Tưởng Niệm Văn Thi Sĩ Hà Bỉnh Trung

Nhân Ngày Giỗ Thứ Năm  (24/4/2012 - 24/4/2017)

 

TIỂU SỬ TÓM LƯỢC VỀ NHÀ THƠ, NHÀ VĂN HÀ BỈNH TRUNG

                             
                                                      
1/ Họ và tên: Hà Bỉnh Trung 
    Ngày tháng năm sinh: 15 tháng 9 năm 1922
    Các bút hiệu: Hà Bỉnh Trung, Hoa Nguyên, Hồng Bảo.

2/ Học vấn, nghề nghiệp và hội đoàn:

Dạy học: Anh văn và Pháp văn

Quân đội: Sĩ Quan trừ bị, Nha Báo Chí Phủ Quốc Trưởng và Phủ Tổng Thống VNCH.

Văn học: Viết văn, làm thơ, viết kịch thơ, làm việc tại vài tòa soạn nhật báo, tạp chí.
- Hội Nhà Văn Việt Nam (Société des Hommes de Lettres, Saigon 1963)
- Hội viên Văn Bút Việt Nam: P.E.N.Vietnam (Saigon, 1964)
- Chủ Tịch Trung Tâm Văn Bút Miền Đông Hoa Kỳ (2 nhiệm kỳ 1997-99 và 2001-2003)
- Chủ Tịch Câu Lạc Bộ Văn Học Nghệ Thuật Vùng Thủ Đô Hoa Thịnh Đốn (2001-2007)

- Hội trưởng Hội Người Việt Cao Niên Vùng Hoa Thịnh Đốn (2 nhiệm kỳ 2003-2005 và 2005-2007)
- Cố Vấn Sáng Lập Nguyệt San Kỷ Nguyên Mới

3/ Các tác phẩm đã xuất bản:

a- Truyện dài:  
- Răng Đen Ai Nhuộm Cho Mình (1952, Hà Nội)
- Những Ngả Đường (1972, Saigon)
- Chỉ Hồng (1998, Hoa Kỳ)
- Dốc Nửa Chừng (1998, Hoa Kỳ)
- Thuở Trời Đất Nổi Cơn Gió Bụi (Truyện Dài, 2004, Hoa Kỳ)

b- Truyện Ngắn:
- Theo Nhịp Dòng Đời (1993, Hoa Kỳ)
- Rừng Thiêng (1994, Hoa Kỳ)
- Hồn Thu Thảo (Dã Sử, 1998, Hoa Kỳ)
- Hoa Đào Năm Ngoái (2000, Hoa Kỳ)
- Hình Ảnh Cũ (2004, Hoa Kỳ)

c- Thơ:
- Khói Lửa (1987, Hoa Kỳ)
- Yêu Mãi Ngàn Năm (1991, Hoa Kỳ) 
- Dấu Chân Viễn Khách (1995, Hoa Kỳ)
- Cánh Thời Gian (1997, Hoa Kỳ)
- Ngàn Dặm Thương Yêu (1999, Hoa Kỳ)
- Vẫn Mãi Yêu Em (2000, Hoa Kỳ)
- Thuyền Trăng (2001, Hoa Kỳ)
- Một Ánh Sao Băng (2004, Hoa Kỳ)
- Thuở Ấy Yêu Nhau (2007, Hoa Kỳ)
- Tâm Sự (2007, Hoa Kỳ).

d- Kịch Thơ: - Kịch Thơ (1994, Hoa Kỳ)

e- Thơ Dịch:  
- Hoa Thơm (Pháp Việt đối chiếu, 1952, Hà Nội)
- Anh Hoa (Anh Việt đối chiếu, 1967, Saigon; tái bản 2005, VA, Hoa Kỳ)
- Thơ Lý Bạch (Thơ dịch Hán Việt đối chiếu, 2005, Hoa Kỳ)

f- Thơ Anh Ngữ: - Mars & Venus (2001, Hoa Kỳ).

4/ Các tác phẩm sau này:
- Fleurs d’Automne (Thơ Pháp Ngữ, 2008, Hoa Kỳ)
- In Harmony (Thơ Anh Ngữ, 2008, Hoa Kỳ)
- Nhạc Thơ Giao Cảm (2008, Hoa Kỳ).
- Tập Thơ phổ Nhạc (2008, Hoa Kỳ)
- Chuyến Bay Đêm (Truyện Ngắn)
- Những Nàng Thơ (Thơ, Tập 11)
- Tình Yêu Cuối Đời (Thơ, Tập 12)
- Văn Học Bốn Phương (Tạp Văn)
- Hồi Ký Văn Nghệ.
- Ngôn Ngữ VN. Từ Điển và Mẹo phân biệt dấu Hỏi Ngã.

5/ Các thành tích văn học hay các giải thưởng:
Tác Phẩm Anh Hoa (Thơ dịch Anh Việt đối chiếu) đoạt Giải Thưởng Văn Học, Bộ Môn Dịch Thuật, năm 1965 của Phủ Quốc Vụ Khanh Văn Hóa tại Saigon.

6/ Đã cộng tác với các báo:
Tại Hà Nội: Ngày Mai, Chính Đạo, Thời Luận, Quê Hương.
Tại Đà Lạt: Đà Lạt Tiến.
Tại Sài Gòn: Ánh Sáng, Chỉ Đạo, Thời Luận, Tự Do, Thi Văn Tao Đàn, Phụng Sự (QĐ), Tiền Tuyến (QĐ).
Tại Hoa Kỳ: Diễn Đàn Tự Do (VA), Hoa Thịnh Đốn (VA), Đời Nay (VA), Văn Nghệ (VA), Tiểu Thuyết Nguyệt San (VA), Tam Cá Nguyệt San Cỏ Thơm (VA), Nguyệt San Văn Phong (VA), Nguyệt San Kỷ Nguyên Mới (VA)

(Nhà Văn Phạm Văn Tuấn biên soạn)

 

TƯỞNG NIỆM VĂN THI SĨ HÀ BỈNH TRUNG

Kính thưa toàn thể quý vị,

Để tưởng niệm đến văn thi sĩ HÀ BỈNH TRUNG tất nhiên là chúng ta phải đề cập tới những tác phẩm của Cụ. Đây là một kho tàng rất đồ sộ. Tất cả gồm 5 tập Truyện dài, 6 tập Truyện ngắn. 12 tập Thơ sáng tác. 3 tập Thơ dịch từ tiếng Anh, Pháp, Hoa sang tiếng Việt và 2 tập thơ sáng tác bằng Anh ngữ.

Truyện dài và truyện ngắn nói chung đều mang một triết lý nhân sinh. Truyện khi thì ghi lại các biến động về chiến tranh, khi thì mô tả tình yêu đôi lứa, gia đình, lúc thì nói về quân đội, quê hương v.v… Truyện cũng bàn về luân lý và các truyền thống văn hóa cao đẹp của thời xưa cũ, đôi khi so sánh với cuộc sống tha hương hiện tại. Vì thời gian có hạn nên chúng tôi không thể trình bày chi tiết hơn cho nên chỉ xin nói về thơ.

Thơ của thi sĩ Hà Bỉnh Trung gồm hầu như đủ mọi “thể loại thơ”. Tổng cộng có lẽ cả hơn ngàn bài. Không kể những bài đăng rải rác trên các báo chí và các bài chưa được xuất bản. Người ta thường xưng tụng thi sĩ là “Nhà thơ của tình yêu.” Cũng như buổi tưởng niệm hôm nay được đặt tên là “Yêu mãi ngàn năm”. Có lẽ cũng không sai. Thi sĩ từng viết:

“Yêu đến bao giờ mới hết yêu?
Ngàn năm? nào đã được bao nhiêu?
Ngàn năm chưa đủ cho dòng máu
Chảy khắp con tim suốt mọi chiều!"…

Nổi bật là Tình yêu nam nữ:

Tình Yêu khởi đầu từ tuổi học trò.
“Hai mươi, rạo rực khi đi học,
Thấy áo em bay phía cuối đường,
Nán bước chờ em, lòng hớn hở
Để cùng trao ánh mắt yêu đương”

Với tâm hồn lãng mạn tình yêu kéo dài tới hồi trai trẻ:

"Người nằm xa lạ trong mơ
Tỏa thơm mùi tóc vàng tơ gối đầu.
Môi nào tìm lại môi nhau,
Sáng ra tỉnh giấc còn đâu dáng hồng"…

Tất nhiên sẽ có men rượu, có khói thuốc, có cả lời ca, tiếng nhạc…:

“Em mời ta chén rượu cay
Để thương nhớ mãi đêm này gặp nhau.
Môi mềm nhắp chén tê đau
Mắt đen trĩu nặng ý sầu từ ly.”…   

Có chia ly nơi bến thuyền, ga vắng, phi trường:

“Tàu đi, ga vắng một người,
Mây trôi lãng đãng chân trời nhớ nhung”…                

Có hôn nhân đôi lứa kết thúc cuộc tình đẹp:

“Ngày mai, anh đón em, em nhé!
Lộng lẫy xe hoa kết pháo hồng”…

Tình yêu kéo dài cho đến tuổi già:

“Khi yêu, yêu đến bạc đầu,
Thời gian không hẹn phai màu tóc xanh”…

Thật ra Thơ của thi sĩ Hà Bỉnh Trung không chỉ giới hạn trong vòng lãng mạng nam nữ thường tình mà còn trải rộng ra nhiều lãnh vực cao cả hơn.

Chúng ta được đọc những lời thơ nói lên Tình yêu trong gia đình:

Thi sĩ từng bày tỏ lòng kính yêu với Song Thân mình:

“Thương cha mẹ đã qua đời
Lại thương ngàn dặm xa vời nước non”…

Lòng yêu thương Con Cháu:

“Con mở mắt chào đời. Thương biết mấy!
Ngọc lưu ly màu tinh khiết trắng ngần.
Trán con sáng như khoảng trời nắng dậy
Một màu xanh không gợn chút phù vân”…

Lòng thương tưởng người Vợ hiền đã xa lìa cõi tục 8 năm trước đó:

“Tôi, một bóng sống cô đơn
Sáng, chờ đợi ánh bình minh tha thiết
Trưa, chán ngán nắng vàng tăng lửa nhiệt
Chiều lặng buồn, ra tiễn bóng hoàng hôn”…

Thi sĩ còn bộc lộ  Tình yêu đối với đồng bào:

Thương sót đồng bào ruột thịt trong Nạn đói năm 1945 thi sĩ viết:

“Suối mồ hôi tràn mặt
Mắt sâu trũng niềm đau
Thân khô như bó củi
Nâng đỡ bộ xương đầu”…

Sót thương nạn nhân Chiến tranh thi sĩ viết:

 “Vợ gánh đôi con dại,
Chồng quẩy gạo, nồi niêu,
Bỏ ruộng không, nhà trống,
Như một vùng hoang liêu”…

Và lời thơ thương cảm đời Nông dân cực khổ:

“Thương thay số phận dân lành,
Rẻ hơn cỏ rác, ai đành làm ngơ?”…

Đã từng khoác chiến y, thi sĩ bộc lộ Tình yêu đồng đội khi viết những lời thơ ai điếu:

“…Thu qua, lá đổ vàng rơi
Anh đi một giấc ngủ vùi ngàn thu!”…
…Có hai người bạn ngồi canh xác
Đêm lạnh gai người lúc nửa khuya!"”…

Tất nhiên trong thơ còn có Tình yêu quý tự do. Khi viếng tượng Nữ Thần Tự Do thi sĩ viết:

“Quê ta ngập lửa chiến tranh
Nông thôn nghèo khó, thị thành tham ô.
Xin em một chút tự do,
Gửi thương gửi nhớ về cho quê nhà.”…

Có ước vọng Yêu thương hòa bình:

“Bao giờ đất nước thanh bình lại,
Chim hót, hoa ngàn nở thắm tươi?
Bao giờ cây lại thu thành trái,
Làng mạc vang vang rộn tiếng cười?”…                                                                                     

Tràn trể tình Yêu đất nước, quê hương:

“…Hôm nay trông cảnh xứ người,
Lòng dưng dưng thấy ngậm ngùi nhớ quê,”…                                            

“…Quê hương xa cách nghìn trùng
Càng xa càng thấy vô cùng nhớ thương”…

Để rồi ước mơ quê hương tươi sáng, khắp nơi phô sắc ngọn cờ vàng:

“Nhớ thuở đầu xanh vượt núi rừng
Lòng trai mơ một giấc mơ chung
Gươm mài bóng nguyệt, nghe hồn nước
Vàng ánh cờ bay đẹp núi sông.”…

Và cũng như các thi sĩ khác ai nấy đều Yêu thiên nhiên với phong cảnh hữu tình gợi ý thơ:

“Sương thu ướt lạnh trăng thanh
Chiến y nặng trĩu màu xanh lá rừng.
Người đi, chân bước ngập ngừng
Núi cao chất ngất lưng chừng sương sa”…

Nói tóm lại, Thơ của thi sĩ Hà Bỉnh Trung đã không chỉ đề cập tới Tình Yêu nam nữ đơn thuần mà còn phô ra những tình cảm da diết chân thành đối với Gia đình, Đồng bào, Đồng đội, đề cao Tự do, ước vọng Hòa bình và lòng yêu Quê hương, Tổ quốc. Lời thơ chau chuốt, điêu luyện. Ý thơ trong sáng. Cụ Hà Bỉnh Trung suốt cả một cuộc đời cầm bút, miệt mài, chân thành, chúng tôi không dám nói Vườn Văn Thơ của Cụ Hà là một cõi Thiên Thai. Nhưng có một điều chắc chắn đó là một nơi đầy kỳ hoa dị thảo và sẽ được đón nhận nồng nhiệt vì đáp ứng đúng nhịp đập con tim của người đọc. Chẳng thế mà thơ của Cụ đã được 16 nhạc sĩ tâm đắc phổ nhạc. Chúng tôi thiết nghĩ nhà văn, nhà thơ Hà Bỉnh Trung phải được dành một chỗ xứng đáng trong Văn Học Sử của nước Việt ta.

