cau”
(Quỳnh Anh)
“Mỗi buổi sáng
Thức dậy ngỡ ngàng với sự hiện diện của mình
ở miền đất tạm dung
Thủ đô xứ người, kiến trúc đồ sộ, ánh sáng chói chang,
âm thanh xa lạ
Tất cả không quen thuộc, không luyến thương
Chỉ thấy thờ ơ lạnh nhạt”
(Trần Quốc Bảo)
Saigon, thủ đô miền Nam cũ, nơi biểu tượng của đất nước, nơi ghi dấu biết bao kỷ niệm vui buồn. Thành phố nay tuy mang tên lạ nhưng vẫn gây nỗi nhớ chập chờn trong lòng người:
“Anh ôm hôn cả Saigon
Nghiêng vai nghe thoáng chiều thơm Thị Nghè
Hôn ngàn khơi cánh chim xa
Cho nguôi phút nhớ quê nhà Á Châu”
(Nguyễn Đức Vinh)
“Saigon ta đã mất người
Saigon nay đã đổi đời thay da
Ngẩn ngơ giữa xứ cờ hoa
Xé tờ lịch biết đã qua một tuần”
(Lê Thị Ý)
Nhớ thương chồng chất, tuy “xa mặt nhưng chẳng cách lòng”, ngàn đời những nơi cũ, những địa danh một thời biểu tượng cho quê hương đất nước vẫn tồn tại trong tâm hồn ly khách:
“Ngàn năm Gia Định vẫn còn
Ngàn năm không mất Saigon người ơi
Tánh danh là tánh danh rồi
Ai thay đặng tánh, ai dời đặng danh”
(Nguyễn Đức Liêm)
Đồng đất nước người với tình trạng kinh tế khắp nơi nói chung tạm coi là khá giả sung túc, nhà thơ chạnh lòng nghĩ đến bao nỗi khốn khó tại quê nhà:
“Mỗi lần nhớ đến quê nghèo khó
Là mỗi lần nghe tiếng thở dài”
(Hà Bỉnh Trung)
“Thương về quê mẹ dạ nao nao
Tuởng tượng tình dân khổ biết bao”
(Kim Y)
Mường tượng ra cuộc sống người dân Việt trên quê hương phải đổ mồ hôi pha lẫn nước mắt nhiều khi loang thắm thêm cả máu hồng:
“Kìa Anh! Sao chửa hết mơ màng?
Nhìn sắc thu hồng ngờ máu loang
Của cả toàn dân trên đất Việt
Đang dần nhuộm thắm khắp giang san”
(Trương Anh Thụy)
Tuy phải bỏ xứ ra đi nhà thơ vẫn luôn luôn coi mình là dân Việt. Thân xác này và cả tâm hồn này vẫn có nguồn gốc Việt, gió bụi cuộc đời khó vùi dập:
“Tôi đi như thể tôi còn sống
Về đến nơi nào hỏi nắng mưa
Rằng xác thân tôi thì đã Việt
Hồn tôi mấy gió bụi cho vừa”
(Nguyễn Đức Liêm)
Dù phải hội nhập với xã hội mới nhà thơ vẫn hoài niệm đến những gì thuộc về quá khứ, nặng dân tộc tính:
“Tôi từ thay vạt áo dài
Tôi là tôi rất quái thai khó nhìn”…
“Một sớm nào đây thành công dân Mỹ
Vẫn da vàng, rau muống mẹ Việt Nam”…
(Lê Thị Ý)
Nhà thơ khuyên các thế hệ con cháu đừng quên đi nguồn gốc của mình và vững tin ở một tương lai rực ánh vừng dương:
“Đừng cúi mặt tủi phận màu da
Một mai chim rồi quen tiếng hót
Ở nơi nào cũng đánh thức bình minh
Hót đi con giọng điệu thanh bình”
(Nguyễn Thị Thanh Bình)
Kẻ ly hương tự cảm như bèo trôi bồng bềnh trên sóng nước và mong có dịp được trở về bến cũ, hay như cánh chim lạc đàn mong có ngày về tổ ấm nơi quê mẹ:
“Bèo trôi trôi mãi có ai ngờ
Chớp mắt qua rồi mấy chục thu!
Nước có bao giờ xoay ngược hướng
Đưa bèo trở lại bến đò xưa?”
(Kim Y)
“Bao giờ chim lạc bay về tổ
Dưới mái tranh xưa ngẫm chuyện đời”
(Trương Anh Thụy)
“Xa tít nơi kia cõi khác đời
Tận chân trời mộng vắng mây tôi
Bao giờ mọc cánh bay về được
Cho hết bây giờ tê-tái-tôi”
(Nguyễn Đức Liêm)
Tình hoài hương ấp ủ trong tim, vương vấn trong lòng người và càng mãnh liệt hơn với tuổi tác thêm cao, với tháng ngày chồng chất:
“Tuổi hạc hằng mong được trở về
Bên bờ Tô Lịch viếng thăm quê
Từ đường chùa miếu, lăng tiên tổ
Ngắm lại đồng xanh, ngắm lũy tre”
(Tô Giang Tử)
Mai đây con người phải trở về với cát bụi mất rồi, sợ thời gian chẳng dừng cánh đợi chờ, ly khách đành gửi cả tâm sự mình vào trong sách với niềm hy vọng bừng lên rực rỡ tin vào sự đổi thay khắp nơi:
“Quê hương ừ đã rất xa
Một mai tro bụi trải ra xứ người”…
Một buổi nào đây thế giới chuyển mình
Về quê cũ vòng tay đầy hạnh phúc”…
(Lê Thị Ý)
“Gởi hồn theo sách về thăm nước
Cát bụi thân mình lại xót xa
Giá có hồn thiêng sông núi thực
Ngày nào ta trở lại quê nhà”
(Vi Khuê)
Nhà thơ mường tượng ra ngày về, cảnh ngoài rực rỡ, tình trong đậm đà, lòng người thêm phấn khởi:
“Saigon, tôi thú thương đau
Saigon tôi thích cái màu tươi xưa
Tôi về lặng lẽ hơn mơ
Tôi về vang dội trên bờ Đồng Nai
Tôi đem giấy ngắn, tình dài
Tôi đem bĩ cực, thái lai Saigon”
(Nguyễn Đức Liêm)
Chỉ cần tưởng tượng ra cái cảnh hồi hương cũng đã đủ làm nhà thơ dâng hoài cảm, xúc động:
“Bỗng liên tưởng đứng kề bến cũ
Bắc, Trung, Nam nhớ đủ biển, khơi.
Hồn thiêng sông núi vẫy mời,
Đàn con di tản khắp nơi sớm về”
(Tô Giang Tử)
Trong khi chờ đợi một ngày về nguồn đầy vinh quang sáng lạn, nhà thơ nhắc nhở đồng bào:
“Đừng quên nguồn gốc Việt nam
Giữ thơm nòi giống, bảo toàn quê hương
Mai này lịch sử sang trương
Chen vai sát cánh Nam phương tiến về”
(Trương Anh Thụy)
Tâm Minh Ngô Tằng Giao
Virginia, USA, tháng 12 năm 2015