Phạm Doanh
Nguyễn công Trứ sau này mới nói rõ: “xưa nay xuất xử thường hai lối “. Nhưng trước đó Nguyễn Trãi chắc chắn đã từng biết rõ hơn ai hết , khi người cha của mình là Nguyễn phi Khanh đã viết trong “Thanh hư động kí 清虛洞記”: vào ngày giáp tí, tháng chạp, năm Xương-phù thứ tám (1384), tại làng Nhị-khê :
Hiền đạt giả chi xuất xử, kỳ động giả dĩ thiên, kỳ lạc dã dĩ thiên. 賢達者之出處,其動也以天,其樂也以天 (Trong việc “xuất”, “xử” của kẻ hiền đạt, thì “xuất” là để hành động theo lẽ trời, “xử” là để tìm thú yên vui, cũng theo lẽ trời.) và rồi trong đoạn kết :
“ Nhược phù đại thần nhất thân tiến thoái hệ quốc khinh trọng, tắc quân tử cố hữu chung thân chi ưu, phi nhược bỉ phu chi sự quân giả, ký hoạn đắc hựu hoạn thất, kỳ đắc dã, thụ du hiến nịnh, vô sở bất vi; kỳ thất dã, phất nhiên viễn khứ, tâm hoài ương ương. Thử ô túc trí xỉ ư hiền đạt xuất xử chi luận da? 若夫大 臣一身進退繫國輕重,則君子固有終身之懮,非若鄙夫之事君者,既患得又患失,其得也,售諛獻佞,無所不為;其失也,艴然遠去,心懷怏怏。此烏足置齒於賢達出處之論耶 ( Ôi! Thân phận một kẻ đại thần, khi tiến, khi lui, đều có quan hệ với vận mệnh của nước nhà, cho nên người quân tử vẫn ôm mối lo suốt đời, nào phải như kẻ bỉ phu thờ vua, đã lo được lại lo mất, khi được thì a dua, nịnh hót, chẳng việc gì là chẳng làm; khi mất thì hất hủi bỏ đi, trong lòng hậm hực. Như vậy, sao đáng cùng họ mà bàn việc “xuất” và “xử” của người hiền đạt được?)
(Theo TRẦN LÊ SÁNG, trong Thơ văn Lý Trần, Tập 3, nhà Xuất bản Khoa Học Xã hội, Hà nội, 1977, pp 494 et suiv.)
Vậy Nguyễn Trãi đã Xử như thế nào và Xuất ra sao? Qua thơ văn và hành trạng đời ông, ông đã chứng tỏ đã hoà hợp hai ngả : khi xử có xuất và khi xuất có xử. Ông đã thực hành các phương châm :
A. Thân cư sơn lâm, tâm tại ngự khuyết. [* Miếu đường 廟堂 : thời xưa, cửa bên ngoài cung. Trang Chu 莊周 trong Nam Hoa Kinh 南華經 thiên Ngoại thiên 外篇, chương Tại hựu 在宥 : “ Cố hiền giả phục xử đại sơn khàm nham chi hạ, nhi vạn thặng chi quân ưu lật hồ miếu đường chi thượng 故賢者伏處 大山嵁岩之下, 而萬乘之君憂慄 乎廟堂之上 (Cho nên người hiền thì ẩn cư trên núi cao hang sâu, mà các vua nước lớn thì ngồi trong cung mà lo lắng, sợ sệt. ) “. Theo Hoài nam tử 淮南子, chương Chủ thuật huấn 主術訓 : “ Quân nhân giả, bất hạ miếu đường chi thượng nhi tri tứ hải chi ngoại giả, nhân vật dĩ thức vật, nhân nhân dĩ tri nhân dã 君人者, 不下廟堂 之上而 知四海之外者, 因物以識物, 因人以知人也 (Kẻ làm vua, không bước xuống hỏi thềm cúa cung mà biết được các việc sảy ra trong bốn bể, đó là qua vật mà hiểu vật, nhân người để môn thường có hai lầu cao hai bên. Bên dưới là nơi niêm yết thông báo của nhà nước . Cũng mượn dùng chỉ triều đình. Miếu đường tâm sự tích lâm khâu. 廟堂心事蹟林丘 : nỗi lòng lo việc nhà nước mà dấu chân in nơi núi rừng. Tử Mâu 子牟, người thời Chiến quốc 戰國, nhân vì được phong đất Trung-sơn 中山, nên còn được gọi là Trung-sơn công tử Mưu 中山公子牟 hay Ngụy công tử Mâu 魏公子牟 cũng có câu nói tương tự : “ Thân tại giang hải chi thượng, tâm cư hồ ngụy khuyết chi hạ 身在江海之上, 心居乎 魏 闕之下 (Thân sống trên sông biển, mà lòng gửi nơi triều đình ) “. Sau này câu nói dùng ám chỉ lòng trung quân ái quốc. Tham khảo Lữ thị Xuân Thu 呂氏春秋, chương Thẩm vi 審為. *] mà biết người vậy ) “. Phạm trọng Yêm 范仲淹 , 989 – 1052, nhà văn thời Bắc Tống 北 宋 trong Nhạc-dương lâu kí 岳陽樓記 : “ Bất dĩ vật hỉ, bất dĩ kỉ bi , cư miếu đường chi cao, tắc ưu kì dân ; xử giang hồ chi viễn, tắc ưu kì quân 不以物 喜, 不以己悲, 居廟堂 之高, 則憂其民; 處江湖之遠, 則憂其君 ( Không lấy cái ngoại vật làm vui, không lấy cái nội tâm làm buồn. Khi giữ chức vụ cao trong chính quyền thì lo cho dân, khi tuy không ở trong chính quyền nhưng vẫn lo cho nước.
B. Tiên ưu hậu lạc. Cũng trong Nhạc-dương lâu kí 岳陽樓記 : “.Thị tiến diệc ưu, thối diệc ưu ; nhiên tắc hà thì nhi nhạc da ? Kì tất viết : “ tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu, hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc dư ! . 是進亦憂, 退亦憂; 然 則何時而樂 耶?其 必曰: “先天下之憂而憂, 後天下之樂 而樂歟!” ( Như thế ở trong cũng lo mà ở ngoài cũng lo, Thế thì thấy vui vào lúc nào? Ắt đáp : “ Lo trước cái lo của thiên hạ, Vui sau cái vui của thiên hạ “ sao? ) “ *],
C. Đạm bạc, Ninh tĩnh luôn luôn tinh tiến
Hoài-nam tiểu sơn 淮南小山, bút hiệu tập thể cúa các tân khách trong nhà Hoài-nam vương Lưu An 淮南王 劉安, trong sách Hoài nam tử 淮南子, chương Chủ thuật huấn 主術訓 : “ Thị cố phi đạm bạc vô dĩ minh đức, phi ninh tĩnh vô dĩ trí viễn, phi khoan đại vô dĩ kiêm phúc, phi từ hậu vô dĩ hoài chúng , phi bình chánh vô dĩ chế đoạn 是故非澹薄無以明德 , 非寧靜無 以致遠, 非寬大無以兼覆, 非慈厚無以懷眾, 非平正無以制斷 (Chính vì vậy cho nên thiếu đạm bạc thì không làm rõ cái đức của mình, không trầm tĩnh thì khó suy nghĩ sâu xa, thiếu độ lượng thì lấy gì mà đối xử với nghịch cảnh, không nhân hậu thì thương người sao được, không công bình ngay thẳng thì lấy gì để mà đoán quyết) “ *]. Gia cát Lượng 諸葛亮 tự Khổng Minh 孔明, 181 – 234, nhà quân sự nước Thục 蜀, thời Tam quốc 三國, trong Giới tử 誡子 : “ Phi đạm bạc vô dĩ minh chí , Phi ninh tĩnh vô dĩ trí viễn . Phù học tu tĩnh dã 非澹泊無以明志, 非寧靜無以致遠. 夫學須靜也 ( Không giản dị, thì không làm rõ chí mình, Không suy nghĩ kĩ thì không thể tiến xa. Phải học tính điềm đạm ) “ *]
Chúng ta hãy phân tích qua thi ca và thân thế ông.
[* Về tiểu sử, chúng tôi đã dựa vào chương Tiểu sử Nguyễn Trãi trong Văn Tân et als (Eds) : Nguyễn Trãi Toàn Tập , Nhà xuất bản Khoa-học Xã-hội, Ha-nội – 1969, từ trang 9 – 20 *]
Hành trình của chàng thanh niên yêu nước.
Ngày 28 tháng 2 năm canh thìn (1400), Hồ quí Li chiếm ngôi của nhà Trần, đặt tên nước là Đại-ngu, Nguyễn ứng Long đểi tên là Nguyẫn phi Khanh và ra nhận chức ̣ái lí tử khanh thị lang toà trung thơ, hàn-lâm viện học sĩ kiêm lĩnh chức tư-nghiệp Quốc tử giám. Cũng trong năm này Nhà Hồ mở khoa thi đầu tiên. Nguyễn Trãi ứng thí, ông trúng tuyển thái học sinh. Sau khi thi đỗ, ông được Hồ Quý Ly trao cho chức Ngự sử đài chánh chưởng. Thế là hai cha con cùng làm quan ở triều đình và cùng giúp cho Hồ Quý Ly thi hành cải cách về kinh tế, chính trị và văn hóa nhằm đưa xã hội Việt Nam sang một giai đoạn phát triển hơn.
Hồ Quý Ly đang thi hành các cải cách thì quân Minh do Trương Phụ chỉ huy mở một cuộc xâm lược vào nước Đại Ngu, Hồ Quý Ly cùng con là Hồ Nguyên Trừng mang quân ra chống cự. Quân Hồ bị quân Minh đánh bại. Cha con Hồ Quý Ly và các triều thần bị bắt và đưa về Trung Quốc. Trong số triều thần bị bắt có Nguyễn Phi Khanh.
Được tin cha bị bắt, Nguyễn Trãi cùng em là Nguyễn Phi Hùng đến chỗ quân Minh giam giữ tù binh để tìm cha, rồi hai anh em theo đoàn xe lên ải Nam Quan với ý định biên giới để hầu hạ cha già trong lúc bị cầm tù.
Nguyễn Phi Khanh biết rằng ông đi chuyến này là sẽ không bao giờ trở về Tổ quốc nữa, cho nên nhân một lúc vắng vẻ, ông bảo Nguyễn Trãi rằng: “Con là người có học, có tài nên tìm cách rửa nhục cho nước, trả thù cho cha. Như thế mới đại hiếu. Lọ là cứ phải đi theo cha khóc lóc như đàn bà mới là hiếu hay sao?”. Rồi Phi Khanh bảo Nguyễn Trãi quay trở về, chỉ để Phi Hùng theo ông sang Trung Quốc, để khi ông chết thì đem hài cốt về nước…
Nguyễn Trãi gạt nước mắt từ biệt cha và em rồi quay trở lại đi tìm con đường “rửa nhục cho nước, trả thù cho cha”, đúng như lời giáo huấn cuối cùng của Nguyễn Phi Khanh.
1. Trước khi tham gia kháng chiến chống Minh.
• Về đến thành Đông Quan, Nguyễn Trãi bị quân Minh bắt. Tướng giặc là Trương Phụ biết Nguyễn Trãi là một nhân vật có tài cao chí cả, y cố dụ dỗ ông ra làm quan với quân Minh. Nguyễn Trãi kiên quyết từ chối. Tức giận, Trương Phụ định đem ông ra chém. Thượng thư Hoàng Phúc khôn khéo hơn, biết rằng muốn dụ dỗ một người như Nguyễn Trãi thì một ngày không thể làm được. Y can Trương Phụ rồi tha cho Nguyễn Trãi, nhưng y buộc ông phải sống ở thành Đông Quan là nơi có đại bản doanh của quân xâm lược.