Kính thưa toàn thể quý vị,
Thật là thiếu sót nếu chúng ta không nhắc nhở tới những giòng thơ đầy ắp Đạo Vị của thi sĩ Hà Bỉnh Trung. Thi sĩ đã cảm nhận đươc rằng sự vật trong vũ trụ đều do nhân duyên tác hợp, không có gì là có tự thể, thường hằng nên cuộc sống con người chỉ là tạm bợ. Thi sĩ viết:

“Dù bạo chúa một ngày nào cũng chết
Ai trường sinh? Ai bất tử bao giờ?”…                                          

Trong ánh Đạo vàng rực rỡ giải thoát, thi sĩ chiêm nghiệm ra cái "sắc sắc, không không" của nhà Phật:

“…Con người là của sắc không
Đảo điên giữa chốn bụi hồng chơi vơi”…                                                          …“Đế-cung, vương điện tan tành,
Sắc không còn lại bức thành nằm trơ!”…

Trong bài “Kinh Nguyện Cầu” tưởng niệm hiền thê đã khuất núi 8 năm trước đó, thi sĩ viết:

 “Kinh cầu nguyện vang vang từ bốn cõi
Tiễn người đi về đất Phật Đại Từ
Tôi lặng lẽ cúi đầu nghe tiếng nói
Những điều hay, lẽ phải của Thiền Sư”…

Cụ Hà Bỉnh Trung đã quy y Tam Bảo với Pháp Danh “Nguyên Chí”. Vì lẽ đó để chấm dứt bài tưởng niệm này tôi xin dâng lời Cầu Nguyện cho Phật Tử NGUYÊN CHÍ HÀ BỈNH TRUNG, sau khi đã nhẹ nhàng thanh thản lìa bỏ xác tục trong có một hai ngày, Người lại sẽ thong dong tự tại ra đi vào cõi tịnh, sẽ vãng sinh Tây Phương Cực Lạc Quốc.

Nam Mô Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật

NGÔ TẰNG GIAO

(Bài đọc ở Lễ Tưởng Niệm văn thi sĩ Hà Bỉnh Trung,
April 29. 2012, Virginia, USA)

 

VĂN THI HỮU VIẾT VỀ HÀ BỈNH TRUNG

     Nhận định về các hoạt động văn học và các tác phẩm Văn cũng như Thơ của cố văn thi sĩ Hà Bỉnh Trung nhiều cây viết thân hữu của ông đã lên tiếng trong thời gian qua và được lần lượt ghi lại trong cuốn HÀ BỈNH TRUNG TUYỂN TẬP do Câu Lạc Bộ Văn Học Nghệ Thuật Vùng Hoa Thịnh Đốn xuất bản vào năm 2013 được trích dẫn như sau đây.

     Mở đầu tuyển tập luật sư NGÔ TẰNG GIAO cho rằng: “Thi sĩ Hà Bỉnh Trung thường được giới văn thơ mệnh danh là thi sĩ của tình yêu. Quả thật đúng vậy vì tình yêu trong thơ ông lúc nào cũng ‘chất ngất lên ngôi’ và trải rộng bao la trong nhiều lãnh vực. Thơ diễn tả đủ mọi trạng thái, mọi khía cạnh đời sống, cũng như mọi ý nghĩ, rung cảm sát với tình người.”… “Với một số lượng tác phẩm đồ sộ gồm cả Văn lẫn Thơ hoàn tất trong suốt cả một đời cầm bút miệt mài và chân thành chúng tôi thiết nghĩ cây bút Hà Bỉnh Trung phải được dành một chỗ xứng đáng trong Văn Học Sử của nước Việt ta.”

     Tiếp theo là biên khảo gia giáo sư PHẠM VĂN TUẤN phát biểu: “Tác giả Hà Bỉnh Trung là một nhà văn đã may mắn sống và làm nhân chứng trước các biến đổi thời cuộc trong hai thế kỷ, từ thời cực hữu phong kiến và quân chủ, qua thời cực tả cộng sản, và cũng là người được đào tạo theo căn bản quốc học cổ điển với nền triết lý đông phương, trải qua con đường đạo đức của một gia đình lớn, nho học và khoa bảng, hấp thụ nền tân học tây phương với nhiều năm sinh sống tại thủ đô Paris của nước Pháp. Cho nên những gì nhà văn Hà Bỉnh Trung viết ra, thường là những diễn tả các cảnh vật cũ, phong tục xưa mà tác giả cho là đẹp, là mang dấu ấn thời gian, mang màu sắc Phật Lão, Khổng Mạnh, lại lồng vào bên trong vài ý nghĩ phóng khoáng của phương tây.”… “Không kể tài năng về văn chương, bác Hà Bỉnh Trung còn là một văn nhân rất trầm tính, ôn hòa với mọi người, chỉ nói tốt cho người khác, đã giúp đỡ nhiều người mà không hề kể công, vì vậy tôi đã gọi Bác Hà Bỉnh Trung là ‘Người Quân Tử Cuối Cùng’, bởi vì vào thời gian này, rất khó mà kiếm ra được một ‘nhân vật’ tiếp theo.”

     Nhà văn nhà báo UYÊN THAO kế tiếp đó nói: “Thế giới văn chương Hà Bỉnh Trung là những cảnh đời của mọi thời đại, của con người dưới tác động thời gian và các biến cố lúc nào cũng có thể xảy ra, trong khi các nhân vật không dừng lại ở cảnh đời đang gặp mà tiếp tục sống với nỗ lực vươn tới”… “Hà Bỉnh Trung dấn bước vào những cảnh đời khó khăn để nhận diện nhiều trạng thái tâm tư, đồng thời để tìm câu trả lời chuẩn xác cho nỗi mong mỏi xây dựng một tương lai không còn sóng gió. Câu trả lời mà Hà Bỉnh Trung muốn đưa lại đã tạo nên màu sắc đặc thù cho nhân vật văn chương của ông…”

     Nhà thơ NHẤT TUẤN nhận định riêng về tập thơ “Khói Lửa”: “…điều đặc biệt mà tôi tìm thấy ở Hà Bỉnh Trung là thơ ông tràn đầy Tình Nhân Loại với tất cả sự rung động xót xa tột cùng của một trái tim thi sĩ mỗi khi ông đề cập đến đời sống hiền hòa của người vô tội, và Tình Yêu Của Tuổi Trẻ, những người đã bị mất mát và thiệt thòi quá nhiều trong cuộc chiến bao năm qua tại quê nhà và hiện nay vẫn còn đang tiếp diễn.”

     Cây viết LÊ VIẾT TRÂN, một chiến hữu, giới thiệu Hà Bỉnh Trung như một “người thơ võ bị” qua thi tập “Yêu Mãi Ngàn Năm”: “Về những nơi chốn mà tác giả đã đặt chân tới, thì trong suốt tập thơ, tác giả đã chứng tỏ cho người đọc là thơ đã được viết khắp cùng thiên hạ, từ trong đất nước Việt Nam đến những địa danh trên thế giới, trong cuộc hành trình của đời quân ngũ của ông. Ở đâu ông dừng chân là ở đó có thơ, đặc biệt là thơ yêu.”… “Một niên trưởng sau những quá khứ chiến chinh ngày xưa, giờ đây ngồi ôn lại những quãng đời yêu đương thơ mộng của mình để giãi bày những tâm sự chứa chan lãng mạn của một người chiến sĩ về hưu, dành lại những hăng hái ngày xưa cho thế hệ mai sau.”   

     Tiếp đó Giáo sư NGUYỄN NGỌC BÍCH khi đề cập tới thi tập “Yêu Mãi Ngàn Năm” cũng nói: “…ta có thể khẳng định mà không sợ nhầm lắm rằng thơ Hà Bỉnh Trung nằm trong ‘vũ trụ thơ tiền chiến’. Nhưng có lẽ vì anh may mắn nên ta ít thấy thơ của anh dày vò chung quanh những nét ‘ghen, hờn, giận’ mấy! Có lẽ nhờ vậy mà đọc thơ anh, ta không có cảm tưởng ‘ngộp thở u uất’ hay gặp một ‘loại tháp ngà lạnh buốt’ như chữ của Mai Thảo. Ta thấy nhẹ nhõm hơn vì có lẽ tình của anh, những mối tình của anh, đơn sơ hơn, bình dị hơn, không hề quằn quại, đau thương mấy.”… “Cũng giống thơ Xuân Diệu phần nào, thơ tình Hà Bỉnh Trung cũng có chất nhục tính, chất ‘sensualité’ - một khám phá lớn của thơ tình Việt Nam ở thế kỷ 20, một tính cách gần như không có trong thơ tình Việt Nam của những thế kỷ trước”… “Mặc dầu anh có, anh nhận được ra cái nhiệt tình, cái nồng độ của tình yêu trai gái, anh vẫn không dám - ít nhất trong thơ anh - đi xa hơn cái lễ nghi cho phép.”

     Nhà văn SƠN TÙNG khi đề cập tới thi phẩm “Yêu Mãi Ngàn Năm” thời cho rằng: “Có lẽ ‘tình yêu làm cho con người trẻ lâu’ thật nên nhà thơ Hà Bỉnh Trung năm nay đã 70 tuổi, mái tóc bạc trắng như tơ, nhưng dáng dấp vẫn như một người trung niên, và lái xe thể thao sang số tay.”... “Nhà thơ Hà Bỉnh Trung đã làm thơ tình nửa thế kỷ trước đây, nay vẫn còn làm thơ tình và xuất bản thơ tình.”... “Tập thơ ‘Yêu Mãi Ngàn Năm’ cùa Hà Bỉnh Trung cũng chứng minh rằng trái tim thi nhân không bị già cỗi và chết ngộp trong sức ép của đời sống tôn thờ vật chất.”

     Chủ nhiệm nguyệt san Kỷ Nguyên Mới là nhà văn LÊ THỊ NHỊ đưa ra những nhận xét: “Trong lúc sinh hoạt với nhà thơ Hà Bỉnh Trung, tôi nhận thấy ở ông có nhiều đức tính mà tôi rất khâm phục. Ông là một người lạc quan, hòa nhã, không bao giờ biết hờn giận ai, khiêm tốn và biết tôn trọng người khác, dù người đó chỉ ở hàng con cháu của ông”... “Có thể nói, nhà thơ Hà Bỉnh Trung là một người rất có lòng với văn chương chữ nghĩa và các sinh hoạt của cộng đồng. Ông không chỉ nói suông, mà ông đã thể hiện tấm lòng đó bằng những hành động cụ thể. Nhà thơ Hà Bỉnh Trung viết và làm thơ không ngừng nghỉ! Ông khuyến khích những người mới viết và coi mọi người như bạn.”… “Nhà thơ Hà Bỉnh Trung cũng có cái may mắn là những việc ông làm, ông được sự yểm trợ đắc lực của hiền thê và các con của ông.”

     Nhà văn LÊ MỘNG HOÀNG cũng bộc lộ tình cảm mình và góp ý: “Tin bác từ trần như một cơn bão dữ thổi qua khu vườn Câu Lạc Bộ Văn Học Nghệ Thuật, ban biên tập Nguyệt San Kỷ Nguyên Mới, đặc san Cỏ Thơm, và trong cộng đồng Việt Nam đặc biệt là các cụ Hội Cao Niên đã từng sinh hoạt với bác 4 năm liên tục lúc bác giữ chức vụ Hội Trưởng Hội Cao Niên.”… “Suốt mấy năm sinh hoạt với các anh chị em trong Câu Lạc Bộ Văn Học Nghệ Thuật dưới sự lãnh đạo của chủ tịch Hà Bỉnh Trung, con chưa lần nào nghe bác to tiếng hoặc chỉ trích phê bình ai, lúc nào bác cũng từ tốn, nhỏ nhẹ, hoà nhã.”

     Nhà văn nhà thơ HỒNG THỦY nhận định: “Tuy bác lớn tuổi nhưng bác rất khoẻ, lưng vẫn thẳng băng, bước đi nhanh nhẹn. Dáng dấp hào hoa và quần áo lúc nào cũng đẹp đẽ chải chuốt. Tính tình bác rất trẻ trung, bác luôn vui vẻ hòa đồng với mọi người”... “Tôi rất cảm phục bác vì tính bác rất rộng lượng, không hay chấp nhất. Bác luôn cho đám hậu sinh chúng tôi những lời khen thưởng khuyến khích, ít khi bác chê bai hay làm mất long ai”... “Bác là người thơ có trái tim trẻ mãi không già”... “Tình yêu thơ văn của bác gắn liền với tình yêu quê hương Việt Nam. Bác luôn luôn muốn bảo tồn văn hóa Việt. Bác đã thành lập Câu Lạc Bộ Văn Học Nghệ Thuật Vùng Hoa Thịnh Đốn và sau đó có sáng kiến thành lập Nhà Việt Nam để làm trung tâm sinh hoạt cho người Việt Quốc gia ở vùng Thủ đô Hoa Kỳ.”

     Chủ bút nguyệt san Kỷ Nguyên Mới là LINH VANG tâm sự: “Bác quý mến người cầm bút, không phân biệt già trẻ, bác ăn ở hiền hậu đúng là văn nhân thi sĩ chính hiệu. Bác đứng ra ngoài mọi phe nhóm dùng chữ nghĩa đánh phá nhau. Bác hay nói với tôi, đã bảo văn thơ là thú vui tao nhã, ai lại dùng để chửi nhau. Tôi chịu ảnh hưởng văn thơ của bác nên văn chương chữ nghĩa của tôi cũng rất hiền, hiền kiểu Đôi bạn, Hồn Bướm Mơ Tiên”... “Điều làm tôi cảm động và kính mến bác nhất là bác luôn luôn đối xử với tôi như là một bạn văn, dù tôi kém tuổi hơn bác rất nhiều, dù sự nghiệp viết lách của tôi cũng còn non trẻ, thua bác xa lắc.”