• Hiện nay chưa đủ tài liệu để khẳng định dứt khoát rằng trong khoảng thời gian từ 1407 đến năm 1416, Nguyễn Trãi ở Đông Quan hay đi đâu. Trong thơ chữ Hán của ông có nhiều chỗ nói ông đã sống mười năm luân lạc hay mười năm phiêu chuyển lênh đênh ở nơi góc biển chân trời xa quê hương. Trong những bài thơ chữ Hán ấy, có nhiều bài nói ông sang Trung Quốc nữa. Do đó, có người đã đoán rằng Nguyễn Trãi đã đi sang Trung Quốc. Thuyết này hiện nay chưa biết là đúng hay sai. Chỉ biết rằng Nguyễn Trãi đã sống ở Đông Quan, nhưng có lẽ ông chỉ sống ở đấy trong một thời gian nào đó mà thôi.
• Vào khoảng năm 1416 hoặc khoảng năm 1420, Nguyễn Trãi đến Lỗi Giang trao cho Lê Lợi, thủ lĩnh nghĩa quân Lam Sơn, bản Bình Ngô sách, trong đó ông vạch ra chiến lược, chiến thuật đánh quân Minh. Theo bài tựa của Ngô Thế Vinh trong Ức Trai thi tập thì Bình Ngô sách “hiến mưu chước lớn, không nói đến việc đánh thành mà lại khéo nói đến việc đánh vào lòng người, cuối cùng nhân dân và đất nước của mười năm lãnh đạo nước ta đều đem về cho ta cả”.
• Nghe lời cha dặn, về nước tìm cơ hội : Nguyễn Trãi không có tên trong bản Hội thề Lũng Nha, và khi được tin Lê Lợi khởi nghĩa, ông đã tham gia hết mình.
Về thơ văn, trong giai đoạn này ông từng than thở như trong bài
Loạn hậu cảm tác.
亂 後 感 作
Thần-châu nhất tự khởi can qua,
神州一自起干戈
Vạn tánh ngao ngao khả nại hà ?
萬姓嗷嗷可奈何
Tử Mĩ cô trung Đường nhật nguyệt,
子美孤忠唐日月
Bá Nhân song lệ Tấn sơn hà.
伯仁雙淚晉山河
Niên lai biến cố xâm nhân lão,
年來變故侵人老
Thu việt tha hương cảm khách đa.
秋越他鄉感客多
Táp tải hư danh an dụng xứ,
卅載虛名安用處
Hồi đầu vạn sự phó Nam-kha.
回頭萬書付南柯
Giải xuôi : Viết ra sau hồi loạn.
Đất nước yêu quí [* thần-châu 神州 nói gọn của thần-châu lục trầm 神州陸沉 , tương tự với cụm quốc thổ luân hãm 國土淪陷 : đất nước bị ngoại xâm, chỉ cuộc xâm lăng Việt Nam của quân Minh . Lưu nghĩa Khánh 劉義慶, 403 – 444, nhà văn nước Tống 宋 thời Nam Bắc triều 南北朝, trong Thế thuyết tân ngữ 世說新語, chương Khinh để 輕詆: “ Hoàn công nhập Lạc, quá Hoài, Tứ, tiễn bắc cảnh, dữ chư liêu chúc đăng Bình-thừa lâu, thiếu chúc trung nguyên, khái nhiên viết: “ Toại sử thần châu lục trầm, bách niên khâu khư, Vương di Phủ chư nhân, bất đắc bất nhâm kì trách. 桓公入洛,過淮, 泗, 踐北境, 與諸僚屬登平乘樓, 眺矚中原, 慨然曰: “ 遂使神州陸沈, 百年丘墟,王夷甫諸人,不 得 不任其責!( Hoàn công tiến vào vùng Lạc, qua sông Hoài, sông Tứ, đặt chân lên vùng phía bắc, cùng các ban tham mưu lên lầu Bình-thừa, nhòm xuống vùng trung nguyên , cảm khái mà nói rằng : “ Cứ để cho nước bị giặc ngoai xâm, cả đời tàn hại, bè lũ Vương di Phủ ( Vương Diễn 王衍 ), không thể không gánh vác nhiệm vụ ) “. Có khi dùng chỉ vùng đất trung nguyên một nước . Lưu nghĩa Khánh 劉義慶 , trong chương Ngôn ngữ 言语: “ Vương thừa tướng thiểu nhiên biến sắc viết :‘ đương cộng lục lực vương thất, khắc phục thần châu, hà chí tác Sở tù tương đối khấp da!王丞相 愀然變色曰: ”當共戮力王室, 剋復神州, 何至作 楚囚相 對泣邪!( Vương thừa tướng 王丞相 ( Vương Đạo 王導 ) biến sắc mặt, quát lên : “Đang cùng cố sức giúp nhà vua, khôi phục đất nước, sao lại biến thành kẻ tù vùng Sở này mà khóc lóc. ) “. Trương nguyên Can 張元干, 1109―1170 nhà văn thời Bắc Tống 北 宋 , trong bài Hạ tân lang : tống Hồ bang Hành đãi chế phó Tân-châu 賀新郎·送胡邦衡待製赴 新州 : “ Mộng nhiễu thần châu lộ, trướng thu phong, liên doanh họa giác, cố cung li thử 夢繞神 州路, 悵秋風, 連營畫角, 故宮離黍 ( Mộng vượt đường cái quan, gió thu nổi, doanh trại tù và, cung xưa hoang phế ) “ *] từ khi trải qua cuộc loạn lạc; muôn dân ai oán biết làm sao được. Tử Mĩ [* hiệu của Đỗ Phủ, 712 – 770, nhà thơ lớn của Trung Quốc, gặp loạn An Lộc Sơn 安祿山, đã phải sống lang bạt. Trong bài Trung dạ 中夜, ông viết : “ Cố quốc phong vân khí, Cao đường chiến phạt trần. Hồ sồ phụ ân trạch, Ta nhữ thái bình nhân. 故國風雲氣, 高堂戰伐塵. 胡雛負恩 澤,嗟爾太平人 ( Quê cũ gió mây khuất, Bụi trận bám nhà cao. Nhãi Hồ phủi ân huệ, Dân lành khổ biết bao ) “ *] giữ mãi tấm lòng trung cô đơn với giang sơn nhà Đường; Bá Nhân [* Bá Nhân 伯仁, tên tự của Chu Nghĩ 周 顗, người vùng An-thành 安成 Nhữ-nam 汝南 ( nay là phía đông nam huyện Nhữ-nam 汝南縣, tỉnh Hà-nam 河南省 ), từng giữ chức thượng thư tả bộc xạ 尚書左僕射, hưởng công cha mà được phong tước hầu, nên còn có tên là Chu hầu 周侯. Tham khảo Tấn thư 晉書, chương Vương Đạo truyện 王導傳. Vào thời Tấn Huệ đế 晉惠帝, các danh sĩ lánh nạn phía bắc, xuống nơi này tụ tập ( tham khảo do cụm Vĩnh-gia chi họa 永嘉之禍 mà có cụm từ Y quan nam độ 衣冠南渡. ). Trong một cuộc họp, Bá Nhân đã khảng khái mà thốt ra câu “ Phong cảnh bất thù, cử mục hữu giang hà chi dị 風景不殊, 舉目有江河之 異 ( Cảnh vật không khác, mà sao ngước mắt nhìn sông nước thấy xa lạ ). Nói rồi nước mắt rưng rưng. *] giỏ hai hàng lệ khóc than cho vận mệnh nước Tấn. Mấy năm gần đây các biến cố khiến cho con người già đi; thu về nơi xứ lạ khiến lòng khách chan chứa. Ba chục năm trời danh hão [* hư danh 虛名: ( a. Lời khen không xứng với thực tế . Theo Hạt quan tử 鶡冠子, chương Độ vạn 度萬: “ Hư danh tương cao, tinh bạch vi hắc 虛名相高, 精白為黑 ( Lời quá khen, trắng toát thành đen ) “ . Từ Can 徐干, cũng viết là 徐 幹, 170 – 217, nhà văn thời Đông Hán 東漢, trong Trung luận 中論, chương Vong quốc 亡國 : “ Mãng chi vi nhân dã , nội thật gian tà , ngoại mộ cổ nghĩa, diệc sính cầu danh nho, trưng mệnh thuật sĩ … đồ trương thiết hư danh dĩ khoa hải nội , Mãng diệc tốt dĩ diệt vong 莽 之為人也, 內實姦邪, 外慕古義, 亦聘求名 儒, 徵命術士 … 徒張設虛 名以誇海內,莽 亦卒以 滅 亡 ( Vương Mãng là một người, trong lòng thật là gian tà, nhưng vẻ bề ngoài lại tỏ ra trọng nghĩa cũ, lại ưa thích lôi kéo những học giả danh tiếng, thu phục kẻ cơ hội,… để huênh hoang mang cái danh hão khoe cùng mọi người, Mãng sớm bị tiêu ma mà thôi ) “. Tần Quan 秦觀 , 1049 – 1100, nhà văn thời Bắc Tống 北 宋 trong Tài dụng thượng 財用上 : “ Tấn nhân Vương Diễn giả, khẩu bất ngôn tiền nhi chỉ dĩ vi a đổ vật, thần thiết tiếu chi, dĩ vi thử nãi gian nhân cố vi kiểu kháng, đạo hư danh vu ám thế dã 晉 人 王衍 者, 口不言錢 而指以為 阿堵物, 臣竊笑之, 以為此乃姦 人故為矯亢, 盜虛名 於暗世也 ( Vương Diễn, người nước Tấn, miệng không nói tiền mà dùng cụm “ cái của khỉ kia “. Thần chỉ cười thầm, đó là người gian mà làm bộ khác người, trộm cái lời rỗng tuếch mà loè thiên hạ ) “)*] có làm được cái gì; muôn việc cũ quay đầu nghĩ lại thôi đều phó cho giấc mộng nơi cành phiá nam [* Nam kha 南柯: cành phía nam , trong cụm Nam-kha mộng 南柯夢 , Nam-kha là một quận trong Hoè quốc, Hoè quốc mộng 槐國夢 hay Hoè-an mộng 槐安夢 đúng hơn là Đại hòe an quốc mộng 大槐安國 夢 theo truyện thần kì của Lí công Tá 李公佐, nhà văn thời Đường 唐, nhan là Nam kha thái thú truyện 南柯太守傳, Thuần vu Phần 淳於棼 ngồi uống rượu dưới gốc cây hoè , khi say rồi mơ thấy tới nơi cửa thành có đề chữ Đại hòe an quốc 大槐安國 . Được vua nước này tuyển làm phò mã , bổ nhiệm chức thái thú quận Nam kha ( Nam kha thái thú 南柯 太守 ) , làm được ba mươi năm , hưởng giàu sang phú quí. Khi tỉnh giấc, thấy dưới gốc cây hoè có tổ kiến lớn, cành phía nam cũng có một tổ nhỏ . Suy ra từ giấc mơ tổ̉ kiến lớn là Đại hòe an quốc , tổ nhỏ là quận Nam-kha. Sau này cụm từ dùng chỉ “ cuộc đời là một giấc mộng “, “ giàu sang chỉ là cảnh vô thường “. Lục Du 陸游, 1125—1210 nhà thơ thời Nam Tống 南 宋, trong Thu vãn 秋晚 : “ Huyễn cảnh hòe an mộng, Nguy cơ trúc tiết than 幻境 槐安 夢, 危機竹節灘 ( Mơ Hoè an cảnh ảo, Thác Trúc tiết khi nguy ) “. Nguyễn gia Thiều : trong Cung oán ngâm khúc câu 83-84 “ Giấc Nam-kha khéo bất bình, Bừng con mắt dậy thấy mình tay không “*]
Dịch vần :
Nước nhà từ lúc loạn lên rồi,
Muôn dân cực khổ biết nhờ ai!
Đời Đường, Tử Mĩ lòng trung giữ,
Nước Tấn, Bá Nhân lệ tiếc rơi.