     Cuối cùng là nhà thơ ĐĂNG NGUYÊN (nay là Chủ Tịch Văn Bút Miền Đông Hoa Kỳ) nói: “Nhà thơ Hà Bỉnh Trung rất yêu đời. Cụ có cuộc sống giản dị, thanh thản, hài hòa với mọi người, nên được nhiều người yêu mến”... “Cụ nhìn đời khá lạc quan”... “Giữa mùa Xuân hải ngoại, nhiều người nhìn đời u ám, nhìn mùa Xuân bi thương, nhìn tình yêu đầy trắc trở, bội bạc, thì cụ Hà với tuổi bát tuần vẫn yêu Xuân, yêu đời, yêu người tha thiết như tuổi đôi mươi”... “Hình ảnh Cố Chủ Tịch Hà Bỉnh Trung vẫn còn mãi mãi trong lòng hội viên Hội Cao Niên và các thi văn hữu trong vùng Hoa Thịnh Đốn.”

     Hai người cháu ruột cao niên của văn thi sĩ Hà Bỉnh Trung cũng góp mặt trong cuối phần 1 Tuyển Tập. Nhà thơ ĐỖ LANG (Đỗ Hữu Tước) ghi mấy vần thơ nhân kỷ niệm sinh hoạt 60 năm của chú mình:

     ...“Thi tứ mượt mà tình với lụy

         Văn chương chải chuốt mộng cùng mơ

         Da mồi nhưng trí còn minh mẫn

         Tóc bạc mà lòng vẫn ngẩn ngơ”...

     Nhà văn ĐIỀN HƯƠNG (Đỗ Tài Trường) khi nhớ về những kỷ niệm với cậu ruột thân yêu của mình đã phát biểu: “Ở tuổi cửu tuần tuy chưa tới bách tuế nhưng nếu người còn ở lại tôi tin rằng sẽ còn nhiều thơ sáng tác có giá trị thêm nữa, nhưng dù sao cũng tự an ủi là cậu đã ra đi rất nhẹ nhàng không hề vướng bận cho con cháu và người thân.”... “...tưởng nhớ người cậu hiền hòa kiến thức rộng rãi, ôn tồn với mọi người, một con người nhân hậu đáng trân quý không còn trên thế gian.”

Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Virginia, tháng 4 năm 2014)

 

THƠ HÀ BỈNH TRUNG

FAREWELL, MY LOVE!

To My Beloved Departed Wife

 

You’ve gone! The sky is dark and dreary

You’ve really gone! The snow is all over.

The wet wind’s weeping for a grey winter

Is it really weeping or taking pity on me?

 

Where are you going from your deathbed

And leaving me in deep sorrow

Life’s still intact, though winter is dead,

The sky is quite high, and the earth’s quite low.

 

My eyes are dried ‘cause my tears ran dry

Since I spend time to weep.

Although in life there are changes and a good cry

Permanent our love is still deep.

 

Why were they so fleeting the days we were lovers?

You leaned on my shoulder and read poetry.

We, on the beach, were counting over and over

Waves, clouds, stars, and even trees.

 

Time’s gone by, our love followed its way

For two centuries (*) without being distorted.

I know that our love will remain always

Noble and long although life is short.

 

You’ve really gone with a smile of bliss.

I’m weeping when looking at you.

Farewell, my love! Have a parting kiss

Go, go your way! Make your life anew.

 

February 3, 2004

 

(*) From 1944 (Twentieth Century)

to 2004 (Twenty-first Century)

Ha Binh Trung

VĨNH BIỆT, TÌNH ANH!

 Tặng Hiền Thê Đã Qua Đời

 

Em đi! Sầu thảm đất trời

Em đi, đi thật! Tuyết rơi khắp vùng

Gió mưa than vãn lạnh lùng

Khóc Đông u ám hay thương thân này?

 

Em đi về chốn nào đây

Để anh buồn tủi dâng đầy tim côi

Đông tàn, đời vẫn lặng trôi

Trời cao, cao vút, đất thời thẳm sâu.

 

Mắt anh khô cạn dòng châu

Sau bao ngày nhỏ lệ sầu chứa chan

Dù đời xáo trộn, khóc than

Tình ta vẫn mãi vô vàn thiết tha.

 

Ngày âu yếm sao sớm qua?

Đọc thơ, em khẽ dựa bờ vai anh.

Mình từng trên biển đếm quanh

Mây trôi, sao lạc, sóng xanh, cây ngàn.

 

Tình ta theo với thời gian

Qua hai thế kỷ (*) vẹn toàn yêu thương

Luôn cao quý, mãi ngát hương

Đời dù ngắn ngủi, tình trường không phai.

 

Em đi! Thanh thản nụ cười

Nhìn em anh ứa lệ nơi mắt buồn

Vĩnh biệt Em! Gửi nụ hôn

Em qua đời mới. Linh hồn thảnh thơi!

 

Tháng Hai 3, 2004

 

(*) Từ 1944 (Thế Kỷ Hai Mươi)

tới 2004 (Thế Kỷ Hai Mươi Mốt)

Ngô Tằng Giao

chuyển ngữ

 

Sài Gòn ơi !

Trần Quốc Bảo

Sàigòn ơi!
Người yêu ơi!
Đêm hằng đêm tương tư lưu luyến
Từng giờ, từng phút ray rứt nhớ thương
Sàigòn chân tình thoải mái
Sàigòn rực rỡ yêu đương
Sàigòn bừng bừng sức sống
Sàigòn đầy ắp kỷ niệm của năm tháng xa xưa mãi mãi sinh động trong tôi
 
Xa Sàigòn một khoảng cách khá lớn, cả không gian lẫn thời gian
Nhưng vẫn thường thấy Sàigòn ẩn hiện thấp thoáng đâu đây
Trong vạt nắng hồng
Làn gió mát
Và những đám mây chiều lang thang trên đỉnh núi
Khi mộng mị
Lúc say sưa
Hoặc phút giây thần trí lạc khỏi vùng thể xác
Từng thoáng bất chợt
Tôi đã trở về Sàigòn
Gặp lại người em sầu mộng
Gặp lại phố phường quen thuộc
Những cột đèn
Nhà thờ Đức Bà, khu Bàn Cờ, viện Hóa Đạo
cầu Thị Nghè, Dòng Chúa Cứu Thế, chợ Bến thành
Bến tàu
Và trường học thân yêu
Và công viên kỷ niệm
Muôn mầu muôn vẻ huy hoàng kiều diễm của Sàigòn thuở xưa hiện rõ rệt nơi tiềm thức
Tôi chìm vào Sàigòn
Giấc mơ Sàigòn quấn quyện trong ký ức
Sàigòn tràn ngập hồn tôi
 
Mỗi buổi sáng
Thức dậy ngỡ ngàng với sự hiện diện của mình ở miền đất tạm dung
Nơi đây … Thủ đô xứ người, kiến trúc đồ sộ, ánh sáng chói chang, âm thanh xa lạ
Tất cả không quen thuộc, không luyến thương
Chỉ thấy thờ ơ lạnh nhạt
Biết tìm đâu chút ấm áp cho tâm hồn viễn xứ
Tôi như người nghèo hèn lạc vào cung điện xa hoa
Như kẻ mồ côi ăn nhờ ở đậu trong gia đình hạnh phúc
Nỗi buồn mênh mông dâng lên
Dìm tôi xuống vực thẳm
Cô đơn
Với mối sầu bất tận dưới đáy đại dương
 
Mỗi khi màn đêm buông xuống
Trút bỏ thực tại phiền toái
Nhắm mắt lại
Thì dần dần Sàigòn hiện ra
Tôi nhìn Quê Hương tôi:
– Con đường Nhà Thờ Chí Hòa
Cây Thánh Giá cẩm thạch ở nghĩa trang Thánh Minh, nấm mộ cha mẹ, nơi tụ họp đông đảo của gia đình, họ hàng quyến thuộc
Chiếc bình bông cuối mộ sứt mẻ chưa thay mới
Cỏ đầu mộ quá cao chưa cắt xén.
Tôi không mất mát một chút hình ảnh nhỏ bé nào của Sàigòn
Chắt chiu cất giữ từng kỷ niệm vàng son
Tựa kẻ thất tình ủ ấp tôn thờ bóng dáng người yêu
Tôi mang tâm trạng lữ hành đói khát giữa sa mạc
bỗng nhìn thấy ảo ảnh dòng suối ngọt ngào
 
Sàigòn ơi!
Người yêu ơi!
Tháng năm dài sống đời lưu vong
Qua từng giấc mơ thảng thốt
Chợt mê chợt tỉnh
Đã bao lần được về bên người
Người em tóc dài
Sáng chủ nhật, giọng em cao vút lời Thánh ca trong Vương Cung Thánh đường
Chiều mưa Sàigòn xám đục
Em đi học về
Gió thổi tà áo trắng bay bay
 
Đã bao lần với ác mộng kinh hoàng
Sài gòn rực lửa
Thiếu phụ chờ đón trực thăng, gục xuống bên xác chồng đẫm máu
Bà mẹ già vuốt mắt con yêu
Em bé mồ côi trong đống rác,
và từng đoàn dân lành tả tơi chạy giặc ồ ạt tràn về Thủ đô
 
Đã bao lần gặp hồn mình trong mộng
Dựng lại ước vọng lớn của người chiến binh thuở nào
Với vũ khí
Với nhung y
Sừng sững đứng trấn ngoài biên ải
Dương cao lá Quốc Kỳ Việt Nam Cộng Hòa nơi biên thành
Giữ thanh bình cho Quê Hương
Đem yên vui cho dân tộc
.   .   .   .   .   .   .   .   .   .   .
Hỡi Ngọc Trân Châu
Người em nghìn trùng xa cách
Thương em biết mấy cho vừa
Sàigòn yêu ơi!
Mệnh trời oan nghiệt. Vận nước điêu linh
Tháng Tư đen
Đất Nước Quê Hương lọt vào tay giặc thù
Biết nói sao nên lời
Mộng lớn không thành rồi
Chỉ mơ tới em thôi!
 
Giờ này đây
Việt Nam chìm trong hỏa ngục
Sàigòn đổi tên
Người yêu tôi không còn đi trên Công lý, Tự do
Lời ca tiếng nhạc im lìm, nụ cười đã tắt, ánh mắt âu lo
Qủy đỏ xâm phạm Thánh thất, đào xới nghĩa trang
Biến Quê Hương thành nhà tù vĩ đại
Toàn dân đói khổ nhục nhằn
 
Sàigòn ơi!
Giờ phút em hấp hối
Trang lịch sử đen tối khởi đầu
Tôi ôm niềm đắng cay bi phẫn ra đi
Giã biệt em với hành trang là nỗi đau qúa lớn
Hôm nào như mới hôm qua
Tầu đến sông Nhà Bè, nhìn lại Sàigòn
Pháo kích liên hồi hướng Phi trường Tân Sơn Nhứt
Tia lửa vọt lên nền mây u ám
Kho đạn Thành tuy hạ phát nổ dữ dội. Rúng động Thủ đô
Ánh lửa hồng bao phủ em yêu
Tôi ôm uất hận lặng đi như người mất trí
Con tầu đi xa
Đi xa dần
Đến hải phận quốc tế, mưa rơi tầm tã
Thượng Đế cũng nhỏ lệ cho Quê Hương Việt Nam khổ nạn
Đứng trên boong tôi nhìn mãi về em
Tất cả Sàigòn chỉ còn là đốm sáng nhỏ
Lẫn vào sóng nước, mưa đêm
 
Em yêu ơi!
Bây giờ em ở đâu
Có phải trên từng xanh bát ngát kia
Em đang gửi từ Sàigòn đến cho tôi những làn khói mây màu xám.
Sàigòn yêu dấu ơi!
Có phải mây trời lang thang đó in đẫm hình ảnh em tôi.
 
                           ***
 
Trong thăm thẳm đêm đen . tôi vẫn niềm tin tha thiết
Trời cao che chở, Hồn thiêng sông núi phù trì
Một ngày rất gần, toàn dân vùng lên mãnh liệt, dành lại sự sống cho Quê hương
tôi sẽ trở về với em
Saigòn yêu dấu ơi!
 
                                         Trần Quốc Bảo
                                             Richmond,VA

Nằm Mơ Thấy Hai Bà Mắng

Trương Anh Thụy

Mây vần vũ…
Từng mảnh trời tan tác
Đất chuyển mình, cây vật vã ngả nghiêng
Cả thành phố trôi theo nước lũ
Người mơ màng trong giấc thụy miên…

Giữa đêm tối…
bỗng hào quang sáng tỏa
xé màn đen chói lóa… lan tràn…
Ngước nhìn lên…
Ô kìa! Trưng Nữ!
Tuốt gươm trần chỉ xuống nhân gian…

Tôi quỳ lạy cầu xin ân sủng:
Xin ban cho quốc thái dân an
Xin cho được dân giầu nước mạnh
Xin cho con cháu hết cơ hàn…

Vẳng trong gió vang rền ngàn dặm
Lệnh Hai Bà rành rẽ, uy nghi:
“Đừng van vái, đừng chờ phép lạ
Đừng ù lì, yếu đuối, sầu bi…

Đừng dựng miếu, trầm hương nghi ngút…
Đừng năm năm tế lễ linh đình
Mở mắt nhìn cảnh nước điêu linh!
Triệu triệu dân lành oan khiên đói khổ…
Dân khiếu kiện dài hàng cây số
Tiếng kêu than lên tận cổng Trời
Cụ già, trẻ thơ giữa màn trời chiếu đất,
lửa tự thiêu… vẫn lạnh giá tim người!

Phải can đảm nhìn vào quốc nhục!
Có nước nào như nước ta không?
Người yêu nước bị trói tay bịt miệng
Kẻ hại dân tạo tác thong dong
Cấp lãnh đạo giả câm giả điếc
tiếp tay, bao che, kéo bè, cấu kết
bọn cướp ngày vơ vét, tham ô…

Kẻ vô thần cậy quyền cậy thế
Vây chùa, giam hãm, trù rập thầy tu
Chiếm đất nhà thờ, đánh con chiên tàn tệ…
Đạp giống Rồng Tiên xuống loài giun dế,
đem gái Lạc Hồng rao bán khắp năm châu
cho ngoại nhân làm đĩ điếm, nàng hầu…
Mặc sức bạo hành, ép o, ngược đãi…

Kẻ nào chê thời xưa phong kiến,
đẩy nàng Kiều vào chốn lầu xanh?
Nay chế độ “triệu lần tốt đẹp,”
bọn buôn người gặp đất nẩy sinh!
Kẻ nào nói thương dân, xót nước?
Kẻ nào rao “hạnh phúc,” “ấm no?”
Lại kiên định giữ độc tài, độc đảng,
triệt tiêu mầm dân chủ tự do?

Xén đất, dâng biển cho kẻ thù truyền kiếp
bọn quân Tầu bành trướng tham lam…
Họa mất nước, họa san bằng, diệt chủng…,
đeo đuổi ta hoài… ác mộng không tan

Giặc đến nhà đàn bà phải đánh!
Giặc đói, giặc nghèo, giặc dốt, giặc ngu…
Giặc ngoại xâm, giặc nội thù gian ác
đầy đọa toàn dân trong giếng thẳm, ao tù…

Noi gương sáng bao đời xưa nữ kiệt
rửa phấn son đi gìn giữ non sông
Và thời nay bao tấm lòng son sắt
gánh gạo nuôi chồng khi vận nước suy vong
đã chứng minh hùng hồn cho thế gian đều biết
rằng cánh tay mềm chống nổi trận cuồng phong.

Tuổi trẻ ơi!
Lắng nghe non nước gọi!
Hãy ngẩng cao đầu, gánh nợ nước đi thôi!
Một chiếc đũa rời, dễ dàng bẻ gẫy
Một bó nguyên hình, sức mạnh tất lui

Đưa bàn tay từ năm châu bốn bể
Tìm bàn tay từ tổ quốc xa xăm
Triệu triệu con tim đập theo một nhịp
Nhịp kiêu hùng, nhịp hải triều âm

Đem sở học chung lưng xây đắp
Đem lòng nhân cứu lấy giang san
Cho thế giới nhìn vào nể trọng
một Việt Nam, cường quốc ngang hàng

Ghi ơn Quốc Tổ có công dựng nước,
Đền đáp hy sinh để lại nghìn sau
của hàng triệu anh hùng liệt nữ
trên biển, trên sông, trên đường đi viễn xứ…
trên sa trường xương rãi trắng phau.

Đứng dậy đi!”
Tôi lại nghe tên gọi.
“Đừng kêu nài, kể khổ, than van…
Đừng hoài nghi, nặng đầu bao dấu hỏi
Đừng ươn hèn, ích kỷ, cầu an…

Đừng khiếp nhược trước gian tham tàn bạo
Đừng chùn chân sợ chó xủa bên đường
vì bước chông gai dù kéo dài vạn lý
có tám mươi triệu người từ khắp nẻo quê hương…
Bỗng có người lay vai réo gọi
Tỉnh cơn mê, tiếc nuối, bồi hồi…
Mặt trời lên tưng bừng chói lọi
Dáng Hai Bà còn đậm nét trong tôi…

Trương Anh Thụy

Đến Hẹn Lại Lên

Nguyễn Hiền

Cuối cùng thì vợ chồng ông Lân cũng về tới nhà. Đã quá nửa đêm. Sự căng thẳng suốt hơn tiếng đồng hồ giúp ông tỉnh ngủ trên khúc đường về, nhưng bây giờ, khi chiếc xe đã nằm yên chỗ, ông bỗng cảm thấy rời rã. Tuy thế, ông biết, nếu có đặt lưng xuống giường ông lại mở mắt trao tráo. Vài năm nay ông bị chứng mất ngủ vô thời khắc. Giờ người ta ngủ, ông thức. Giờ thiên hạ thức, ông chập chờn. Bác sĩ khuyên ông không nên xem computer giấc khuya, nhưng vô hiệu. Thói quen xem phim bộ như có một người tình thủ thỉ bên tai tới khi ngủ thiếp đã thấm vào tận những mao quản li ti trong người ông. Bên cạnh, vợ ông giật mình, dụi mắt. Ông khẽ nói:

“Đến nhà rồi. Em vô thay đồ, đi ngủ đi, để anh mang đồ đạc vô.”

Vợ ông bước xuống xe, nói không quay lại:

“Mệt quá đi. Em nói rồi đó. Lần sau có đi thì anh đi một mình thôi đấy nghe.”

Ông không biết câu nói lần này là thực hay do giận lẫy, vì đã bao lần vợ ông nói như vậy, rồi cuối cùng vẫn lại ngồi lên xe cùng ông đến nơi họp mặt. Như một chứng tỏ cho mọi người thấy có chồng có vợ cạnh nhau. Hay để kiểm soát lời ăn tiếng nói của ông giữa chốn bạn bè, có trời mới biết. Lần này có hơi khác, ông linh cảm vậy. Đúng hơn, tai ông dường như bắt được những cảm nhận của người mấy chục năm đầu gối tay ấp. Trên đường về nhà, bà than hai ba bận:

“Đám bạn anh tụ họp lần nào cũng bằng ấy chuyện, nói tới nói lui hoài. Chán thấy mồ.”

Ông chặc lưỡi, tuồng đồng ý, và tự bào chữa là tật nói đi nói lại dằng dai một chuyện một là tật cố hữu của nhiều người khi đã vào tuổi mặt trời xế bóng trong cuộc đời. Bởi họ không có cơ hội gặp cái mới, và cũng chẳng có nhu cầu tìm biết thêm. Còn riêng trong đầu, ông cũng nghĩ đến chuyện chắc phải chấm dứt tham dự những cuộc họp như thế này thôi. Càng ngày, dường như chúng càng trở nên nhạt nhẽo. Đó là chưa kể tới những xui xẻo. Như tối này.

Ông đang nghĩ tới quãng đường về và cố tìm lời giải đáp. Chục phút sau khi ông bà rời trạm xăng, chiếc xe cà tàng chợt dở chứng, khục khặc ho hen… Ông vội tấp vào lề. Hai bên đường chỉ có đồng cỏ trống trơn, không nhà cửa, cũng chẳng có ngọn đèn đường. Bà vợ choàng tỉnh, hỏi dồn:

“Gì vậy anh?”

“Không biết, sao nó không chịu chạy nữa.”

“Kỳ vậy, mình mới đổ xăng mà. Hay hồi nãy anh đổ lộn dầu rồi đó?”

Ông thấy nhói trong tim, nhưng may còn nhớ ra:

“Đổ đúng xăng mà, anh nhớ là anh còn coi cái giá mỗi lít trước khi bơm mà em.”

Ông vặn chìa khóa. Máy xe khục khặc giận dỗi. Nghĩ máy ngộp, ngồi định thần một lát, ông tiếp tục đề. Chẳng khá hơn. Ông bắt đầu run. Bà cũng quýnh, khi chợt thấy bó bông đã héo úa nằm dọc lề đường bên kia, cách đó không xa:

“Anh xuống coi sao…”

Ông khoác áo, bước xuống, mở nắp ca-bô lục lọi bới tìm. Mọi thứ đều có vẻ bình thường. Bình điện, nước nôi… Bà hỏi với ra:

“Có thấy gì không anh?”

“Không thấy có gì trục trặc hết.”

Ông lên xe, mở công tắc, trên bảng báo chẳng có dấu hiệu gì khác lạ, xăng đầy, nước ấm vừa đủ. Ngộp xăng thì chắc chắn là không, bởi xe đang chạy ngon trớn trên con đường liên tỉnh. Nhưng giờ thì cỗ máy vẫn đình công, kêu ặc ặc, dấu hiệu sắp hết bình vì bị đề liên tục.

“Điệu này chắc chỉ còn cách kêu họ tới sửa. Mà khuya quá rồi, không biết chừng nào họ mới tới đây.”

“Hồi nãy kêu anh về sớm mà anh cứ ngồi chết đó, nói chuyện gì đâu không”, bà bắt đầu nổi quạu. “Hồi đó anh sửa xe hay lắm mà, giờ cái xe mới chết máy mà đã đầu hàng.”

Mặc bà khích, ông dịu giọng:

“Hồi xưa ở Việt Nam khác. Xe cộ bây giờ toàn đồ điện tử không, hư là chỉ có nước kêu hãng bảo trì họ tới, có máy đo. Mình đâu có mấy cái đồ nghề đó.”

Bà chịu thua, hối ông kêu cho hãng bảo hiểm. Hai vợ chồng ngồi chết trân trên xe. Ông toát mồ hôi cùng mình mặc dầu trong xe khí lạnh bắt đầu thấm, còn bà liên tục bắt ấn, niệm Phật và ngó chằm chằm bó bông, sợ mắc chứng nó nhỏm dậy. Hơn nửa tiếng sau, chiếc xe vàng cứu tinh xịch đến. Ông lắp bắp giải thích – thực ra chẳng cần dài dòng, xe không chạy là không chạy, chỉ có việc coi lại ba thứ: xăng, nước, điện, ông rành sáu câu. Ông vốn dân Quân Vận, nhờ tài sửa xe Honda cho cả gia đình nhà vợ mà ông bà đã nên đôi. Chuyện dễ như ăn cơm sườn mà giờ đây ông đành bó tay, làm ông cũng bực, coi như mất điểm thêm qua cú này. Người thợ rê đèn soi một lượt, bàn tay thành thạo lắc chỗ này, móc chỗ nọ. Ông đứng cạnh dòm theo nhưng chẳng học lóm được thêm gì.

Vậy là anh ta chui vào xe. Mở công tắc, liếc qua dãy đồng hồ và đèn báo, vặn chìa. Máy phát nổ ròn tan như chế nhạo sự kinh ngạc của ông già. Anh ngó ông Lân, có vẻ hơi bực. Hai vợ chồng tròn mắt ngó lại.

“Ủa! Có gì trục trặc đâu!”

“Nãy giờ tôi… tôi đề… đề cả chục lần…”, ông lắp bắp, trời tối không ai thấy mặt ông đỏ cỡ nào. May là mấy ly rượu đã tan gần hết, không thì… Ông cố vớt vát:

“Nếu không có chuyện gì thì tôi đâu mắc công kêu anh…”

Nhưng anh thợ không để ý chuyện này. Móc điện thoại báo về tổng đài, ngoáy mấy chữ vào tờ tường trình công việc đưa cho ông ký, xong anh ta nhảy phóc lên xe phóng đi, sau khi dặn dò:

“Ông chạy cẩn thận, có ngừng xe dọc đường nhớ đừng tắt máy. Tốt hơn là mai ông mang xe ra ga-ra cho họ rà lại toàn bộ một lần cho chắc. Chúc ông bà may mắn.”

Dĩ nhiên là sau đó ông lái xe rất chậm rãi, hồi hộp vì sợ xe dở chứng nữa thì ít, mà nghĩ về một “oan hồn” nào đó có thể đang luẩn quẩn nơi khúc đường gặp nạn thì nhiều. Ngồi cạnh, bà Lân chốc chốc niệm Phật. Chẳng ai dám nói ra ý nghĩ của mình về chuyện vừa xảy ra, có lẽ chúng cũng giống nhau thôi. Bất giác ông liếc nhanh vô kiếng chiếu hậu, biết đâu “nó” đang ngồi trên băng sau thì chắc cả người cả xe xuống ruộng…

Và cho tới bây giờ ông vẫn chưa hoàn hồn. Vợ ông đã lên lầu từ lâu, chỉ còn ông dưới nhà, căn nhà lạnh ngắt. Nhưng ông không vội. Thời giờ với ông như tiền của đại gia. Hai vợ chồng từ lâu đã ngủ riêng. Nếu người ngoài thắc mắc, ông nói vì ông có tật ngáy ồn ào sợ phá giấc ngủ của bà. Bà bảo là ông ghiền coi sách truyện, phim bộ cho nên ngủ riêng để coi cho mãn nhãn. Sự thực không hẳn thế. Cái giao ước sẽ nằm bên nhau tới mãn đời mà họ thủ thỉ với nhau trong chuỗi ngày thần tiên sau tiệc cưới là một giao ước hoàn toàn dựa trên tin cậy, không có những điều kiện “phải” hay “không được”. Dần dà, cả hai cùng nhận ra có những lần mình không tuân thủ những điều kiện “bất thành văn” này, và không biết tự khi nào – hình như từ khi căn nhà đã trở nên quá rộng và im vắng sau khi đứa con cuối cùng đã ra ở riêng vài năm – hai người đã tự nguyện chọn cuộc sống chung mà riêng này. Những tháng đầu, nhiều đêm ông còn nằm trăn trở lắng nghe tiếng động từ phòng bên, thỉnh thoảng nghe tiếng bà ngáy ro ro, ho hen, tiếng dép lê loạt soạt từ phòng ngủ ra phòng tắm hay xuống nhà dưới… thì đoán bà đang làm gì, còn bà thì mỗi lần đi ngang phòng ông, thấy ánh sáng lọt qua ngạch cửa và tiếng léo nhéo thì nghĩ là ông còn thức, vậy thôi. Có lần ông vào phòng bà, và hoàn toàn cảm thấy lạc lõng trước khung cảnh lạ lẫm khác hẳn trước đây khi hai người còn ngủ chung. Gần như mọi thứ đều thay đổi vị trí, trừ mấy cái tủ quần áo. Ông nhận thấy rõ ràng đây là giang sơn của riêng một người nào đó, không có ông trong đó. Rồi ông trở về phòng, để cũng nhận ra nơi này cũng là một lãnh địa riêng. Mọi thứ ông cần đều nằm trong tầm tay với. Sách và băng đĩa nằm theo một trật tự chỉ có mình ông biết. Dường như bà cũng chẳng thèm bước vô nơi đây, bởi dưới sàn đóng bụi còn thấy mấy mảnh giấy vụn vương vãi tự thuở nào ông chẳng nhớ. Ông thấy nhói trong tim một chút, nhưng rồi cuối cùng nhận ra là con đường một khi đã dẫn tới nơi này rồi thì khó mà quay lại…

“Mình phải pha một bình trà…”, ông tự nhủ, phải ngẫm lại xem coi có mối liên lạc nào giữa những sự kiện ngày hôm nay. Chẳng lẽ một điềm gở?