Mấy năm loạn lạc người đâm cỗi,
Thu tới chân trời dạ rối bời.
Ba chục năm dư, danh dự hão,
Mọi sự suy ra hệt mộng thôi!
Và về thăm làng , với một tâm trạng não nề trong bài
Qui Côn-sơn chu trung tác.
歸 崑 山 舟 中 作
Thập niên phiêu chuyển thán bồng bình,
十年飄轉嘆蓬萍
Qui tứ dao dao nhật tự tinh
歸思搖搖日似旌
Kỷ thác mộng hồn tầm cố lý,
幾托夢魂尋故里
Không tương huyết lệ tẩy tiên oanh.
空將血淚洗先塋
Binh dư cân phủ ta nan cấm,
兵餘斤斧嗟 難禁
Khách lí giang sơn chỉ thử tình.
客裡江山只此情
Uất uất thốn hoài vô nại xử,
灪灪寸懷無奈處
Thuyền song thôi chẩm đáo thiên minh.
船窗推枕到天明
Giải xuôi : Viết ra khi đi thuyền về Côn Sơn.
Mười năm trôi nổi than cảnh bồng bềnh [* bồng bình 蓬萍 hay đảo ngược thành bình bồng 萍蓬 : cỏ bồng và bèo. Bèo trôi trên sông, phó mặc cho nước cuốn, Bồng : loại cỏ rễ cạn, mọc thành hình cầu, vào mùa thu lá bị khô héo, khi gió thổi cuốn đi cả cụm. Dùng để thí dụ thân thế long đong qua cụm chuyển bồng 轉蓬 . Theo Hậu Hán thư 後漢書, chương Dư phục chí 輿服志: “ Thượng cổ thánh nhân, kiến chuyển bồng thủy tri vi luân 上古聖人, 見轉蓬始知為輪 ( Thánh nhân thời cổ, thấy cỏ bồng theo gió cuốn đi mà chế ra bánh xe )”. Tào Thực 曹植, 192 – 232 , nhà thơ nước Ngụy 魏 thời Tam quốc 三國 trong Tạp thi 雜詩: “ Chuyển bồng li bổn căn , Phiêu diêu tùy trường phong 轉蓬離本根, 飄颻隨長風 ( Bồng cuốn rời gốc chính, lênh đênh theo gió mạnh )”. Lí Thiện 李善 chú có dẫn sách Thuyết uyển 說苑 : “ Lỗ ai công viết : Thu bồng ác kì bổn căn, mĩ kì chi diệp, thu phong nhất khởi , căn bổn bạt hĩ 魯哀公 曰 :秋蓬惡 其本根,美其枝葉, 秋風一起,根本拔矣 ( Lỗ ai công nói rằng : Cỏ bồng vào mùa thu ghét cái gốc chính của mình, mà tự hào về cái đẹp của lá, Khi gió thu vừa nổi, gốc chính bật lên cả ) “. Sầm Tham 岑參 ,715 – 770 , nhà thơ thời Đường 唐 trong Tống Kì Nhạc qui Hà-đông 送祁樂歸河東 : “ Điểu thả bất cảm phi, Tử hành như chuyển bồng 鳥且不敢飛, 子行如轉蓬 ( Chim đã không dám bay, Anh đi hệt cỏ cuốn ) “. Đỗ Phủ 杜甫, 712 – 770 nhà thơ thời Đường 唐 trong Tương biệt Vu-giáp tặng Nam khanh huynh Nhương tây quả viên tứ thập mẫu 將別巫峽贈南卿兄瀼西果園四十畝: “ Đài trúc tố sở hảo, Bình bồng vô định cư 苔竹素所好, 萍蓬無定居 ( Rêu trúc phô vẻ đẹp, Bèo, bồng cứ nổi trôi. ) “ *] ; ý mong về quê náo nức lúc nào cũng như cờ lộng gió. Bao nhiêu lần nhờ mộng mà về quê cũ; chỉ đem nước mắt rướm máu mà rưới lên mộ tổ tiên. Trong cảnh chiến tranh gươm dáo [* cân phủ 斤斧 : vũ khí, binh khí . Tôn quang Hiến 孫光憲, 900 – 968, nhà thơ thời Bắc Tống 北 宋 trong Bắc mộng tỏa ngôn 北夢瑣言, quyển 7 : “ Tuyên tông sách Triệu Hỗ thi, kì quyển thủ hữu “ Đề Tần hoàng thi “, kì lược vân : “ Đồ tri lục quốc tùy cân phủ, Mạc hữu quần nho định thị phi 宣宗索 趙嘏 詩,其卷首有 ”題秦皇詩”,其略云:‘ 徒知六國隨斤 斧,莫有羣儒 定是非 ( Vua Tuyên Tông theo bài thơ của Triệu Hỗ, trong tập có bài Đề Tần hoàng thi, tóm lược như sau : “ Tóm thâu sáu nước nhờ binh khí, Phải trái đừng nghe bọn hủ nho.” ) “ *], khó tránh nổi được; nơi đất khách chỉ có mỗi mối tình này. Tấm lòng tấm tức biết làm sao được; nơi cửa thuyền trằn trọc trên gối, cho đến sáng trời.
Dịch vần :
Mười năm lưu lạc khổ bơ vơ,
Lòng về náo nức hệt ngọn cờ.
Chỉ cậy hôn mê tìm lối xóm,
Uổng mang máu lệ rưới trên mồ.
Giữa chốn giáo gươm khôn tránh hoạ,
Trong nơi đất khách, trí toan lo.
Tấm lòng ấm ức không nơi giải,
Mạn thuyền trằn trọc gối vò tơ.
Tuy thế lòng vẫn mong trả nợ nước; trong bài :
Đoan-ngọ nhật.
端午日
[* Đoan-ngọ nhật 端午日: là ngày mồng 5 tháng 5 theo nông lịch. Chữ Ngọ 午 là do chữ Ngũ 五 viết tháu mà thành. Theo truyền thống trong dân gian là một tiết trong năm. Ngày này đã trở thành lễ hội tưởng niệm ngày Khuất Nguyên trầm mình trên sông Mịch-la 汩羅. Trong lễ hội có tập tục gói bánh tro ( khỏa tống tử 裹粽子 ) và đua thuyền rồng ( trại long chu 賽龍舟 ), trong dân gian còn có tục gọi là ngày giết sâu bọ *]
Thiên trung cộng hỉ trị giai thần,
天中共喜值隹辰
Tửu phiếm xương bồ tiết vật tân.
酒泛菖蒲節物新
Tiến thiếp đương niên tư Vĩnh Thúc,
進帖當年思永叔
Trầm Tương để sự thán Linh Quân.
沉湘底事嘆靈圴
Tịch tà bất dụng ti triền tý,
闢邪不用絲纏臂
Tùy tục liêu vi ngải kết nhân.
隨俗聊為艾結人
Nguyện bả lan thang phân tử hải
願把蘭湯分四海
Tòng kim táo tuyết cựu ô dân.
從今澡雪舊污民
Giải xuôi : Ngày đoan ngọ.
Giữa trưa ai cũng mừng gặp được lúc trời đẹp, nhân sang tiết mới nên rót rượu ngâm cỏ xương bồ [* xương bồ 菖蒲 tên một loại thực vật danh , thuộc loại thảo sống dưới nước, có hương thơm. Theo Hiếu kinh 孝經, chương Viên thần khế 援神契 : “ Tiêu khương ngự thấp, Xương bồ ích thông 椒薑禦濕, 菖蒲益聰 ( Tiêu, gừng ngăn nhức, Xương bồ tỉnh thêm ). Li đạo Nguyên 酈道元, 470 – 527, nhà văn hóa Bắc Ngụy 北魏, trong Thủy kinh chú 水經註, chương Y thủy 伊水 : “ Thạch thượng xương bồ , nhất thốn cửu tiết, vi dược tối diệu , phục cửu hóa tiên 石上菖蒲, 一寸九 節, 為藥最妙, 服久化僊 ( Xương bồ trên đá, Một tấc chín cành. Làm thuốc rất hay, Uống lâu thành tiên ) “ *] để uống. Vẫn nhớ chuyện Vĩnh Thúc [* Vĩnh Thúc 永叔 tên tự của Âu Dương Tu 歐 陽 修, 1007 – 1072, hiệu Tuý ông 醉翁, nhà thơ thời Bắc Tống 北 宋 . Ông có bài thiếp Hoàng đế cáp đoan ngọ thiếp tử từ 皇帝閤端午帖子詞 : “Thuấn vũ lai hà tục 舜舞來遐俗/, Nghiêu nhân hiệp cửu khu 堯仁洽九區 / ngũ binh tiêu dĩ đức 五兵消以德, / hà dụng xích linh phù, / 何用赤靈符 ( Chốn xa mưa Thuấn rưới, Khắp nước Nghiêu nhân nhuần. Dùng đức, binh triệt hết, Bùa rồng đỏ đâu cần. ) “*] dâng giấy năm xưa, Than tiếc Linh Quân [* Linh Quân 靈圴 là tên tự của Khuất Nguyên 屈原 340 BC – 278 BC, tên là Bình 平, cũng có tên hiệu là Chính Tắc 正則 , người nước Sở 楚, thời Chiến-quốc 戰國. Sinh quán vùng Đan-dương丹陽 ( nay là huyện Tỉ-qui 秭歸縣, Hồ-bắc ) Từng giữ chức Tam lư đại phu 三閭大夫. Thời vua Hoài Vương 懷王 mắc lỗi và bị phóng trục lên vùng bắc Hán, bi phẫn viết ra thiên Li tao 離騷 để tỏ lòng trung trinh. Sau đó lại gọi về. Ít lâu sau lại mắc lỗi ‘ nói bừa ‘, lần này phóng trục xuống vùng nam Sở ( Giang Nam 江南 ). Vào tháng năm năm BC 278, quân nhà Tần phá tan kinh đô Dĩnh 郢 của nước Sở, ông quá bi phẫn, nên ôm đá mà nhảy xuống sông Mịch-la 汩羅 trong vùng Trường-sa 長沙. Thêm các chương Thiên Vấn 天問, Cửu Chương九章, gom chung lại là Sở Từ 楚辭 *] về việc chìm xuống đáy sông Tương. Để trừ tà, không buộc chỉ nơi cổ tay [* ti triền tí 絲纏臂 : buộc chỉ cổ tay . Theo tập tục Trung-quốc, vào tiết đoan ngọ dân chúng kỉ niệm ngày Khuất Nguyên tự trầm, có làm bánh tro, bánh ú ( tống tử 粽子, hay vụ giác thử 鶩角黍 ), có bọc lá tre hay lá lau , cột chỉ năm mầu. thả xuống sông. Có người giải thích để cho cá ăn thay vì rỉa xác Khuất Nguyên. Theo Sơ học kí 初學記 , quyển tứ trích dẫn sách Phong thổ kí 風土記 của Chu Xử 周處, 236 – 297, nhà văn học thời Tây Tấn 西晋 : “ Trọng hạ đoan ngọ, phanh vụ giác thử 仲夏端午, 烹鶩角黍 ( Giữa hè, vào dịp tiết đoan ngọ, luộc bánh ú ) “ . Ngô Quân 吳均 , nhà thơ nước Lương 梁 , thời Nam Bắc triều 南北朝, trong Tục tề hài kí 續齊諧記 , chương Ngũ hoa ti tống 五花絲粽 : “ Khuất nguyên ngũ nguyệt ngũ nhật đầu Mịch-la thủy, Sở nhân ai chi, chí thử nhật , dĩ trúc đồng tử trữ mễ, đầu thủy dĩ tế chi … kim thế ngũ nguyệt ngũ nhật tác tống , tịnh đới đống diệp ngũ sắc ti, giai Mịch-la di phong dã 屈原 五月五日投 汨羅水 , 楚 人哀之, 至此日, 以竹筒子貯米, 投水以祭之…世五月五日作粽, 並帶棟 葉五色絲, 皆 汨羅 遺風也 ( Khuất Nguyên vào ngày mồng năm tháng năm nhảy xuống sông Mịch-la, Người nước Sở đau lòng, nên hàng năm tới ngày này, lấy ống tre chứa gạo, thả xuống sông để tế…. Đời sau vào ngày mồng năm tháng năm làm bánh cùng cột vào sống lá có tơ năm mầu, đều là phong tục còn truyền lại từ vùng sông Mịch-la ) “. Tô Thức 蘇軾, 1036 – 1101 nhà thơ thời Bắc Tống 北 宋 trong bài Trúc chi ca 竹枝歌 : “ Thủy tân kích cổ hà huyên điền, Tương tương khấu thủy cầu Khuất Nguyên 水濱擊鼓何喧闐, 相將扣水求 屈原 ( Bên sông trống đánh sao náo nhiệt, Tưởng như khuấy nước tìm Khuất Nguyên ) “ . Âu dương Tu 歐陽修 , 1007 – 1072, nhà thơ thời Bắc Tống 北 宋 trong Ngư gia ngạo 漁家傲 bài Ngũ nguyệt lựu hoa yêu diễm hồng từ 五月榴花妖艷烘 詞 : “ Lục dương đới vũ thùy thùy trọng, Ngũ sắc tân ti triền giác tống 綠楊帶雨垂垂 重, 五色新絲纏角粽 ( Dương xanh bị mưa, nặng nên rũ ,Tơ năm mầu mới cột bánh ú ) “ . Trương Củ 張榘 ???- 1208 – ???, nhà thơ thời Bắc Tống 北 宋 trong Niệm nô kiều 念奴嬌 : “ Sở Tương cựu tục , Kí bao thử trầm lưu , miễn hoài trung tiết . Thùy vãn Mịch-la thiên trượng tuyết , Nhất tẩy ta hồn li biệt . Doanh đắc nhi đồng , hồng ti triền tí, giai thoại niên niên thuyết . Long chu tranh độ , khiên kì chúy cổ kiêu liệt 楚湘舊俗, 記包黍 沈流, 緬懷忠節. 誰輓汨羅千丈 雪, 一洗些魂離 別. 贏得兒童, 紅絲纏臂, 佳話年年說. 龍舟爭渡, 搴旗捶鼓驕劣 ( Tục xưa Sở Tương, Nhớ gói gạo thả trôi,Thương hoài lòng trung. Ai khóc ngàn trượng tuyết nơi Mịch-la, Để rửa hồn xa cách kia, Có được lũ trẻ, Tơ hồng cột tay, Giai thoại năm năm kể lại. Thuyền rồng tranh đua, Vung cờ, gióng trống ngạo nghễ ) “ . Tô Thức 蘇軾, 1036 – 1101, nhà thơ thời Bắc Tống 北 宋 trong bài Hoán khê sa : “ Khinh hãn vi vi thấu bích hoàn , Minh triêu đoan ngọ dục phương lan . Lưu hương trướng nị mãn tình xuyên , Thái tuyến khinh triền hồng ngọc tí , tiểu phù tà quải lục vân hoàn 輕汗微微透碧紈,明朝端午浴芳蘭. 流香漲膩滿 晴川, 彩綫輕纏紅 玉臂, 小符斜掛綠 雲鬟 ( Sáng ngày đoan ngọ tắm nước thơm. Hương trôi sáp bóng dòng yên ắng, Sợi đẹp nhẹ đeo tay ngọc hồng. Bùa nhỏ đeo nghiêng, tóc mây biếc ) “ . Triệu trường Khanh 趙長卿 , ??? – ???, nhà thơ thời Nam Tống 南 宋 trong tập Túy Bồng-lai 醉蓬莱 , bài Đoan ngọ 端午: “ Na cánh ân cần 那更殷勤, / Tái tam chúc nguyện 再三祝願. / Đấu xảo hợp hoan 鬥巧合歡, / Thái ti triền tí 彩絲纏臂. / Khắc ngọc hương bồ 刻玉香蒲, / Phiếm kim quang nghênh túy 泛金觥迎醉 / . Ngọ nhật huân phong 午日熏風 , / Sở từ cao vịnh 楚詞高詠, / Độ át vân thanh thúy 度遏雲聲脆 / Xích khẩu bạch thiệt 赤口白舌, / Tòng kim tiêu diệt 從今消滅, / Chư dư khả ý 諸餘可意 ( Sao mà náo nức, Ba lần cầu xin. Họp nhau khoe khéo. Tơ óng cột tay, Cỏ bồ hương ngát. Chén vàng cùng say, Mép đỏ lũ vẹt, Từ nay chết hết, Bọn nó hiểu ý ) “ *], theo phong tục cũ cũng lấy lá ngải bện hình người [* Ngải kết nhân 艾結人 : lấy lá ngải cứu kết thành hình người nộm. Tông Lẫm 宗懍 , 501 – 565 , nhà văn nước Lương 梁 thời Nam Bắc triều 南北朝, trong Kinh Sở tuế thì kí 荊楚歲時記: “ Ngũ nguyệt ngũ nhật tứ dân tịnh đạp bách thảo… thái ngải dĩ vi nhân, huyền môn hộ thượng, dĩ nhương độc khí 五月五日四民並蹋百草… 采艾以為人, 懸門戶上, 以禳毒氣 ( Ngày mồng năm tháng năm, dân các nơi, cùng dẫm cỏ…hái lá ngải bó thành hình người, treo trước cửa nhà, để trừ khí độc ) “ *]. Nguyện đem nước thơm [* lan thang 蘭湯: nước tắm có pha dầu thơm. Khuất Nguyên 屈原 trong Sở Từ 楚辭 chương Cửu ca 九歌 , bài Vân trung quân 雲中君 : “ Dục lan thang hề mộc phương, hoa thải y hề nhược anh 浴蘭湯兮沐芳,華採衣兮若英 ( Tắm nước lan chừ gội nước thơm, Áo năm mầu chừ hoa đỗ nhã ) “. Nguyễn Tịch 阮籍, 210 – 263, nhà thơ thời Tam quốc 三國, nước Ngụy 魏 trong Tiển hầu phú 獮猴賦 : “ Mộc lan thang nhi tư uế hề, Phỉ Tống triều chi mị nhân 沐蘭湯而滋穢兮, 匪宋朝之媚人 ( Nước ấm mộc lan rửa dơ chừ, Không phải là người đẹp triều Tống sao ) “ . Vũ đế 武帝 nước Lương 梁 , thời Nam Bắc triều 南北朝, trong bài Hoạ thái tử sám hối thi 和太子懺悔詩 : “ Lan thang dục thân cấu, Sám hối tịnh tâm linh 蘭湯浴身垢,懺悔淨心靈 ( Nước lan rửa thân dơ, Sám hối khiến tâm tĩnh. ) “*] chia đều khắp bốn biển, để từ nay rửa sạch cái nhơ nhớp cũ của nhân dân.
Dịch vần :
Giữa trưa trời đẹp lại vui cùng,
Tiết mới, xương bồ ngâm rượu trong.
Không quên Vĩnh Thúc, ngày dâng sớ,
Còn tiếc Linh Quân lúc nhảy sông.
Theo tục, người ngải bện thành, có,
Trừ ma, cổ tay tơ cột, không.
Xin lấy nước thơm vung bốn biển,
Nhục cũ nhân dân rửa sạch bong.
Và rồi nơi cửa sông Bạch-đằng, chiến thắng quân xăm lăng của dân Việt bừng lên trong lòng ông.
Bạch-đằng hải khẩu.
白 藤 海 口
Sóc phong xuy hải, khí lăng lăng ,
朔風吹海,氣凌凌
Khinh khởi ngâm phàn quá Bạch-đằng.
輕起吟帆過白藤
Ngạc đoạn kình khô sơn khúc khúc,
鱷斷鯨刳山曲曲
Qua trầm kích chiết ngạn tằng tằng.
戈沉戟折岸層層
Quan hà bách nhị do thiên thiết,
關河百二由天設
Hào kiệt công danh thử địa tằng.
豪傺功名此地曾
Vãng sự hồi đầu ta dĩ hĩ,
往事回頭嗟已矣
Lâm lưu phủ ảnh ý nan thăng.
臨流撫影意難勝
Giải xuôi : Cửa biển Bạch-đằng .
Gió bấc thổi trên biển, hơi biển ngùn ngụt; nhẹ kéo cánh buồm thuyền ngắm cảnh làm thơ để đi qua cửa Bạch Đằng. Từng khúc núi [* rải rác *] như cá sấu bị chặt, cá kình bị mổ; chồng từng lớp như những mũi giáo chìm, cây xích gãy. Ải sông hiểm trở [* Bách nhị 百二 Dùng hai người chống lại trăm người, lấy ít chọi nhiều . Sau này dùng chỉ non sông hiểm trở. Tư-mã Thiên 司馬遷 trong Sử kí 史記 chương Cao tổ bổn kỉ 高祖本紀 : “ Tần, hình thắng chi quốc , đái hà sơn chi hiểm, huyền cách thiên lí , trì kích bách vạn , Tần đắc bách nhị yên 秦, 形勝之國, 帶 河 山之險, 縣隔千里, 持戟百萬, 秦 得百二焉 ( Nước Tần có hình thể thuận lơi, có núi sông chắn hiểm, cách xa cả ngàn dặm, ngăn chặn được cả trăm vạn người. Tên được dùng mô tả cái thế chỉ cần hai người mà chống giữ được trăm kẻ địch. Nước Tần có được cái thế “ Trăm hai “.) “. Bùi Nhân 裴駰 trong Tập giải 集解 có viện dẫn Tô Lâm 蘇林 nói : “ Tần địa hiểm cố , nhị vạn nhân túc đương chư hầu bách vạn nhân dã 秦 地險固, 二萬人 足當諸侯百萬人也 ( Đất Tần hiểm trở, hai vạn người có thể địch lại trăm vạn người của các chư hầu ) “. Đỗ Phủ 杜甫, 712 – 770 nhà thơ thời Đường 唐 trong Chư tướng ngũ thủ 諸將五首, bài ba : “ Lạc-dương cung điện hóa vi phong, Hưu đạo Tần-quan bách nhị trùng. 洛陽 宮殿化為烽,休道秦關 百二重 ( Cung điện Lạc-dương bị cháy tiêu, Trăm hai Tần ải, chớ kêu rêu ) “. Tư-mã Trinh 司馬貞, ??? – ???, sử gia đời Bắc Tống trong Sách ẩn 索隱, có dẫn lởi Ngu Hỉ 虞喜 nói rằng : “ Ngôn chư hầu trì kích bách vạn, Tần địa hiểm cố, nhất bội vu thiên hạ, cố vân đắc bách nhị yên , ngôn bội chi dã, cái ngôn Tần binh đương nhị bách vạn dã 言諸侯持戟百萬,秦 地險固,一倍 於天下, 故云得百二焉, 言倍之也, 蓋言 秦 兵當二百 萬也 ( Nói rằng chư hầu có trăm vạn người cầm dáo, mà đất Tần hiểm cố, hơn trong thiên hạ, cho nên mới nói rằng được trăm hai , nói là hơn vậy. Vì nói quân Tần đương đầu với hai trăm vạn ) “. Trương Tải 張載, 1020 – 1077, nhà văn thời Bắc Tống 北 宋 trong bài Kiếm các minh 劍閣銘 : “ Tần đắc bách nhị, tính thôn chư hầu 秦 得百二,並吞諸侯 ( Tần được trăm hai, nuốt gọn chư hầu. ) “. Theo Chu thư 周書 , chương Hạ lan Tường truyện 賀蘭祥傳 : “ Cố tắc thần cao Tây nhạc , hiểm tắc bách nhị do tại 固則神皋 西岳 , 險則百二猶在 ( Xưa vì thần minh ở̉ núi Tây, hiểm tất bách vạn trong đó ) “. Vương thanh Huệ 王清惠, 1265 – 1294, nhà thơ thời Nam Tống 南 宋 trong Mãn giang hồng 滿江紅 , bài Đề dịch bích 題驛壁 : “ Long hổ tán, phong vân diệt , thiên cổ hận , bằng thùy thuyết!Đối sơn hà bách nhị , lệ triêm khâm huyết 龍虎散, 風雲滅, 千古恨, 憑誰説!對山河百二, 淚沾 襟血 ( Rồng cọp tan, gió mây ngưng, suốt đời hận, nói cùng ai. Với non sông bách nhị, lệ rơi áo máu ) “.*] là do trời đặt ra; sự nghiệp của các bậc anh hùng từng sảy ra nơi đất này [* Sông Bạch Đằng nổi tiếng với 3 chiến công của dân tộc Việt Nam: Trận thủy chiến sông Bạch Đằng năm 938: Ngô Quyền đánh thắng quân xâm lược Nam Hán. Trận thủy chiến sông Bạch Đằng năm 981: Hoàng đế Lê Đại Hành đập tan quân Tống xâm lược. Trận thủy chiến sông Bạch Đằng năm 1288: Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn đại thắng quân xâm lược Nguyên (trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên lần thứ ba). Hiện ở khu vực cửa sông Bạch Đằng có 3 ngôi đền thờ 3 vị anh hùng trên đó là đình Hàng Kênh (Lê Chân, Hải Phòng) thờ Ngô Quyền, đền Vua Lê Đại Hành ở thị trấn Minh Đức (Thủy Nguyên, Hải Phòng) và đền Trần Hưng Đạo ở xã Yên Giang,( Quảng Yên, Quảng Ninh). Nguồn : http://vi.wikipedia.org/wiki/ *] . Quay đầu xem việc cũ, thôi hết rồi; cúi xuống dòng mò bóng, nói không hết ý.