Nhóm bạn tụ họp tán dóc của ông thời cực thịnh có sáu gia đình, nhà họ không quá cách xa nhau. Mỗi tháng họ tụ nhau một lần, xoay tua. Lần lần, con số tụt xuống. Người này thoái thác bận coi nhiều cháu. Người kia bịnh. Người nọ dọn nhà. Người khác nằm xuống… Những cuộc họp mặt theo năm tháng cũng dần thưa đi, và chuyển đổi, rồi lại phải có lý do, không có hú suông như trước. Hồi đó… hồi đó còn ăn nhậu tưng bừng, bia khui không kịp, Tết ngủ lại bài bạc. Mấy bà động dao động thớt, chiên món này xào món nọ, nói chuyện rân trời. Rồi tới thời gian chuyển từ bia sang rượu, ngồi khề khà nhâm nhi và hát karaoke, thì lượng đồ ăn đã giảm xuống. Tới chừng có một số lâm bịnh mãn tính, hơn nửa số đã bỏ thuốc và rồi rượu uống có cữ, những thú vật chất đã dần vơi, thì chỉ còn ngồi tán dóc với nhau là chính. Chuyện vui buồn trong công việc làm ít còn nhắc. Chỉ còn những chuyện than thở bệnh tật, con cháu, để rồi trước sau cũng lại quay về những chuyện thời quá khứ vàng son, rồi chuyện tù tội cải tạo, chuyện lập nghiệp nơi đất mới… Ông thích ngồi nghe họ tán tụng nhau, nhất là nghe những chuyện vui ông Sinh mang ra kể cho đám tiệc. Ông Sinh trước kia ở cùng xóm, bốn năm trước, khi bà mất, ông dọn về nhà đứa con gái, để có người khuây khỏa, coi mấy đứa cháu cho hai vợ chồng nó đi làm… và sướng nhất – ông cười hì hì – đỡ khoản tiền mướn nhà.

Nhưng lần họp mặt cuối cùng, trong dịp nghỉ cuối năm ngoái, ông Sinh mời cả đám tới để thông báo chính thức là vài tháng nữa sẽ ăn cái Tết cuối cùng ở đây, và sau đó về Việt Nam ở luôn, coi như đây là buổi tiệc chia tay. Thằng em bên đó nài nỉ ông hoài, còn ông càng ngày càng thấm sự dằn vặt của nỗi nhớ quê, khi ông nhận ra vốn tiếng ngoại quốc của ông, vốn đã ít ỏi, nay lại bay dần. Mà ở tuổi ông, một khi chữ tây chữ u đã bay thì nó sẽ bay luôn, không bao giờ trở lại.

Vì thế, lần này ông Lân có cảm giác thật lẻ loi, mất đi người bạn thân. Và cũng vì thế mà câu chuyện trong buổi họp mặt đi ngay vào vấn đề xoay 180 độ của ông Sinh, một người ngang tàng nhiều năm hăng hái hoạt động nay bỗng dưng xếp giáp quy hàng. “Hàng thần lơ láo phận mình ra đâu”, đúng vậy, nhưng có một nhà văn nào đó đã viết là “lòng hoài hương có sức mạnh đốn quỵ cả những người gai góc nhất”. Chắc chắn phải có lý do nào đó khiến ông Sinh một sớm một chiều bỏ cả mọi chuyện để nắm lấy lưỡi dao. Vì thế cả đám xoay qua truy ông Lân về chuyện này và hỏi thăm ông về tin tức người bỏ cuộc, đúng hơn là phản bội, từ cờ vàng nhảy sang cờ đỏ. Ông ừ à nói vẫn thế thôi, thằng Sinh nó khoe nuôi mấy con gà đá, chim chóc, phân gà phân chim thì đem bón vườn rau sạch cho cả nhà ăn trên sân thượng… Còn chuyện thiên hạ thắc mắc “có bà này bà kia hay không”, ông nói chắc nịch:

“Làm gì có chuyện đó. ‘Chị Năm’ còn chê nó, trâu này rụng hết răng rồi, cỏ non có dâng tận miệng mấy cũng chẳng cạp được.”

Dĩ nhiên người ta không tin, nhất là mấy bà, đang nháy nhó nhau và liếc mấy ông. Nhưng không thể tra hỏi thêm, chỉ để bụng. Quả thực, chỉ có mình ông Lân là biết rành rẽ ngọn nguồn. Thằng con rể của ông Sinh hai năm trước mất việc, vợ chồng nó xoay qua mở tiệm ăn, và thế là dần dần nó cần chỗ chứa đồ và nấu nướng những thứ có thể làm trước. Con gái ông đề nghị xây cho ông căn nhà chòi bằng cây phía sau, còn gian nhà phụ kế bên bếp nó sẽ dùng làm nhà kho. Nói là đề nghị, nhưng chúng nó đã đặt mua vật liệu từ lúc nào ông chẳng biết. Ông càm ràm, than căn nhà chòi lạnh lẽo, và cằn nhằn là nếu muốn nấu ấm nước cũng phải bước qua khoảng sân rộng, tức là lại phải trùm áo lạnh. Hai đứa làm luôn cho ông cái bếp đơn sơ trong đó, đúng ra là một cái lò điện gắn dính vô chiếc bàn có bánh xe đẩy tới đẩy lui, chỉ đủ chỗ nấu trà và làm mì gói. Ông tủi thân, thấy mình vừa mới bị đẩy ra ngoài xã hội, giờ như từ từ bị đuổi khỏi gia đình. Chỉ vì hiện giờ chúng nó ở nhà suốt, con cái lớn rồi, không cần người coi trẻ thường trực nữa nên mới nên chuyện. Những ấm ức đó đương nhiên ông trải lòng với ông Lân, người bạn tâm đầu, qua điện thoại. Một hôm quá bực ông buột miệng:

“Đm. Con với cái. Mình chắt bóp để dành được mấy chục ngàn cho tụi nó để chúng sang cửa tiệm mà giờ nó chơi kiểu này thì anh nói không ức sao được.”

Ông Lân phì cười:

“Anh đụ mẹ nó cả mấy ngàn lần rồi mà giờ còn chửi thề…”

Tưởng là hạ hỏa, ai dè lửa có thêm dầu:

“Đm. nó chứ, giận ơi là giận, không ói máu là may. Tui bỏ luôn xứ này về Việt Nam chết mẹ nó cho rồi. Nuôi chúng nó bao nhiêu năm mà giờ chúng nó trả ơn như vậy hả?”

Vì thế ông Lân mới biết là ông em của ông bạn rủ ông anh về cùng vui tuổi già. Và ông đã làm thật. Lại làm quá nhanh như cố trốn chạy sự thực phũ phàng. Nhưng giữa bàn tiệc hôm nay thì ông không nói, vì ông nghĩ tới hoàn cảnh của ông. Thật là trái ngược. Mấy năm trước ông đã có ý định chân trong chân ngoài, mùa hè ở bên nây, mùa đông ở bên nớ. Kỳ về thăm nhà mới đây nhân dịp đám cưới đứa cháu gái, ông ướm lời người em dành căn phòng trống đó cho ông. Vợ chồng nó đẩy đưa lấy cớ này cớ nọ. Ông mượn rượu để nổi sùng và bảo thẳng:

“Hồi đó vợ chồng tao bỏ tiền cho tụi bây sửa nhà sửa cửa giờ vợ chồng tụi bây chơi vậy đâu có đẹp.”

“Anh đâu biết, kỳ anh đi vượt biên đó, tụi em ở nhà xất bất xang bang với mấy thằng công an, hết phường tới quận đến nhà tra hỏi. Kế tới xin đi làm không ai dám mướn, mấy đứa con đi học cũng bị làm khó dễ,” thằng em đốp lại.

Hai vợ chồng nó mặt xưng mày xỉa, ông biết đã thua đậm keo này, và biết từ giờ có về thăm quê hương cũng khó ở trọ nhà chúng nó. Ông chôn nỗi buồn và sự căm giận xuống đáy lòng, sống để bụng chết mang theo. Với mọi người, ngay cả với bà vợ, ông tuyên bố ngon ơ:

“Giờ về bên đó nắng nôi bụi bậm quá, đồ ăn thì dơ dáy, chỗ nào cũng thấy bất công. Ngoài đường thì không có an ninh, xe cán chết người hà rầm. Tui hổng thèm về nữa. Chết bên này cho rồi.”

Ông không ngờ câu tuyên bố đó của ông đã nhanh chóng chuyển đổi đề tài tranh luận trong bàn nhậu trưa nay thành cuộc tranh cãi về chuyện hồi hương và đương nhiên kèm theo đó là lập trường chính trị. Dĩ nhiên, có sự giống nhau giữa những bạn nhậu trên bàn tiệc và các chính trị gia trong chính trường, là những cuộc tranh luận lúc nào cũng nẹt lửa để rồi rốt cục lại chẳng đưa ra một kết luận gì ra hồn. Còn đằng sau, rất có thể ẩn náu những động lực khác. Như giờ đây, những người đã chắt mót mua được một miếng đất hay một căn chung cư ở quê nhà đứng về một phe. Còn lại phe kia là những người đương nhiên chống lại. Nhất là họ vừa nói với nhau về một ông nào đó sau chuyến về thăm nhà đã phải vô ngay bệnh viện vì họ phát hiện ung thư bao tử. “Hóa chất tụi Trung Cộng đầu độc dân mình chứ còn ai vào đây nữa.”. Mọi người xô vào phê phán, người kết tội, kẻ chống chế, ngoại trừ ông, bất đắc dĩ phải đứng về phe chống vì đã lỡ cương bậy, giờ chỉ đành ngồi nghe và nuốt hận. Ông chợt nghiệm ra nhân tình thế thái. Người nào cũng cố bảo vệ con đường mình theo với viện dẫn một cách rất ruồi bu. Người có học thầm khinh miệt hạng có tiền là không có danh giá, lừa lọc mánh mung. Người trọng kim tiền vênh váo đã có được cuộc sống vật chất sung túc, và khi mũ áo vào thì danh vọng nào có kém ai.

Thời may, cuộc đấu khẩu hùng hổ chợt chuyển hướng khi có ai đó bỗng dưng nhảy sang chuyện trong trại cải tạo, và cũng như mọi lần, mọi người tìm được sự đồng thuận trong việc nhắc lại những kỷ niệm vui buồn khoảng thời gian đó. Những chuyện họ trao đổi với nhau ông Sinh đã nghe đầy lỗ tai, vì thực ra cũng chỉ mấy chuyện đó thôi. Không còn tù nữa thì làm sao có chuyện mới để kể. Mà chuyện cải tạo với ông như chuyện ở thế giới khác. Ông chẳng bị tù tội ngày nào. Ba ngày học tập cho ông thấy được số may mắn của mình. May mắn chưa đụng trận lớn ngày nào, nhờ tài sửa xe thần sầu lúc nào ông cũng loanh quanh luẩn quẩn trong bộ tư lịnh. May mắn có nghề mọn nuôi thân và nuôi được cả gia đình sau cuộc đổi đời. Nhưng những lúc như bây giờ ông cảm thấy cô đơn lạ kỳ, vì không góp được gì cho những cuộc vui sau bữa tiệc. Chẳng lẽ lại đem những chuyện khuất tất trong quân đội ông đã làm ra kể cho chúng khi dễ, mặc dầu trong những năm khoác bộ treillis ông đã thấy thiếu gì những tên lon lá cùng mình mà cũng tệ hại chẳng kém gì ông. Bởi thế, ông chỉ ngồi nghe và thấy nhớ ông Sinh vô hạn. Chắc phải về thăm nó một chuyến, ông tự nhủ. Nhưng biết đâu chừng ông bạn Sinh này cũng đổi khác, ông sợ vậy. Thú thực nghe ông Sinh nói chuyện mà phát nản, chim chóc gà qué vườn tược không làm ông phấn khởi chút nào.

Cảm giác xa lạ trước đám bạn nhậu làm ông Lân thấy như mình bị vây quanh bởi những bức tường vô hình, và khổ thay, mỗi ngày chúng như xiết chặt hơn. Người ngồi đối diện ông bỗng nhắc lại một chuyện khôi hài mà ông đã từng nghe nhiều lần:

“Mẹ bà nó. Đi lao động cả ngày mệt thấy mồ mà buổi tối nó còn kêu lên hội trường coi phim. Nghe cái tựa thì hấp dẫn. “Mười Một Niềm Hy Vọng”, tưởng là phim tình cảm gì đó cho mình nuôi chút hy vọng có ngày về chớ, ai dè chỉ có chuyện đá banh. Rồi “Đến Hẹn Lại Lên” chẳng thấy hẹn hò gì hết, chỉ có mấy thằng mấy con bộ đội hát quan họ với nhau…”

“Anh nói vậy chớ bây giờ coi lại và xét về mặt nghệ thuật thì nó cũng hay lắm chứ,” người khác cãi. “Nhất là Như Quỳnh đóng hay không tưởng…”

“Lại một tên ăn phải bả,” – bây giờ đúng là rượu nói rồi.