Dịch vần :
Hơi bể bừng lên, gió bắc đưa,
Bạch đằng đi tới, cuốn buồm thơ.
Gươm gãy, dáo chìm, bờ khuất khúc,
Kình băm, ngạc chặt, núi lô nhô.
Cửa ải trăm hai, trời đã đặt,
Anh hùng sự nghiệp, đất từng phô.
Nghĩ coi việc cũ, thôi đành hết,
Dưới sông tìm bóng ý ngẩn ngơ.
Rồi tìm người đồng chí, mưu đồ việc lớn :
Kí hữu.
寄友
Bình sinh thế lộ thán truân chiên,
平生世路嘆迍邅
Vạn sự duy ưng phó lão thiên.
萬事惟應付老天
Thốn thiệt đãn tồn không tự tín,
寸舌但存空自信
Nhất hàn như cố diệc kham liên.
一寒如故亦堪憐
Quang âm thúc hốt thì nan tái,
光陰倏忽時難再
Khách xá thê lương dạ tự niên.
客舍淒涼夜似年
Thập tải độc thư bần đáo cốt,
十載讀書貧到骨
Bàn duy mục túc tọa vô chiên.
盤惟苜蓿坐無氈
Giải xuôi : Gửi bạn.
Trong cuộc đời thường than vãn là đường đi vất vả [* truân chiên 迍邅 , cũng viết là 屯邅: ở vào hoàn cảnh bất lợi, khó khăn , khốn đốn . Cụ thể chỉ đường đi găp gềnh. Tả Tư 左思, 250 – 305, nhà văn học thời Tây Tấn 西晋 trong bài Vịnh sử 詠史, bài 7 : “ Anh hùng hữu truân chiên , Do lai tự cổ tích 英雄有迍邅, 由來自古昔 ( Anh hùng gặp khó khăn, Gốc vốn từ thời trước ) “. Trương Trạc 張鷟, 660 – 740, nhà thơ thời Đường 唐 trong Du tiên quật 游仙窟: “ Ta vận mệnh chi truân chiên, Thán hương quan chi miễu mạc 嗟運命之迍邅, 嘆鄉關之眇邈 ( Kêu vận mệnh gặp khó khăn, Than làng cũ nơi xa tắp ) “. Sái Ung 蔡邕, 133 – 192, nhà thư pháp thời Hán 漢, trong Thuật hành phú 述行賦 : “ Đồ truân chiên kì kiển liên, Lạo ô trệ nhi vi tai 途迍邅其蹇連, 潦污滯而為災 ( Đường khấp khểnh, bước gập gềnh, Lội nước lụt nên gặp nạn ) “ *] , nên mọi sự cứ phó mặc cho ông trời già. Tấc lưỡi vẫn còn thì vẫn còn tự tin, cái nghèo như xưa thì nghĩ cũng đáng thương. Ngày tháng qua vun vút, thời gian khó lấy lại; quán trọ buồn tênh, một đêm mà dài như một năm. Mười năm đọc sách [* thập tải độc thư 十載讀書 : học tập trong mười năm , tương đồng với thập niên độc thư 十年讀書. Nam sử 南史 , quyển 37 : Thẩm Khánh chi truyện 沈慶之傳: “ Tảo tri cùng đạt hữu mệnh, hận bất thập niên độc thư 早知窮達有 命, 恨不十年讀書 ( Sớm biết thành bại do số, Tiếc chẳng mười năm học hành ) “ . Hoàng đình Kiên 黃庭堅, 1045 -1105, nhà thơ thời Bắc Tống 北 宋 , trong bài Tống lưu quý triển tòng quân Nhạn môn 送劉季展從軍鴈門, bài thứ nhất : “ Thiên lí hạ qua phòng khuyển dương, thập niên độc thư yếm lê hiện 千里荷戈防犬羊, 十年讀書厭 藜莧 ( Ngàn dặm vác đao phòng chó dại, Chục năm đèn sách chán rau sam ) “ *] mà vẫn nghèo trơ xương; mâm cơm chỉ có rau [* mục túc 苜蓿 : tên loại rau được viết theo âm của ngôn ngữ Đại-uyển 大苑 là buksuk . Một loại thực vật thuộc họ đậu mà ngựa thích ăn, Anh ngữ alfalfa . Các nước vùng Tây-vực 西域 thấy mọc nhiều. Thời vua Hán vũ Đế 漢武帝, Trương Khiên 張騫 đi sứ vùng Tây-vực 西域, lần đầu tiên mang từ Đại-uyển vào Trung quốc. Còn có tên là Hoài phong thảo 懷風草, Quang phong thảo 光風草 , Liên chi thảo 連枝草. Tư mã Thiên 司馬遷 trong Sử kí 史記 chương Đại-uyển liệt truyện 大宛 列傳 : “ ( Đại uyển ) tục thị tửu , mã thị mục túc . Hán sứ thủ kì thật lai . Vu thị thiên tử thủy chủng mục túc , bồ đào phì nhiêu địa . Cập thiên mã đa, ngoại quốc sử lai chúng, tắc li cung biệt quan bàng tẫn chủng bồ đào, mục túc cực vọng ( 大宛 ) 俗嗜酒,馬嗜苜蓿. 漢 使取其實來. 於是天子始種苜蓿, 蒲陶 肥饒 地. 及天馬多,外國 使來眾,則 離宮別觀旁盡種蒲萄, 苜蓿極 望 ( ( Người Đại uyển ) Thích uống rượu, ngựa ưa gặm cỏ mục túc . Sứ nhà Hán mang hột về. Nhờ đó nhà vua mới bắt đầu trồng mục túc, nho trên vùng đất mầu mỡ. Tới khi có nhiều ngựa tốt, các sứ giả nước ngoài tới nhiều, nên bên cạnh các nhà trọ, quán tiếp tân trồng mục túc, nho đầy trông hút mắt. ) “. Có cụm từ liên quan : Mục túc trường lan can 苜蓿長欄干, theo Đường thi kỉ sự 唐詩紀事 : Tíết lệnh Chi 薛令之, 683 – 756, nhà thơ thời Đường 唐 trong bài Tự điệu 自悼 : “ Triêu nhật thượng đoàn đoàn , Chiếu kiến tiên sinh bàn . Bàn trung hà sở hữu ? Mục túc trưởng lan can. Phạn sáp thi nan oản, canh hi trứ dịch khoan . Chỉ khả mưu triêu tịch, Hà do bảo tuế hàn ? 朝日上團團, 照見先生 盤. 盤中何所有?苜蓿長闌 干. 飯澀匙難綰, 羹稀箸易寬. 隻 可謀朝夕, 何由保歲寒? ( Rạng đông trời tròn vạnh, Chiếu rõ mâm nhà thầy. Trên đó có gì nhỉ ? Rau muống bàn để đầy. Cơm khô thìa khó múc, Canh ít đũa dễ quay. Đơn người đủ sáng tối, Lấy gì chống lạnh đây? ) “ . Mục túc phong vị 苜蓿風味 theo Nho lâm ngoại sử 儒林外史 , hồi thứ 48 : “ Ngã môn lão đệ huynh yếu thì thường khuất nhĩ lai đàm đàm, liêu bất hiềm ngã mục túc phong vị đãi mạn nhĩ 我們老弟兄要時常屈你來談 談, 料不嫌我 苜蓿風味怠慢你 ( Bọn tôi, anh em thân quen, nhiều lúc thường tới nói chuyện bù khú, chẳng nề hà rau cỏ xuề xoà ) *], ngồi ghế chẳng có đệm.
Dịch vần :
A.
Đời thường than vãn quãng đường xa,
Mọi việc đành trao cụ trời già.
Tấc lưỡi vẫn còn, nên cứ nói,
Nỗi nghèo như cũ, đáng thương ta.
Vun vút thời gian, khôn kéo lại,
Buồn tênh quán trọ, tối dài ra.
Mười năm đèn sách, nghèo vạc mặt,
Ngồi bệt, cơm ăn chỉ có cà.
B.
Vẫn thường than khó quãng đường đời,
Mọi sự đều trao mặc cụ trời.
Tấc lưỡi còn đây, lòng vẫn vững,
Cảnh nghèo như cũ, đáng thương thôi.
Đêm tưởng bằng năm, dài quán trọ,
Ngày qua vùn vụt, khó quay lui.
Công học mười năm, nghèo vẫn đó,
Ăn chỉ có rau, chẳng đệm ngồi.
Và trong bài :
Hoạ hương tiên-sinh vận giản chư đồng chí.
和鄉先生韻柬諸同志
Sầu lai “đốt đốt” mạn thư không
愁來咄咄漫書空
Thiên địa vô cùng thán chuyển bồng.
天地無窮嘆轉蓬
Thế sự hôi tâm đầu hướng bạch,
世事灰心頭向白
Suy nhan tá tửu vựng sinh hồng.
衰顏借酒暈生紅
Lãm huy nghĩ học minh dương phượng,
覽輝擬學鳴陽鳳
Viễn hại chung vi tỵ dực hồng.
遠害終為避弋鴻
Luân lạc thiên nhai câu thị khách,
淪落天涯俱是客
Niên lai xuất xử lược tương đồng.
年來出處略相同
Giải xuôi : Họa vần bài “ Gửi các đồng chí “ của ông trong làng .
Buồn đến, chỉ biết viết hai chữ ‘cha chả ‘ [* “đốt đốt” 咄咄 hệt như Ân Hạo 殷浩 đời Tấn, chán nản việc đời, cứ lấy tay viết bốn chữ ‘ Đốt đốt quái sự 咄咄怪事 ‘ ( Chà chà chuyện lạ ) trong không trung, tỏ ý bất mãn một cách tiêu cực . Đỗ Phủ 杜甫, 712 – 770 nhà thơ thời Đường 唐 trong Đối tuyết 對雪 : “ Sầu tọa đối thư không 愁坐正書空 ( Ngồi buồn viết chữ trên không ) và trong bài Kí Lưu Giáp-châu bá Hoa sử quân tứ thập vận 寄劉峽 州伯 華使君四十韻 : “ Đốt đốt ninh thư tự 咄咄寧書字 ( Sao viết chữ ” chà chà “, lên thế, ) “, cụm từ tỏ ý bất mãn một cách tiêu cực *] trong không khí [* thư không 書空 : lấy ngón tay làm bút để viết trong không, nói gọn của cụm Ân Hạo thư không 殷浩書空: Ân Hạo lấy ngón tay làm bút, viết câu “ Chà chà chuyện lạ ( Đốt đốt quái sự 咄咄怪事 ) “ vào trong không. Tham khảo Tấn thư 晉書 quyển 77 : Ân Hạo truyện 殷浩傳 . Vào thời Tấn, Ân Hạo được lệnh mang quân đi đánh dẹp vùng biên giới, để giữ yên vùng trung nguyên. Sau khi bị bại trận ở Diêu-tương 姚襄, khiến cho Hoàn Ôn 桓溫 khiến trách, Ân Hạo bị truất phế thành thường dân . Không tỏ ý bất mãn, mà chỉ suốt ngày ngồi lấy ngón tay viết lên không trung bốn chữ “ Đốt đốt quái sự 咄咄怪事 “. Sau này cụm từ dùng chỉ chuyện kì quặc, không nói lên được. Nguyên đại tướng Hoàn Ôn và Ân Hạo vốn bất hoà. Khi Ân Hạo đang giữ chức Dương-châu thứ sử 揚州刺史, Vương hi Chi 王羲之 có khuyên Ân Hạo, thế địch đang mạnh, nên coi việc nước là trọng, Ân Hạo không nghe, nhận nhiệm vụ đi đánh dẹp phía bắc, thua trận nên mới bị phát vãng tới Tín-an 信安, trong lòng bất bình mà không nói ra lời được. Lưu nghĩa Khánh 劉義慶, 403 – 444, nhà văn nước Tống 宋 thời Nam Bắc triều 南北朝, trong Thế thuyết tân ngữ 世說新語, chương Truất miễn 黜免: “ Ân trung quân ( Ân Hạo ) bị phế tại Tín-an, chung nhật hằng thư không tác tự , Dương- châu lại dân tầm nghĩa trục chi, thiết thị, duy tác ‘ đốt đốt quái sự ’ tứ tự nhi dĩ 殷中軍 ( 殷浩 ) 被廢在信安, 終日恆書 空作字, 揚州吏民尋義 逐之, 竊視, 唯作 ’咄咄怪事’ 四字而已 ( Quan trung-quân họ Ân ( Ân Hạo ) bị phát vãng tới Tín-an, suốt ngày viết chữ trong không. Các nhân viên ở Dương-châu tới dò coi là chữ gì, lến nhìn , chỉ thấy bốn chữ “ Chà chà chuyện lạ “ mà thôi )*], trong quãng trời đất vô cùng, thân mình xoay chuyển như cỏ bồng [* bồng蓬 : loại cỏ rễ cạn, mọc thành hình cầu, vào mùa thu lá bị khô héo, khi gió thổi cuốn đi cả cụm. Dùng để thí dụ thân thế long đong qua cụm chuyển bồng 轉蓬 . Theo Hậu Hán thư 後漢書, chương Dư phục chí 輿服志: “ Thượng cổ thánh nhân, kiến chuyển bồng thủy tri vi luân 上古聖人, 見轉蓬始知為輪 ( Thánh nhân thời cổ, thấy cỏ bồng theo gió cuốn đi mà chế ra bánh xe )”. Tào Thực 曹植, 192 – 232 , nhà thơ nước Ngụy 魏 thời Tam quốc 三國 trong bài Tạp thi 雜詩: “ Chuyển bồng li bổn căn , Phiêu diêu tùy trường phong 轉蓬離本根, 飄颻隨長風 ( Bồng cuốn rời gốc chính, lênh đênh theo gió mạnh )”. Lí Thiện 李善 chú có dẫn sách Thuyết uyển 說苑 : “ Lỗ ai công viết : Thu bồng ác kì bổn căn, mĩ kì chi diệp, thu phong nhất khởi , căn bổn bạt hĩ 魯哀公 曰 :秋蓬惡其 本根,美其枝葉, 秋風一起,根本拔矣 ( Lỗ ai công nói rằng : Cỏ bồng vào mùa thu ghét cái gốc chính của mình, mà tự hào về cái đẹp của lá, Khi gió thu vừa nổi, gốc chính bật lên cả ) “. Sầm Tham 岑參 ,715 – 770 , nhà thơ thời Đường 唐 trong Tống Kì Nhạc qui Hà-đông 送祁樂歸河東 : “ Điểu thả bất cảm phi, Tử hành như chuyển bồng 鳥且不敢飛, 子行如轉蓬 (Chim đã không dám bay, Anh đi hệt cỏ cuốn ) “. Đỗ Phủ 杜甫, 712- 770 nhà thơ thời Đường 唐 trong Tương biệt Vu-giáp tặng Nam khanh huynh Nhương tây quả viên tứ thập mẫu 將別巫峽 贈南 卿兄瀼西果 園四十畝: “ Đài trúc tố sở hảo, Bình bồng vô định cư 苔竹素所 好, 萍蓬無定居 ( Rêu trúc phô vẻ đẹp, Bèo, bồng cứ nổi trôi. ) “ *] . Đối với việc đời, lòng mình đã thành tro nguội, đầu lại bạc, sắc mặt cằn cỗi, nên mượn rượu làm cho ửng hồng. Nhìn thấy vẻ sáng nên muốn học con chim phượng kêu dưới ánh dương [* Minh dương phượng 鳴陽鳳 tương tự với cụm Minh phượng triều dương 鳴鳳朝陽: tỏ ý kính trọng bậc hiền tài. Người đời sau dùng chỉ bề tôi hiền gặp được vua anh minh Trong Thi Kinh 詩經, phần Đại nhã 大雅 chương Quyền A 卷阿 : “ Phượng hoàng minh hĩ, Vu bỉ cao cương. Ngô đồng sinh hĩ, Vu bỉ triêu dương 鳳皇鳴矣, 於彼高岡. 梧桐生矣, 於彼朝陽 ( Phượng hoàng kêu kià, Tại nơi gò cao. Ngô đồng mọc kìa, tại nơi nắng chói ) “. Trịnh Huyền 鄭玄 giải thích : “Phượng hoàng minh vu sơn tích chi thượng giả, cư cao thị hạ, quan khả tập chỉ, dụ hiền giả đãi lễ nãi hành, tường nhi hậu tập . Ngô đồng giả, do minh quân xuất dã . Sinh vu triêu dương giả, bị ôn nhân chi khí, diệc quân đức dã 鳳皇鳴於山 脊之上者, 居高視下, 觀可集止, 喻賢者待禮乃行, 翔而後集. 梧 桐者, 猶明君出也. 生於朝陽者, 被溫仁之氣, 亦君德也 ( Phượng hoàng kêu ở trên chóp núi, từ trên cao nhìn xuống, thấy có thể xuống đậu được, ý nói rằng kẻ hiền tài theo lễ mà hành động, lượn trước đậu sau. Ngô đồng là tượng trưng cho vua anh minh, mọc nơi ánh sáng chói lọi, có hơi ấm áp hiền hoà, cũng là đức tính của vị vua vậy ) “. Phạm thành Đại 範成大, 1126—1193 nhà thơ thời Nam Tống 南 宋 trong Lưu đức Tu thiếu khanh tị thử Huệ sơn nhân tiện kí tặng 劉德修 少卿避暑惠山因便寄贈 : “ Minh phượng triêu dương xích ngũ thiên, Thông thông hốt quá bạch âu biên 鳴鳳朝陽尺五天, 匆匆 忽過白鷗邊 ( Phượng kêu vang gần trời năm thước, Vội vàng vượt khỏi cò trắng bên ) “. Khổng bình Trọng 孔平仲 , ???- 1065- ???, nhà văn thời Bắc Tống 北 宋 trong Tục thế thuyết 續世說, chương Trực gián 直諫 : “ Tự Trử toại Lương , Hàn Viện chi tử, trung ngoại dĩ ngôn vi húy, kỉ nhị thập niên . Cập thiện cảm thủy gián , thiên hạ giai hỉ, vị chi minh phượng triêu dương 自褚遂良,韓瑗 之死, 中外以言為諱, 幾二十年. 及善感始諫, 天下皆 喜,謂 之鳴鳳朝陽 ( Từ khi Trử toại Lương, Hàn Viện qua đời, cả trong triều lẫn ngoài đều sợ không dám nói, kể đã tới hai mươi năm. Kịp tới khi có ý tốt đối với lời can, tất cả đều vui mừng, mà nói rằng chim phượng kêu nơi trời sáng chói ) “ . Lưu khắc Trang 劉剋莊, 1187 – 1269, nhà thơ thời Nam Tống 南 宋 trong Hoạ Hưng-hóa Triệu lệnh quân lương thị 和興化趙令君 良侍 , bài hai : “ Phù điện tuấn phiên thành bả miết, Minh dương phượng hóa tác hàn thiền 扶電駿翻成 跛鱉,鳴陽鳳化作寒蟬 ( Ngựa chớp nhoáng nay rùa bò hoá, Phượng véo von hoá thành ve câm ) “ *] , tránh việc dữ nên cuối cùng làm con chim hồng né cung [* tị dực 避弋 : né ná, tương đồng với kinh cung 驚弓 sợ cung . Theo Tấn thư 晉書 , quyển 71 : Vương Giám truyện 王鑒傳 : “ Độc vũ chi chúng dị động, kinh cung chi điểu nan an 黷武之眾易動, 驚弓之鳥難安 ( Bọn háu chiến dễ gây, Chim sợ cung khó tĩnh ) “ *]. Chúng ta đều là khách lưu lạc nơi phương trời, từ xưa đến nay, ra làm quan hay lui về ẩn, đều giống nhau cả!
Dịch vần :
Khi buồn , ” cha chả” viết trong không,
Trời đất mênh mang kiếp cỏ bồng.
Việc đời hoá nguội ra đầu bạc,
Mặt nhợt nên tươi cậy rượu nồng.
Mừng trời, thấy sáng mong theo phượng,
Tránh dữ, e cung lại hệt hồng.
Chân trời cùng kiếp thân lận đận,
Xuất xử lâu nay vốn rất thường!
2. Trong khi kháng chiến.
• Lê Lợi xem Bình Ngô sách, khen là phải dựa vào đấy để cùng Nguyễn Trãi vạch ra chiến lược, chiến thuật đánh quân Minh. Ngay sau khi xem Bình Ngô sách, Bình Định Vương Lê Lợi đã trao cho Nguyễn Trãi chức Tuyên Phụng đại phu Hàn lâm thừa chỉ và luôn luôn giữ ông ở bên mình để bàn mưu tính kế đánh quân Minh.
• Ngoài việc cùng Lê Lợi vạch ra chiến lược, chiến thuật, Nguyễn Trãi còn làm tất cả các công việc giao thiệp với quân Minh. Nhân danh nghĩa quân Lam Sơn, cụ thể là nhân danh Lê Lợi, Nguyễn Trãi đã viết thư cho bọn chỉ huy quân Minh như Sơn Thọ, Phương Chinh, Thái Phúc, Vương Thông, v.v… để hoặc mắng nhiếc chúng, hoặc khiêu khích chúng, hoặc dụ hàng. Nguyễn Trãi đã làm công tác địch vận rất tài tình. Chính ông đã đích thân đến thành Tam Giang ( Việt Trì ) chiêu dụ quân Minh, tướng giữ thành là Lưu Thanh đã đem toàn quân đội ra hàng. Cũng chính Nguyễn Trãi đã viết thư chiêu dụ quân Minh ở Nghệ An, Thuận Hóa, Tây Đô, các thành này đều “không phải đánh mà giặc ra hàng cả” (Đại Việt sử ký toàn thư). Tướng Minh giữ thành Nghệ An là Đô Đốc Thái Phúc đã nghe lời khuyên của Nguyễn Trãi, mở cửa thành ra hàng.