Cảm thấy không khí sẽ trở nên gay cấn sau lời nhận xét này, ông Lân vội bấm bà vợ cáo từ ra về. Họ được chủ nhân dúi cho một túi mấy món đồ ăn còn dư. “Hẹn lần sau gặp,” ông nói, trong khi thầm nghĩ sẽ chẳng có lần nào nữa đâu. Vả lại thâm tâm ông cũng muốn chạy ngay về nhà để xem Như Quỳnh đóng phim ra sao.

Nhớ tới đây, ngó lại ấm trà đã cạn, ông lên phòng, chui vào trong chăn và mở computer kiếm tìm. Đây rồi. Chưa được mười phút, ông chợt nhớ ra: “Chẳng phải con Như Quỳnh ca sĩ…” Nhưng ông không tắt máy mà nằm suy tư. “Đến Hẹn Lại Lên”, ông mỉm cười. Cái tựa hay đấy chứ. Lần sau đám bạn ông có hú nhau tới nhậu nhẹt chắc mình cũng đi thôi. Cho nó bớt buồn. Bà có đi theo hay không cũng mặc. Ở nhà điệu này hoài chắc khùng luôn…

Mãi miên man chạy theo mạch suy tưởng, ông đi vào giấc ngủ khi nào không biết, với màn hình còn sáng.

Nguyễn Hiền

 

Nỗi Nhớ Không Nguôi

Cao Nguyên

1 – 

mới Tháng Hai, đã nhớ Tháng Tư 

chưa qua Xuân đã chết nụ cười 

trời gió chướng – được mùa nước mắt 

tràn qua tim, chảy suốt đời người! 

từ Phố Bolsa – nhìn thấy lửa 

cháy đỏ trời dọc theo Sông Ba 

bạn bè chết, nhớ tên từng đứa 

gọi nhau vào bi khúc xót xa!

2 – 

giữa Tháng Hai, đã nhớ Tháng Tư 

tại ký ức nhầm ngày, lộn chỗ 

hay đến kỳ siêu độ bạn ta 

bốn – mươi – năm tìm không thấy mộ

nỗi buồn ấy hiển nhiên có thực 

ai không tin – cứ hỏi bạn ta 

viên đạn nào bắn vào giữa ngực 

khi tim còn dồn nhịp thiết tha!

3 – 

Tây Nguyên ơi! gót hồng, đất đỏ 

vội vàng chi đi chẳng giã từ 

để bây giờ còn nghe tiếc nhớ 

núi rừng xưa in cả bóng người! 

Ruộng Đồng hỡi! luống cày vỡ đất 

gieo cho xanh hạt giống Tin Yêu 

từ mỗi chỗ đau buồn rất thật 

triệu đoá hồng Nhân Ái mọc lên ! 

 

Cao Nguyên

Nhớ Hà Tiên

Trần Quốc Bảo

 
Xa cách quê nhà mấy chục niên
Lòng luôn se sắt nhớ Hà-Tiên
Một vùng đất nước như tranh vẽ
Nổi tiếng kỳ quan, đẹp tự nhiên
 
“Thập cảnh Hà-Tiên” rất mộng mơ
Mạc-Thiên-Tích xuất thần đề thơ
Tao đàn lưu bút Chiêu-Anh-Các
Địa lý lừng danh tự thuở giờ!
 
Đông-Hồ rực rỡ ánh bình minh
Sóng nhẹ ôm mây gió hữu tình
Thoảng tiếng chuông Phù-Dung cổ tự
Gợi niềm vui, cuộc sống thanh bình
 
Hướng Tây hải đảo là Kim-Dự
Nhuộm sắc vàng hoe buổi xế tà
Hải điểu muôn phương về hội tụ
Người và chim quyến luyến hài hòa
 
Vách núi chở che vùng đất màu
Hướng Nam, sừng sững ngọn Tô-Châu
Chập chùng Ngũ-Hổ sườn Tây Bắc
Bão tố trùng khơi cũng chẳng sao
 
Hà-Tiên còn mãi nét hoang sơ
Du khách về thăm ắt chẳng ngờ
Chiêm ngưỡng Châu-Nham, vùng Đá-Dựng
Lạc vào tiên cảnh, tưởng như mơ
 
Rêu phong cửa động thêm u tịch
Thạch nhũ muôn mầu lóng lánh soi
Tiếng gió vi vu lời cổ tích
Cung đàn giọt nước nhịp nhàng rơi
 
Tích chuyện, Thạch-Sanh chàng dũng sĩ
Ra tay hào hiệp giúp cho đời
Nơi đây đá núi hình kỳ dị
Phảng phất hình dung bóng dáng người

Lưng chừng núi, có hang xuyên trống
Gió thổi mây trời hun hút qua
Mang biệt danh “Thôn-Vân Thạch-Động”
Nghĩa là: “Hang đá nuốt mây sa”
 
Hà-Tiên, gái đẹp quê Hòn-Trẹm
Cát trắng màu da,  rám má hồng
Cốt cách ngư nhân, thường biến hiện
Tìm em, đêm cứ đến Hòn-Chồng!
 
Vàng son nét sử, đất Hà-Tiên
Đoàn Nghĩa quân hơn trăm chiến thuyền,
Theo tướng Nguyễn-Trung-Trực  chống Pháp
Mật khu Ba-Trại núi Hang-Tiền
 
Nguyễn-Ánh một thời đã ẩn thân
Sau Hòn-Phụ-Tử dưỡng nuôi quân
Hà-Tiên chốn “địa linh nhân kiệt”
Triều Nguyễn tự nơi đây xuất trần.
 
Giang sơn cẩm tú Nước non ta
Bắc Việt vang danh Đảo-Cát-Bà
Nam Việt có Hà-Tiên thắng cảnh
Sánh bằng ngọc bích giữa phù sa
 
Lưu lạc tha phương đến chốn này
Hà-Tiên ơi hỡi!...nhớ nhung thay!
Một mai ta sẽ về Hòn-Trẹm
Liệu có còn “Hang đá nuốt mây”?
 
TRẦN QUỐC BẢO
Richmond, VA.

Tôi đi mổ tim

Nguyễn Đức Trọng

Lưu ý: Bài viết chỉ nhằm chia sẻ một kinh nghiệm để đời khó mà quên, cùng góc độ nhìn chứ không nhằm chữa bệnh.

Ngày đi mổ, giờ hẹn là 7 giờ sáng nhưng bệnh viện yêu cầu đến sớm hai tiếng để làm thủ tục. Kết quả là phải để đồng hô báo thức lúc 3 giờ sáng hầu có đủ thời giờ mà tập thể dục, tắm xà phòng như bác sĩ mổ yêu cầu, không sức dầu thơm, không xoa kem dưỡng da, rồi xoa “antibiotic ointment” trên môi và trong mũi trước khi rời nhà, v.v. Nhóm bác sĩ mổ tim của bệnh viện Inova Fairfax Hospital đã viết xuống giấy, dặn dò cẩn thận mọi chuyện cũng như đưa cho một quyển cẩm nang để bệnh nhân và người nhà an tâm trong ca mổ, cũng như hiểu rõ mọi giai đoạn từ các chứng bệnh về tim, việc chữa trị, thời gian bình phục, thực đơn nên theo sau khi mổ, xác suất khỏi bệnh, xác suất tử vong, v.v.

Bệnh viện yêu cầu có ít nhất một thân nhân đi theo để có gì còn làm quyết định thay cho bệnh nhân. Phần tôi chỉ có cô hàng xóm đi theo, những bệnh nhân khác được cả ba, bốn người đi tháp tùng cho lên tinh thần. Tôi không lo lắng với kết quả vụ mổ vì đã chấp nhận, nhưng cô hàng xóm chắc chắn là lo đến mất ăn mất ngủ cả tháng qua, vì tôi từ chối không chịu đi mổ liền sau khi bác sĩ khám phá là tôi bị nghẹt 100% trên hai mạch chính (main artery) đưa máu trở về tim. Chưa kể vẫn đi du lịch, dù bác sĩ khuyên ở nhà. Mạch bên phải quả tim bị nghẹt làm thiếu máu cung cấp cho hai lá phổi và đó là lý do hay bị ho, sưng phổi, bị ách xì mổi khi khí hậu thay đổi, hơn xa một người bình thường. Bên trái mạch trước quả tim bị nghẹt khiến toàn bộ cơ thể bị ảnh hưởng.

Sau khi làm các thủ tục giấy tờ xác định tôi đúng là bệnh nhân của ca mổ tim, tôi được cho vào ngồi trong phòng chờ để y tá cân đo và hỏi đủ mọi chuyện liên quan đến sức khỏe. Các bác sĩ, y tá trong nhóm mổ lần lượt xuất hiện và đến bắt tay cùng tự giới thiệu. Bác sĩ trưởng nhóm mổ thông báo cho biết là với các hình chụp quang tuyến mới nhất, chụp hai ngày trước, cho thấy là ngoài chuyện hai mạch máu bị nghẹt, quả tim của tôi lại có một bọc trắng chứa nước khá to nằm che phía trước. Do đó trước khi làm câu dẫn cho hai mạch máu bị nghẹt, một bác sĩ tim khác sẽ phải cắt và lấy đi cái bọc trắng đó (heart cysts). Thời gian mất thêm cho vụ mổ có thể là 15 phút. Hỏi ra mới biết là cái bọc trắng đó là do bẩm sinh, không phải ai cũng có. Nếu không có vụ mổ tim, bác sĩ có thể chỉ châm kim vào và rút nước trong bọc ra là xong. Nay nhân ngực được mở, bác sĩ sẽ cắt bỏ cái bọc đó luôn và thử nghiệm xem có bị ung thư hay nhiểm trùng gì chăng.

Tôi chỉ nhớ đến đây với câu chuyện chờ đợi mổ vào buổi sáng. Khi mở mắt ra thì thấy cô hàng xóm đang đứng trước mặt và quơ tay qua lại hỏi tôi có biết ai đây không. Tôi tức cười quá bảo là cô chứ ai. Sau đó y tá xuất hiện cho biết là ca mổ của tôi đã xong với kết quả rất tốt, cho biết là tôi đang ở phòng hồi sinh (ICU), rồi hỏi tên tôi với ngày sinh, và có biết là tôi đang ở đâu không. Đây là họ muốn kiểm lại là trí nhớ của tôi có bị ảnh hưởng chi không với thuốc mê trong vụ mổ. Thấy tôi trã lời rõ ràng mọi câu hỏi, họ an tâm cho tôi nước uống, đắp thêm mền ấm như tôi yêu cầu. Họ cho biết là nếu tình trạng tiến triển khả quan, tôi sẽ được chuyển ra phòng bình thường nhưng rộng hơn vào tối nay.  Phòng ICU thì một y tá trông nom cho một bệnh nhân 24/24, ngoài phòng thường thì một y tá trung bình trông 6 bệnh nhân hay hơn.  Để theo dõi tình trạng bệnh nhân mới mổ, tôi sẽ phải nhịn ăn cho đến sáng mai, uống nước thì được. Vì thấy tôi đã tỉnh, không có quờ quạng chi, nên hai bàn tay của tôi được tự do, không bị buộc chặt xuống giường như vài bệnh nhân khác. Họ chỉ yêu cầu tôi nằm yên tại chổ, cần chi thì bấm nút gọi y tá, ngay cả chuyện tiêu tiểu.

Cô hàng xóm tiếp lời cho biết là tôi được đưa vào phòng mổ lúc 7 giờ hơn chút, và đến 10 giờ 30 thì cô y tá trong phòng mổ gọi ra cho biết là ca mổ thành công, chỉ mất có tổng cộng ba tiếng rưỡi, thay vì từ 4 đến 6 tiếng như dự tính. Họ sẽ đưa tôi ra phòng ICU, sau khi đóng lại vết mổ và lau chùi sạch sẽ. Hỏi tôi cảm thấy thế nào, tôi cho biết là ngực thì hơi đau nhưng không đến nổi phải la làng, chỉ có hơi khó chịu vì thấy ống cắm đầy người cùng các vết băng. Cô y tá cười và cho biết là tôi phải chịu như vậy trong những ngày ở bệnh viện chờ hồi phục. Nhưng sẽ được tháo bỏ ra từ từ trong vài ngày sắp tới.

Nhân dịp cô y tá rảnh rang và trông cô vui vẻ trã lời các câu hỏi, tôi bèn hỏi thăm về từng vết băng trên người cùng những giây ống hiện đang nối đầy người. Nhờ vậy tôi mới liên kết được việc mổ tim của tôi, cũng như ý nghĩa của của chữ “open heart surgery” là thế nào. Khi một mạch máu của tim bị nghẹt, nếu chỉ nghẹt từ 40 đến 60% thì bác sĩ sẽ cho bệnh nhân uống thuốc loảng máu và trợ tim, cùng khuyến cáo cải thiện việc ăn uống như ăn ít đi, bớt lượng thịt đỏ, dầu mở, v.v. Nếu nghẹt từ 60% đến 80%, thì khi làm soi tim thử nghiệm, bác sĩ sẽ bơm bong bóng làm thông nơi bị nghẹt và sau đó đặt vào một vòng xoắn (stent) hầu giúp mạch máu nơi đó vững chắc hơn. Còn nếu mạch máu bị nghẹt từ 80% đến 100% thì phương pháp chữa trị duy nhất hiện nay được hiệp hội y khoa chấp nhận là dùng 1 tỉnh mạch khác trong người để câu dẫn cho máu đi vòng qua chổ bị nghẹt (by-pass surgery).

Xin mở ngoặc ở đây để nói về một phương pháp mới làm thông mạch tim dù đã bị nghẹt 100%. Phương pháp mới này do trường đại học y khoa Boston đề xướng. Họ chuyền vào máu một loại thuốc làm mềm phần bị nghẹt. Sau đó dùng các dụng cụ thông tim đi đến nơi bị nghẹt và dùng một mũi khoan xuyên qua, rồi rút các chất dơ làm nghẹt ra khỏi mạch máu. Sau đó chỉ việc đặt vòng xoắn (stent) vào đó là xong.  Một bệnh viện vùng Florida đã thử nghiệm và thành công với 6 bệnh nhân, nhưng khổ cái là phương pháp này vẫn chưa được chuẩn nhận với hội y khoa Hoa Kỳ. Mà chạy đi xuống Florida xin được làm vật thí nghiệm với phương pháp này cũng quá khó khăn cho một người ớ xa, nên tôi chào thua.

Nếu nơi bị nghẹt nằm ở trên một mạch không quan trọng, ví dụ như chỉ một hoặc hai nơi ở mạch bên phải, bác sĩ giải phẩu có thế áp dụng phương pháp giải phẩu vi tiểu để câu thông mạch máu bằng nhưng dụng cụ thật nhỏ đi kèm với thâu hình. Trong trường hợp này, bác sĩ không cần cắt mở lồng ngực bệnh nhân, không cần cho tim phổi ngừng đập, mà chỉ cần soi ba hay bốn lổ nhỏ chung quanh khu vực tim bị nghẹt mà thôi. Như vậy thời gian vết mổ được lành và sức khỏe phục hồi sẽ thật nhanh.

Trường hợp của tôi vì hai nơi bị nghẹt đều năm trên mạch chính, một bên phải và một bên trái, bác sĩ cho biết là không thể nào áp dụng giải phẩu vi tiểu được mà phải áp dụng phương pháp thông thường là họ sẽ cưa xương giữa hai lồng ngực, rồi banh ra (giống như chúng ta đội chiếc xe lên lúc thay bánh xe vậy), để có thể thấy quả tim rõ ràng. Sau đó, máu sẽ được rút hết ra cho vào một bình chứa, cùng lúc các mạch máu trong người sẽ được nối vào một cái máy “heart and lung machine” sẽ bơm một dung dịch thay thế máu và khí oxy nuôi dưỡng các bộ phận khác trong người như bộ óc, thận, gan, v.v. Còn quả tim và phổi thì được cho nằm yên để bác sĩ dùng một tỉnh mạch cắt dưới chân đem lên để câu thông qua nơi bị kẹt. Nhờ có cái máy “heart and lung machine” này, cùng việc để quả tim và phổi bất động, việc câu thông mạch máu của quả tim trở nên dễ dàng, ít có tai nạn xãy ra bất ngờ đưa đến chuyện xuất huyết, kích tim, đứt mạch máu não, v.v. và đưa đến tử vong. Đó là chưa kể việc gây mê đã được dùng một liều nhẹ hơn và liên tục thẳng vào máu, thay vì một lần thật nhiều khi bắt đâu mổ rôi thôi, đã khiến nhiều bệnh nhân yếu trong người đã ngủ luôn không dậy nữa. Mặc dù bác sĩ mổ cho biết xác suất tử vong là 1%, nhưng theo thống kê thì con số đó thấp hơn nhiều. Có thể còn thấp hơn một phần ngàn.

Sau khi đã làm xong việc câu dẫn mạch máu, dung dịch nước biển cùng các ống nối trên người bệnh nhân sẽ được rút ra. Máu sẽ cho chạy vào trở lại. Tim và phổi sẽ được kích thích cho đập trở lại từ từ như bình thường. Khung xương lồng ngực được cho về lại vị trí cũ, bác sĩ sẽ dùng một sợi dây kim loại để nối sát hai khung xương lại với nhau, cùng dùng một loại keo đặc biệt giữ chặt hai khung xương và kích thích xương tăng trưởng cho mau lành. Sợi dây kim loại này (sternal wires) không có phản ứng với máy báo động nơi kiểm soát an ninh ở phi trường, vậy các bạn đừng lo nha. 🙂

Nhìn vết mổ nơi ngực dài chừng 20cm, tôi thấy cũng hơi ớn, nhưng lạ là không thấy vết may hay băng lại gì hết. Cô y tá cho biết vết may nằm ở bên trong nên không tạo thành vết sẹo lớn như trước. Ngoài ra, nhờ môi trường trong bệnh viện trong sạch, vết thương không cần băng lại và như vậy sẽ mau lành hơn. Bên dưới vết mổ, tôi thấy có ba cái ống đường kính chừng 15mm đi vào trong người, cô y tá cho biết đó là ba ống hút giúp đưa ra ngoài những huyết dịch, huyết tương chảy ra từ các vết mổ, cắt vá bên trong người. Ba cái ống này thật làm phiền tôi, vì vướng chúng bệnh nhân không thể nào hít vào cho đầy phổi, hoặc thở bụng nếu muốn. Nhìn thấy ống câu thông nước tiểu, cô y tá cho biết đó là thủ tục bình thường để tránh bệnh nhân đái văng tung tóe trong phòng mổ, trong lúc ai nấy đều bận không có thời giờ lau chùi. Ống thông nước tiểu này sẽ được rút ra vào hôm sau, bệnh nhân cần uống nước cho thật nhiều để có thể đi tiểu trở lại như bình thường trong vòng 6 tiếng, vì nếu không họ sẽ gắn trở lại và uống thuốc thông tiểu thêm vài ngày nữa.

Ngày thứ nhất sau khi mổ, tôi chỉ nằm trên giường và không được ăn gì. Qua ngày thứ hai, họ bắt đầu cho ăn nhẹ, và bắt tôi phải ra ghế ngồi,  cùng khuyến khích đi bộ chung quanh tầng lầu. Ngày thứ ba, họ chỉ cách leo thang lầu sao cho an toàn, và gia tăng số vòng đi bộ, cùng lúc ăn uống nhiều hơn. Chiều tối ngày thứ tư, y tá làm thủ tục cho tôi về lại nhà, sau khi giúp tôi tắm rửa và chỉ dẫn cách lau chùi các vết mổ khi về nhà. Tôi phải tắm và lau chùi các vết thương mỗi ngày một lần. Các khăn lau và quần áo đều phải thay mới hàng ngày. Hôm cuối, có nhân viên thể dục (physical therapist) vào chỉ dẫn tôi cách tập thể dục giới hạn khi phải nằm trên giường.

Khi đang viết bài này, tôi đã về nhà được 6 tuần, xin viết tóm tắt để chia sẻ kinh nghiệm qua thời gian hồi phục.

Sau khi mổ tim, chắc chắn là ai cũng được khuyến cáo là cần phải theo cách ăn uống cho một quả tim tốt lành (Healthy Heart Diet), và phải uống kèm vài thứ thuốc như thuốc loảng máu (Aspirin 81mg chẳng hạn), thuốc điều hòa máu, thuốc tan mở, v.v. Sau một thời gian, tùy theo tình trạng tiến triển của bệnh nhân, các loại thuốc này được giảm hoặc bỏ hẳn.

Tuân lễ đầu tiên về nhà, chắc chắn rất là khó khăn cho bệnh nhân vì cử động chi cũng đều làm đau ngực, mặc quần áo cũng khó, làm bếp cũng không xong, khiêng vật chi nặng hơn 3 pounds cũng không cho, v.v.  Cho nên việc cần người thân, hay thuê người phụ giúp, hay vào ở trong Rehab Center là điều cần thiết.

Từ tuần thứ hai trở đi là đở hơn vì đã quen dần, nhưng bệnh nhân cũng cần tránh việc khiêng nặng, các hoạt động nặng nề như cắt cỏ , làm vườn, v.v.

Sau khi mổ tim, việc tập thể dục cũng bị giới hạn, các bác sĩ tim cũng như như các chuyên viên thể dục đều khuyến cáo bệnh nhân nên đi bộ càng nhiều càng tốt. Mỗi ngày từ 2 đến 3 dặm (3 đến 5km). Dĩ nhiên đi dưới trời nắng ấm thì càng tốt hơn nữa.

Đối với cá nhân tôi, việc ăn uống kiêng khem, làm việc và tập thể dục bị giới hạn cũng không có chi khó khăn. Việc duy nhất làm tôi mệt nhất là chuyện chỉ được nằm ngữa mà ngủ. Bác sĩ khuyến cáo là không nên nằm nghiêng, lý do là cần chờ cho hai khung xương sườn lành lặn trở lại. Việc trở mình, khiêng nặng có thể sẽ làm cho hai khung xương bị lệch, cần phải điều chỉnh, và làm thời gian phục hồi lâu hơn. Mà thời gian cần thiết cho hai khung xương nối liền trở lại là từ 6 đến 12 tuần. Mỗi tối nhiều khi tôi chỉ ngủ được hai hay ba tiếng rồi thức luôn, vì nằm nhiều quá nóng lưng còn khổ hơn. Để qua thời giờ, tôi quay ra tập Thiền, hay đi bộ vòng quanh trong phòng. Thật khổ cho ai phải ngủ cùng phòng. Ngoài ra, thuốc gây mê Anesthesia đôi khi làm cho bệnh nhân cảm thấy lạnh hay nóng bất thường, ngược lại với thời tiết, và việc này có thế kéo dài từ một đến hai tháng.

Do việc khung xương sườn cần ít nhất là từ 6 đến 12 tuầm mới lành lặn, bác sĩ mổ tìm khuyên bệnh nhân không nên lái xe trong vòng 6 tuần. Mỗi khi đi đâu thì chỉ nên ngồi ở băng ghế sau. Lý do là khung xương ngực còn yếu, mà lỡ có tai nạn xe cộ xảy ra cái túi hơi (airbag) bung ra có thể đập mạnh vào ngực làm cho khung xương bị lệch dễ dàng.

Việc xuống cân chắc chắn là không tránh khỏi đối với những người hơi nặng cân. Nhất là khi áp dụng cách ăn theo đề nghị Healthy Heart Diet, cùng lúc uống thuốc tiêu mở. Đến nay tôi đã sụt 20 pounds, sau 6 tuần. Còn một người giám đốc trong sở của tôi đã sụt tổng cộng là 35 pounds. Ông ta đã cảm thấy khỏe hơn thật nhiều so với trước, làm việc dai sức hơn, v.v.

Chắc các bạn cũng hiếu kỳ muốn biết phí tổn của việc mổ tim này là bao nhiêu. Ba tuần sau khi về nhà, tôi nhận được bản báo cáo của hãng bảo hiểm cho biết phí tổn mà họ đã thanh toán với nhà thương là $70,000.  Tôi và bạn hữu đều ngạc nhiên là sao rẻ quá. Vì so với vài người quen cũng mổ tim ở Cali, phí tổn đã gần gấp ba. Đây là không tính các chi phí đến việc soi tim trước đó. Dĩ nhiên phí tổn cho việc cấp cứu một người bị kích tim (heart attack) cần xe cứu cấp chở vào bệnh viện, rồi phải làm soi tim, rồi tìm một nhóm bác sĩ tim làm ca mổ khẩn cấp, tổng số tiền chắc chắn là vượt qua con số $100,000 dễ dàng. Tùy theo bảo hiểm sức khỏe mà mổi người đã chọn, bệnh nhân đôi khi chỉ phải trã 10%, 20%, hay 50% tổng số phí tổn.

Vài dòng chia sẻ tin tức về vụ mổ tim cùng các bạn, cầu mong mọi người đều dồi dào sức khỏe, không phải trãi qua một cuộc giải phẩu tim như tôi.  Mà nếu có, thì cũng không có chi quá lo.
Nguyễn Đức Trọng
Virginia, 12/12/2016

Căn bịnh … bỏ quên

Nguyễn Đức Trọng

Giong bác sĩ B. thật trong và rõ ràng “Kết quả của việc soi tim cho thấy hai trong ba mạch máu chính đưa máu về tim của ông đã bị nghẹt 100%.  Để chữa trị tình trạng này, chúng tôi đề nghị là cần giải phẫu tim để câu thông hai mạch máu này”.

Dù y tá lúc này đã chỉ cho tôi hai chổ bị nghẹt trên đó hình, tôi vẫn muốn biết thêm là nguyên nhân vì đâu tôi vẫn không cảm thấy chị sức khỏe thay đổi, ngoài chuyện bị rang ngực mỗi khi đi bộ nhanh hoặc lên dốc sau khi ăn.

Bà bác sĩ B. cho biết là do nhờ mạch máu bên trái còn lại hoạt động tốt nên tạm bơm đủ máu với oxy cho các cơ tạng.  Ngoài ra, nhờ trái tim tự động tạo vài đường nối nhỏ li ti, câu dẫn qua hai nơi bị kẹt nên tôi chưa cảm thấy khác biệt bao nhiêu.

Bác sĩ B. giải thích thêm là nếu mạch máu chỉ bị nghẹt 60% đến 80%, bà có thể dùng bong bóng làm thông nơi bị nghẹt và sau đó gắn “stent” vào giúp cho mạch máu nơi bị nghẹt vững chắc hơn.  Nhưng khi bị nghẹt trên 90% thì phải nối mạch máu để câu vòng qua nơi bị nghẹt (heart by-pass surgery).

“Với tình trạng như vậy, còn có giải pháp khác không? Trong tương lai có còn bị kẹt nữa không?”