• Nhận thấy chính nghĩa của quân Lam Sơn, Thái Phúc đã đến chân thành Tây Đô để chiêu dụ quân Minh ở đấy. Thái Phúc lại bày cho quân Lam Sơn phép chế tạo công cụ đánh thành Đông Quan nữa.
• Cuối năm Bính Ngọ (1426), quân Lam Sơn bắt đầu vây đánh Đông Quan. Lê Lợi đóng bản doanh trấn Bồ Đề (thuộc xã Phú Viên, huyện Gia Lâm). Tại đây ông cho làm một cái chòi cao ngang bằng tháp Báo Thiên ở Đông Quan để ngày ngày lên đấy mà quan sát quân địch (ở Đông Quan) và chỉ huy các cuộc hành quân của quân Lam Sơn. Lê Lợi ngồi trên tầng thứ nhất của cái chòi, Nguyễn Trãi ngồi ở tầng thứ hai. Hai người thường thường bàn mưu tính kế để đánh quân Minh.
• Tháng 10 năm 1427, Liễu Thăng bị giết ở gò Mã Yên. Tình thế bọn Vương Thông ở thành Đông Quan vốn đã khốn quẫn do đó lại càng thêm khốn quẫn. Thông cho người cầm thư đến bản doanh quân Lam Sơn (ở Bồ Đề) đề nghị giảng hòa. Các tướng khuyên Lê Lợi nên tiếp tục đánh thành để giết cho hết quân giặc. Nhưng ý kiến của Nguyễn Trãi thì lại khác. Do bắt được một bức thư bí mật bọc sáp của Vương Thông gửi về nước cho vua Minh Tuyên tôn, Nguyễn Trãi biết quân Minh ở vào một tình thế buộc chúng phải cầu hòa. Vì vậy ông đã khuyên Lê Lợi nên tìm cách dụ hàng hơn là dùng lực lượng quân đội đánh Vương Thông. Nghe lời Nguyễn Trãi, Lê Lợi một mặt sai nới vòng vây, một mặt sai Nguyễn Trãi viết thư cho Vương Thông khuyên Vương Thông sớm ra hàng. Kết quả là Vương Thông không đợi lệnh vua Minh, tự ý giảng hòa với quân Lam Sơn rồi kéo quân về nước ( theo Tiên sinh sự trạng khảo của Dương Bá Cung ).
• Có lẽ trong mười năm kháng chiến chống quân Minh này, Nguyễn Trãi không có thời gian làm thơ, nhưng số lượng về văn thư quân sự, ngoại giao trao đổi với quân địch, khiến cho người sau càng khâm phục văn tài của ông. Và tột đỉnh là bài Bình Ngô đại cáo.
3. Sau khi toàn thắng.
• Khi luận công hành thưởng, Nguyễn Trãi được ban quốc tính và phong tước Quan phục hầu. Về quan chức, ông giữ chức Nhập nội hành khiển kiêm Lại bộ thượng thư quản công việc cơ mật viện. Chức vị của Nguyễn Trãi tuy lớn nhưng không đủ quan trọng để cho phép ông có thể thi thố tài kinh bang tế thế của ông. Đã thế nhiều việc làm của Lê Thái Tổ sau khi kháng chiến thắng lợi tỏ ra nhà vua nghi ngờ những nhân vật lỗi lạc đã cùng nhà vua lãnh đạo cuộc đấu tranh võ trang chống quân Minh. Năm Thuận Thiên thứ hai tức năm Kỷ Dậu (1429), nhà vua sai bắt Trần Nguyên Hãn phải nhảy xuống sông tự tử. Cuối năm Kỷ Dậu, nhà vua lại sai giết Thái úy Phạm Văn Xảo, một đệ nhất công thần khác, và tịch thu tất cả tài sản.
• Chính sử nhà Lê không chính thức nói đến việc Nguyễn Trãi bị Lê Thái Tổ bắt và hạ ngục. Nay chúng ta có đủ tài liệu để có thể tin rằng trong thời gian Trần Nguyên Hãn phải tự trầm và Phạm Văn Xảo bị giết, thì Nguyễn Trãi bị tống giam. Trong Tang thương ngẫu lục, Dương Bá Cung cho biết “Nguyễn Trãi từng có việc bị hạ ngục rồi lại bắt tha”. Trong thơ chữ Hán (của Nguyễn Trãi) có bài “Oán thán” nói về việc bị hạ ngục cho chúng ta biết rằng Nguyễn Trãi bị bắt khi ông năm mươi tuổi tức vào khoảng năm Thuận Thiên thứ hai (1429) – năm Lê Thái Tổ bắt Trần Nguyên Hãn và giết Phạm Văn Xảo. Bài thơ thứ 125 trong Quốc âm thi tập có câu:
Tội ai cho thấy nấy cam danh phận
Chớ có thân sơ mới trượng phu.
• Với những câu này, Nguyễn Trãi có ý muốn thanh minh rằng: ông là người thân của Trần Nguyên Hãn, nhưng tội của Trần Nguyên Hãn thì Nguyên Hãn chịu. Rất có thể là Nguyễn Trãi bị nghi ngờ là có liên quan đến Trần Nguyên Hãn, nên bị bắt , sau vì một lẽ nào đó lại được thả ra.
• Trong tờ biểu tạ ân khi ông được vua Lê Thái tôngtiến cử giữ chức Gián nghị đại phu kiêm Tri tam quán sự, Nguyễn Trãi có viết: “Nếu không được tiên đế ( Lê Thái Tổ ) xét rõ đáy lòng, thì hầu khiến tiểu thần ngậm cười ở nơi chín suối”.
• Như vậy rõ ràng là dưới thời Lê Thái Tổ có xảy ra việc Nguyễn Trãi bị bắt rồi lại được tha.Lê Thái Tổ tha Nguyễn Trãi, nhưng nhà vua vẫn không tin Nguyễn Trãi. Đó là lý do chủ yếu khiến cho suốt thời gian Lê Thái Tổ ở ngôi, Nguyễn Trãi không làm việc gì quan trọng cả. Bị vua nghi ngờ, ghét bỏ, nhưng ông vẫn phải làm quan. Xem Quốc âm thi tập, chúng ta có thể biết rằng Nguyễn Trãi chỉ sống ở Thăng Long một thời gian rồi ông lại về Côn-sơn để vui với cỏ cây.
• Trong Quốc âm thi tập, bài Chín bài Trần tình, bài thứ 4 :
Ngoài năm mươi tuổi ngoài chưng thế
Ắt đã tròn bằng nước ở bầu.
• Trong Toàn Việt thi lục, Lê Quý Đôn có viết rằng: “Thái tông lên ngôi thì do cố mệnh của Thái Tổ mà Nguyễn Trãi phụ chính”. Câu này làm cho chúng ta nghĩ rằng trước khi chết, Lê Thái Tổ đã nhìn thấy lầm lỗi của mình, và đã dặn Thái tử Nguyên Long (Thái Tôn) phải đặt Nguyễn Trãi lên một chức vị xứng đáng. Lê Thái tông đã làm đúng như lời cha dặn. Vì vậy, thời Lê Thái tông ở ngôi là thời Nguyễn Trãi đắc chí nhất, được trọng dụng nhất.
• Suốt trong thời gian làm quan dưới triều Lê Thái Tổ cũng như dưới triều Lê Thái Tông, lúc nào Nguyễn Trãi cũng sống một cuộc đời giản dị, cần kiệm liêm chính. Không những thơ văn của Nguyễn Trãi cho ta biết như thế, mà các nho sĩ sống cùng thời với ông như Nguyễn Mộng Tuân, Lý Tử Tán, v.v… cũng cho biết như thế.
• Tháng 5 năm Giáp Dần (1434) đời vua Lê Thánh Tông, triều đình sai Tuyên phủ sứ Nguyễn Trụ và Hoàng môn thị lang Thái Quân Thực đem biểu văn và sản vật Việt Nam sang nhà Minh cầu phong. Biểu văn do Nguyễn Trãi soạn.
• Xem biểu văn, viên Nội mật viện Nguyễn Thúc Huệ và viên học sĩ Lê Cảnh Xước muốn đổi vài chữ. Nguyễn Trãi nổi giận mắng vào mặt chúng rằng: “ – Đổi với chác gì? Hai ông giỏi sao không viết thay tôi? Hiện nay trong nước đương hạn hán, mà sở dĩ có tai nạn ấy, chính là tự lũ các ông. Các ông chỉ là đồ thích sưu cao thuế nặng, vơ vét của dân cho nhiều, nên trời mới giáng tai tỏ ý trừng phạt. “. Nguyễn Thúc Huệ đem câu nói này mách với Lê Sát và Lê Vấn là những nhân vật đang nắm giữ chức quyền lúc bấy giờ. Lê Vấn giận lắm, nói với Nguyễn Trãi rằng: “ – Gây ra tai nạn không phải là lỗi tại bọn ty thuộc, mà chính bởi vua và tướng, sao ông quở trách nặng lời như vậy? “. Nguyễn Trãi trả lời:: “ – Thúc Huệ là kẻ tài thì rất thông thường, mà lại hay có thói bòn vét, hẳn ở địa vị then chốt, mỗi khi có việc tâu bày chỉ thấy bàn sự đục khoét của dân cho nặng để làm giàu cho công khố cốt làm vui lòng quân thượng.”. Cũng năm 1434, có bảy tên tội tái phạm đáng tội tử hình. Lê Sát và Lê Ngân phân vân không biết xử trí ra sao. Vua Thái tông hỏi Nguyễn Trãi, thì ông nói: “ – Hình phạt không bằng nhân nghĩa là rõ ràng rồi. Bây giờ một lúc giết bảy mạng người e không phải việc có đức cao. Kinh thư có nói: “An như chi” nghĩa là phải làm cho được đúng chỗ. Thí dụ như trong cung là đúng chỗ của Bệ hạ, thỉnh thoảng có đi tuần du chỗ khác, thì không thường được thoải mái, đến khi trở về cung mới thật đúng chỗ, ông vua đối với nhân nghĩa cũng vậy.Lê Sát nói với Nguyễn Trãi: “ – Ông là người nhân nghĩa có thể cảm hóa kẻ ác trở nên người thiện, thì đây xin giao bọn cướp cho ông. “ Nguyễn Trãi nói: “ – Bọn chúng là đồ hung ác, gian giảo, pháp luật và chế độ của triều đình không răn chữa được chúng, nữa là Trãi này có đức độ gì mà cảm hóa nổi.” Cuối cùng triều đình vẫn nghe lời Nguyễn Trãi, chỉ đem chém hai đứa cầm đầu, còn năm tên khác thì chỉ khép vào tội lưu mà thôi.
• Tháng giêng năm Đinh Tỵ (1437), niên hiệu Thiệu Bình thứ tư, vua Thái tông sai Nguyễn Trãi và hoạn quan là Lương Đăng trông nom việc làm xe loan và thẩm định nhã nhạc. Nhân dịp này Nguyễn Trãi đã nói với Thái tông như sau: “ – Thời loạn thì dùng võ, thời bình thì dùng văn: Ngày nay định ra lễ nhạc chính là phải thời lắm. Song không có gốc thì không thể đứng vững, không có văn thì không thể lưu hành. Hòa bình là gốc của nhạc, thanh âm là văn của nhạc. Thần vâng theo chiếu chỉ thẩm định nhã nhạc, không dám không hết lòng. Song học vấn sơ sài, nông cạn sơ trong áng thanh luật khó làm cho được hài hòa. Dám mong bệ hạ rủ lòng yêu thương và chăm nuôi muôn dân khiến cho trong thôn cùng xóm vắng, không có một tiếng hờn giận oán sầu. Đó tức là giữ được cái gốc của nhạc. “ Vua Thái tông khen và chấp nhận lời tâu của Nguyễn Trãi ( Việt sử thông giám cương mục tập IX, trang 60-91).