Bác sĩ B. cười trả lời là việc câu nối mạch máu bên ngoài chỉ là cách giải quyết tình trạng hiện tại mà thôi, không bảo đảm chuyện lại có thể bị nghẹt mạch máu trong tương tương lai.  Đó là chưa kể việc tôi phải uống thuốc giúp máu lưu thông điều hoà hơn suốt đời.  Nghe câu trả lời là phải uống thuốc suốt đời làm tôi nản quá chừng.  Ráng hỏi thêm một câu nữa “Chuyện gì sẽ xảy ra nếu tôi không chịu giải phẫu, và cố gắng thay đổi cách ăn, cũng như sinh hoạt”.  Bác sĩ B. kiên nhẫn trả lời “Tim của ông hiện tại vẫn hoạt động tốt, sức khỏe của ông vẫn bình thường, việc thay đổi ăn uống, sinh hoạt chỉ là giúp các mạch máu còn lại không bị nghẹt.  Dù vậy, hai mạch máu bị nghẹt vẫn không thể nào tự thông trở lại.  Trong tương lai nếu có bị kích tim (heart attack) thì đó sẽ là một trận kích tim thật nặng (major heart attack).”

Việc phải làm quyết định mổ hay không mổ, đúng là khổ cho chúng tôi.  Bác sĩ thì muốn thực hiện càng sớm càng tốt, trong vòng vài tuần.   Chúng tôi xin phép được thảo luận riêng với nhau trước khi trả lời . Để chúng tôi có thể cân nhắc kỹ hơn, bác sĩ B. cho biết là theo thông kê trước nay, sác xuất tử vong của việc mổ tim câu dẫn mạch máu là rất nhỏ, chỉ có 1%. Sác xuất người bệnh cảm thấy khoẻ và tốt hơn sau khi mổ là 95%.

Thật tội nghiệp cho cô hàng xóm phải bỏ làm đi theo tôi và ngồi nghe những tin tức không tốt lắm về sức khỏe của tôi.  Vừa mệt mỏi, nhức đầu về sức khỏe của bà già, sức khỏe của chính bản thân, nay lại phải gánh thêm viễn vọng không khá được về chữa trị, thời gian hồi phục cho trái tim không ngủ yên của tôi.

***
Chuyện bị rang ngực, làm soi tim, khám phá bị nghẹt hai mạch máu xảy ra chừng hai tháng nay, vừa làm tôi mệt với những buổi hẹn đi gặp bác sĩ, làm thử nghiệm, v.v. Đó là chưa kể tìm đọc qua Internet, sách vở về hoạt động của quả tim, cách ăn uống đểtránh mạch máu bị nghẹt có thể dẫn đến việc bị kích tim (heart attack), xuất huyết não (stroke), chân cẳng tê liệt, v.v.  Tôi cũng có dịp hồi tưởng lại suốt quá trình cuộc sống của mình đã qua, nhất là từ ngày bước vào ngưỡng cửa trung học.

Từ ngày con nhỏ, tôi ăn uống rất nhiều kẹo bánh đủ thứ hết, nhưng lại rất ít ăn rau cỏ.  Mãi đến học lớp Đệ Tam, mới nhận sự sai lầm, tôi mới bắt đầu tập ăn nhiều rau cỏ hơn.  Một phần vì hoạt động, thể dục nhiều, tôi vẫn chưa bỏ được thói quen ăn uống nhiều, thường là gấp đôi thiên hạ.

Lúc ở Đà Lạt, theo học CTKD, tôi đã cảm thấy ngực bị rang khi phải đi bộ trở về nhà, hay leo dốc từ đường Phan Đình Phùng lên đường Hàm Nghi nơi nhà thờ Tin Lành, sau những bữa cơm tháng từ quán Bà Duyên.  Đoạn đường dốc này chỉ cao chừng 15-20m, nhưng tôi phải đứng nghỉ ít ra là hai lần, nữa chừng và đầu dốc, cho tim đập lại bình thường.  Hôm nào may lắm thì gặp anh bạn Đoàn Đình Hồng và ông Trung Úy Thành làm ở Toà Tỉnh ăn chung.  Sau đó là được ông Thành cho đi ké xe Jeep về nhà.  Con chuyện đi hai đoạn đường dốc liên tục từ đường Phan Đình Phùng băng lên Hàm Nghi, rồi từ Hàm Nghi leo dốc chùa Linh Sơn lên đường Võ Tánh là tui tránh. Suốt 4 năm học, tui chỉ dám đi bộ một lần duy nhất đoạn đường này rồi thôi.

Vì thấy tôi bị rang ngực mỗi khi leo dốc sau bữa ăn, bà má nuôi liền kéo tôi đi gặp bác sĩ Cát, một chuyên gia về mắt và tim ở Saigon, để thử nghiệm “điện tâm đồ” cũng giống như làm “stress test” bây giờ ở Mỹ. Bác sĩ Cát cho biết là tôi có vấn đề với tim và chỉ khuyên là tôi cần ăn uống kỹ lưỡng hơn, cũng như cần tập thể dục thường xuyên.  Ông chẳng cho uống thuốc gì cả. Năm sau 1974, nghe tiếng bác sĩ Võ Sum, tôi đến để ông khám và cho ý kiến.  Ông bảo tôi chạy thử tại chỗ trong 5 phút, khám tim và đo áp huyết cẩn thận.  Ông cho biết là dù tim có kém hơn bình thường, nhưng nếu tôi điều độ và tập thể dục thường xuyên sẽ không có vấn đề. Nghe thế là tôi hân hoan ra về, nghĩ rằng chuyện tập thể dục là không có gì phải lo vì tôi thường tập thể dục nhiều hơn ai hết, còn chuyện ăn uống thì cố gắng ăn nhiều rau hơn là xong.

Rồi cơn bảo dữ với làn “sóng đỏ” tràn ngập miền Nam VN đã làm tôi trôi giạt nửa vòng trái đất.  Mãi lo làm việc, kiếm sống, lâu lâu rảnh thì lang thang đó đây, tôi quên bẵng và không còn nhớ đến chuyện rang ngực hay đau tim gì hết.

Bây giờ ngồi nhìn lại mình và các tài liệu, tôi mới nhận ra lý do tại sao tôi dễ thấm cái lạnh hơn người khác.  Đó là vì cái mạch tim chính bên phải bị yếu hay bị nghẹt, nó là nguồn cung cấp máu giàu khí oxy cho hai lá phổi.  Những khi vô ý, tôi thường hay bị sưng cuống phổi vào mùa thu, mùa đông và ho dai dẳng cả vài tuần mới hết. Mạch máu chính bên trái của tim, chia ra làm hai, và hai nhánh này cung cấp cho tất cả mọi nơi trong cơ thể.  Hiện tại thì nhánh bên phải chạy phía trước quả tim bị nghẹt.  Tóm lại là số lượng máu cung cấp cho quả tim hiện tại của tôi chỉ đạt tối đa là từ 40% đến 60%.  Có thể đây cũng là lý do tôi thường chậm chạp trong mọi chuyện, từ cách suy nghĩ, phản ứng, và làm việc.  Cô hàng xóm khi nghe tôi phân tích các chuyện này, nàng cười và phán “… đây là tại ông yêu nhiều quá nên tim mới ra cớ sự!”

Chuyện nghẹt mạch máu dù đa số là do việc ăn uống, các chất dơ trong máu hội tụ lại với nhau, rồi đóng lên thành vách và làm nghẽn sự lưu thông của máu. Ngày còn trẻ, sức khỏe dồi dào, chúng ta lướt qua dễ dàng. Đến khi lớn tuổi, mạch máu trở nên cứng dòn, nhỏ lại, thì việc bị nghẹt rất dễ xảy ra.  Mạch máu cũng có thể bị nghẹt do sự thay đổi về thời tiết, như từ trong nhà nóng đi ra ngoài trời lạnh, hay từ nơi có máy điều hòa đi ra và gặp cái nóng gay gắt bên ngoài.  Hoặc trong lúc tắm chẳng hạn, sự thay đổi nhiệt độ quá nhanh đã làm mạch máu thắt lại bất ngờ và không có người biết mà báo động để cứu cấp. Tôi đã có vài người quen lăn đùng ra chết sau vài hiệp đánh tennis, đang làm vườn ngoài sân, hoặc trong giấc ngủ.  Ngoài ra sự thay đổi đột ngột về cảm xúc cũng có thể làm mạch máu thắt lại đưa đến kích tim, như gặp chuyện quá vui hay quá buồn. Từ ngày còn nhỏ, tôi để ý mỗi lần đọc truyện hay xem phim đến đoạn quá vui hay quá buồn là tôi nghẹn lời, không nói được, hay lạc giọng. Những lúc như vậy, tôi thường nhắm mắt, hít thở vài hơi chậm và sâu, giọng nói mới trở lại như bình thường.  Do đó tôi rất ngại khi phải tranh luận với ai về bất cứ vấn đề gì.

Theo thống kê mới nhất của Mỹ, số người chết hàng năm do những chứng bệnh liên quan đến tim là 25% trong tổng số.  Có nghĩa là cứ bốn người chết thì có một người chết vì bệnh liên quan về tim.  Đọc thấy cũng dễ sợ thiệt!

Từ nhỏ tôi đã ngại các chuyện mổ xẻ, lúc nào cũng có gắng tự chữa bệnh qua cách tập thể dục đều đặn, ăn nhiều rau cỏ, lâu lâu lại làm thanh lọc, v.v. Đã vượt qua đoạn đường dài hơn 40 năm, không ngờ này lại vướng phải cái màn nghẹt mạch máu. Trước khi làm soi tim, tôi chỉ mong là nghẹt sơ sơ để có thể đặt “stent” vào, nhưng không ngờ là đã nghẹt cứng. Cách giải quyết hiện nay tại những bệnh viện đều là đề nghị làm “heart by-pass surgery”, không còn lựa chọn nào khác.

Trong thời gian một năm gần đây, trường đại học Boston đã nghĩ đến một phương pháp uống thuốc làm mềm cục máu đông vào ngày hôm trước, ngày hôm sau sẽ cho đường giây soi tim hút bớt phần nào cục màu đông trước khi đi xuyên qua, rồi hút hết phấn màu đông còn lại, rồi đặt “stent” vào đó.  Họ đã thử nghiệm thành công vào tháng 4/2016 với 6 bệnh nhân, và hình như hiện nay chỉ có một bệnh viện vùng vịnh Mexico thuộc tiểu bang Florida được phép của FDA thực hiện các cuộc phẫu thuật loại này.

Mỗi người có một lối sống, một cách nhìn khác nhau, nên cùng sự việc mọi người lại có một ý kiến khác nhau.  Chẳng ai giống ai, và ai cũng có cái lý của mình. Tôi có mấy đứa em họ và người quen, đã ra đi lúc đang ngủ do bị kích tim và xuất huyết não, người thân còn sống kẻ thì than buồn, kẻ thì phán là sao nó sướng quá, ra đi mà chẳng phải bị đau đớn, hành hạ trên giường bệnh như nhiều người khác đã bị tê liệt cả nữa người bên dưới, sống khổ sở cả năm trời mới được chết, và làm khổ luôn cả mọi người chung quanh. Có ông bạn già sau khi mổ tim, làm 5 đường nối, làm xong thì than quá trời, đi đâu xa cũng không được và ngực lúc nào cũng đau lâm râm. Còn có tên giám đốc trong sở, nhờ đi chích ngừa trước khi qua Phi Châu leo núi, gặp người bác sĩ quen cho làm thử nghiệm thì mới hay là có 5 nhánh nhỏ bị nghẹt từ 90% trở lên.  Thế là anh chàng xin được mổ luôn, bây giờ thì phơi phới đi chơi, khoẻ hơn trước khi mổ. Còn những người được thông tim đặt “stent” hay được mổ tim làm đường câu dẫn trong lúc bị ngất xỉu được đưa vào phòng cứu cấp, chúng ta có thể xem như là họ đang trên đường đi đến “suối vàng”, nhưng vì nợ trần gian chưa dứt nên được cho phép quay về trả tiếp.

Sau khi cân nhắc mọi chuyện, từ trong ra ngoài, tôi quyết định là sẽ làm mọi chuyện như các bác sĩ đề nghị vào cuối tháng 10/2016, sau chuyến đi họp mặt với bạn học cùng trường ở miền Nam Cali. Các bạn có nghĩ đến tôi, chỉ xin vài phút nhắm mắt lại và gởi đến tôi những lời chúc lành qua tư tưởng là đủ lắm rồi. Trước giờ chúng ta cứ bị giới hạn với vật chất, hôm nay tạm dùng phương pháp “thần giao cách cảm” một chút cho vui.

Nguyễn Đức Trọng
tdnguyen97266@yahoo.com
Virginia 9/2016

Xuân Xa Lạ

Trần Quốc Bảo
Tôi đi lang thang
Trên đường phố lạ
Ở đây xuân về
Tuyết rơi trắng xóa
Đất trời che mặt ngủ yên
Nét chì xám hai hàng cây trụi lá
Vẽ đường vào công viên
Những hạt mưa bụi và những giọt sương
Đọng trên giây điện
Lấp lánh đèn vàng như xâu chuỗi kim cương
Miệng cống bốc hơi
Mái nhà quyện khói
Hàng xe phủ tuyết nằm bên đường
Riêng có con chim cardinal đỏ chói
Đậu trên vai tượng đá
Chia lạnh xẻ buồn với kẻ tha hương
Gió hun hút từng cơn buốt giá
Đem xuân đi khắp nẻo đường
Trải rét mướt trên mặt hồ đông đá
Ẩn mơ hồ trong tơ khói vấn vương
Xuân về đây – không hoa không lá
Vạn vật thờ ơ
Xuân xa lạ
Khách phong sương chợt thấy dạ bồi hồi
Xuân ơi ! xuân
Từ lâu đã mất xuân rồi
Bao giờ xuân thắm quê tôi trở về?
Trần Quốc Bảo
Richmond, Virginia