• Tháng 11 năm Đinh Tỵ (1437), Lương Đăng dâng kiến nghị về các mục nghi thức của các buổi lễ coi chầu hoặc yến tiệc trong những ngày sinh nhật nhà vua hay Tết Nguyên đán, v.v… Nguyễn Trãi cùng với bọn Nguyễn Truyền, Đào Công Soạn, Nguyễn Văn Huyến và Nguyễn Liễu tâu rằng: “ – Lễ nhạc là cốt ở ngoài mới đặt ra được. Phải là bậc tài thức như Chu Công rồi sau mới không thể chê trách được việc đặt lễ tế nhạc. Nay nhà vua để cho hạng bầy tôi hèn mọn ở trong cung chuyên việc xếp đặt lễ nhạc, như vậy chẳng tủi nhục cho nước nhà lắm sao? Vả lại việc làm của Đăng đều là dối vua lừa dưới không căn cứ vào đâu cả… Lương Đăng là tên bầy tôi hèn mọn ra vào nơi cung cấm, hầu hạ ở bên vua, như vậy chúng tôi trộm lấy làm ngờ lắm. “ Lương Đăng tâu: “ – Thần là kẻ vô học, không biết chế độ thời xưa ra sao. Những việc bây giờ làm đó chỉ là biết thế nào làm thế ấy mà thôi. “ Nguyễn Liễu tâu: “ – Từ xưa đến nay chưa có bao giờ hoạn quan lại tự chuyên làm nát thiên hạ như vậy. “. Bỗng một tên quan là Đinh Thắng từ trong nội đi ra, mắng lớn lên rằng: “ – Hoạn quan làm gì mà nát thiên hạ? Nếu nát thiên hạ thì phải chém đầu mày! “ Vua Thái tông liền giao Nguyễn Liễu cho hình quan xét xử. Kết quả Liễu bị kết tội chém đầu. Nhưng vua hạ chiếu giáng xuống tội thích chữ vào mặt và đày đi nơi xa.
• Sau việc này, hình như Nguyễn Trãi buồn lắm, nên ông xin về Côn-sơn hưu trí vào khoảng cuối năm 1437 hay đầu năm 1438 gì đó. Nhưng đến năm 1439, vua Thái tông lại xuống chiếu vời ông ra giữ chức cũ kiêm Trung thư sảnh tri tam quân sự, và coi cả việc quân và dân ở hai đạo Đông Bắc.
• Tháng 3 năm Nhâm Tuất (1442), Nguyễn Trãi với danh nghĩa là Hàn lâm viện thừa chỉ kiêm Quốc Tử Giám ra chủ trì kỳ thi tiến sĩ và đã lấy Nguyễn Trực đỗ Trạng nguyên.Những năm làm quan dưới triều Lê Thái Tông, nhất là từ năm 1439 trở về sau, Nguyễn Trãi sống những ngày tương đối hả hê, thoải mái. Hồi này vua Thái tông đã mười bảy mười tám tuổi. Vị vua trẻ tuổi này bắt đầu nhìn thấy sự thật của cuộc đời. Nhà vua đã nắm lấy quyền hành và thẳng tay trừng trị bọn quyền thần: cách chức Tể tướng Lê Sát, giết Đăng Đắc, giáng chức bọn chân tay của Lê Sát và Lê Văn Vinh, Lê Hi, và cuối cùng giết cả Lê Sát và Lê Ngân. Đọc những câu thơ sau đây trong tờ biểu tạ ân sẽ thấy rõ sự hả hê của Nguyễn Trãi: “ Thương thần như ngựa đến tuổi già, còn kham rong ruổi, Cho thần như thông quan năm rét, còn rạn tuyết sương Quần ngôn mặc kệ dèm pha: Thánh ý cứ bền tín nhiệm. Khiến cho suy nát trở lại quanh hoa Chức giữ Đông dài thực việc triều đình rất trọng. Việc kiêm tan quán ấy điều nho giả cực vinh. Huống ban quốc tính để rạng tông môn, Lại với công thần xếp cùng hàng liệt. Cảm mà chảy nước mắt, mừng mà sợ trong lòng. “ Tuy Nguyễn Trãi trở lại nhận chức vị của triều đình, nhưng Lê Thái tôngvẫn cho ông được ở Côn-sơn để làm việc, nhất là để chỉ huy công việc ở hai đạo Đông Bắc. Do đó, hằng ngày Nguyễn Trãi vẫn ở Côn-sơn, thỉnh thoảng ông mới về triều.
Côn-sơn ca.
崑山歌
Côn-sơn hữu tuyền,
崑 山 有 泉,
Kì thanh lãnh lãnh nhiên,
其 聲 冷 冷 然,
Ngô dĩ vi cầm huyền.
吾 以 為 琴 弦。
Côn-sơn hữu thạch,
崑 山 有 石,
Vũ tẩy đài phô bích,
雨 洗 苔 鋪 碧,
Ngô dĩ vi điệm tịch.
吾 以 為 簞 席。
Nham trung hữu tùng,
岩 中 有 松,
Vạn lí thúy đồng đồng,
萬 里 翠 童 童,
Ngô ư thị hồ yển tức kì trung.
吾 於 是 乎 偃 息 其 中。
Lâm trung hữu trúc,
林 中 有 竹,
Thiên mẫu ấn hàn lục,
千 畝 印 寒 綠,
Ngô ư thị hồ ngâm khiếu kì trắc.
吾 於 是 乎 吟 嘯 其 側。
Vấn quân hồ bất qui khứ lai,
問 君 胡 不 歸 去 來,
Bán sinh trần thổ trường giao cốc.
半 生 塵 土 長 膠 梏。
Vạn chung cửu đỉnh hà tất nhiên,
萬 鐘 九 鼎 何 必 然,
Ẩm thủy phạn sơ tùy phận túc.
飲 水 飯 蔬 隨 分 足。
Quân bất kiến :
君 不 見:
Đổng Trác hoàng kim doanh nhất ổ,
董 卓 黃 金 盈 一 塢,
Nguyên Tải hồ tiêu bát bách hộc.
元 載 胡 椒 八 百 斛。
Hựu bất kiến:
又 不 見:
Bá Di dữ Thúc Tề,
伯 夷 與 叔 齊,
Thủ Dương ngạ tử bất thực túc.
首 陽 餓 死 不 食 粟?
Hiền ngu lưỡng giả bất tương mâu,
賢 愚 兩 不 相 侔,
Diệc các tự cầu kì sở dục.
亦 各 自 求 其 所 欲。
Nhân sinh bách tuế nội,
人 生 百 歲 內,
Tất cánh đồng thảo mộc.
畢 竟 同 草 木。
Hoan bi ưu lạc điệt vãng lai,
歡 悲 憂 樂 迭 往 來,
Nhất vinh nhất tạ hoàn tương tục.
一 榮 一 謝 還 相 續。
Khâu sơn hoa ốc diệc ngẫu nhiên,
丘 山 華 屋 亦 偶 然,
Tử hậu thùy vinh cánh thùy nhục.
死 後 誰 榮 更 誰 辱。
Nhân gian nhược hữu Sào Do đồ,
人 間 箬 有 巢 由 徒,
Khuyến cừ thính ngã sơn trung khúc.
勸 渠 聽 我 山 中 曲。
Giải xuôi : Bài ca về cảnh Côn -sơn.
Côn-sơn có suối; tiếng suối reo trong trẻo làm sao; ta coi nó như tiếng đàn vậy. Côn-sơn có đá; mưa thấm nhuần khiến rêu nẩy màu xanh biếc; ta lấy đó làm chiếu nằm. Trong khe có thông; vạn dặm màu xanh bát ngát; ta nhân đó mà nằm nghỉ ngơi dưới bóng. Trong rừng có trúc; ngàn mẫu nổi màu xanh rờn; ta nhân đó mà hát nghêu ngao ở dưới gốc. Ta hỏi mi sao chẳng chịu đi về cho rồi; đã nửa đời chìm trong cảnh bụi bậm mà cứ còn bon chen hoài. Vạn chuông, chín vạc [* sống trong cảnh giàu sang, thành ngữ Trung quốc ‘ chung minh đỉnh thực 鍾鳴鼎食 ‘ : nhà nhiều khách khứa khi ăn phải đánh chuông báo hiệu, và nấu bằng những vạc lớn. Chung 鍾 : một loại nhạc khí thời cổ và đỉnh 鼎 nồi lớn nấu cơm cho nhiều người ăn. Tới bữa, đánh chuông và nồi bày la liệt. Cụm từ xuất phát từ Sử kí 史記 của Tư mã Thiên, chương Hoá thực liệt truyện 貨殖列傳:” Sái tước, bạc kĩ dã , nhi Chất thị đỉnh thực. Mã y thiển phương, trương lí kích chung 灑削, 薄技也, 而郅氏鼎食. 馬醫淺方, 張裏擊鍾 ( Đã không có tài mài dao mà anh chàng họ Chất lại đãi ăn bằng đỉnh , Không biết cách xử sự khi gặp cảnh khó khăn , mà trong nhà lại khua chuông) “. Đời Đường 唐, Vương Bột 王勃 , trong bài “ Đằng vương các tự 滕王閣序” có viết : ” Lư diêm phác địa, chung minh đỉnh thực chi gia 闾閻撲地, 鍾鳴鼎食之家 *] có ra cái gì đâu; uống nước lã, ăn rau, cứ theo phận mình là đầy đủ rồi. Mi lại không thấy sao : Đổng Trác [* Đổng Trác 董卓, tên người, ?? – 192 tự là Trọng Dĩnh 仲穎, người tời Hán 漢 vùng Lâm-thao 臨洮 ( nay là huyện Mân 岷縣 tỉnh Cam-túc 甘肅省 ) . Đời vua Tuyên đế 桓帝 , giữ chức vũ lâm lang 羽林郎, sang đời vua Linh đế 靈帝 nắm chức tiền tướng quân 前將軍. Khi Linh đế qua đời mang quân về kinh sư, giết bọn hoạn quan, bỏ vua Thiếu đế 少帝, lập vua Hiến đế 獻帝, giết thái hậu , tự đảm nhiệm chức thái sư , dâm loạn hung bạo . Phe đảng Viên Thiệu 袁紹 nhân đó khởi binh thảo phạt Đổng Trác, nhưng sau đó y bị Lữ Bố 呂布 giết chết. *] có vàng chất đầy kho; Nguyên Tải [* Nguyên Tải 元載 , tên người , ?- 777 , tự là Công Phụ 公輔 , người vùng Kì-sơn 岐山, Phượng- tường 鳳翔 ( nay là Kì sơn, Thiểm tây 陝西 ) . Thời nhỏ gia đình nghèo khổ . Đời vua Túc tông làm quan tới chức thị lang bộ hộ , chức độ chi sứ 度支使 kiêm chư đạo chuyển vận sứ 諸道轉運使 coi về tổng ngân khố nhà nước. Sau này câu kết cùng hoạn quan Lí phụ Quốc 李輔國, được thăng giữ chức tể tướng 宰相. Khi Đại tông 代宗 lên ngôi, y vẫn còn được làm tể tướng . Hắn thâm thụt ngân quỹ , dùng tiền mua chuộc hoạn quan Đổng Tú 董秀, nên càng được Đại Tông tin dùng. Hắn càng lộng hành, nhưng cuối cùng vào năm Đại lịch thứ mười ( 777 ) bị nhà vua ra lệnh giết. *] có đến tám trăm thùng hồ tiêu [* Khi kiểm tra tài sản nhà Nguyên Tải ngoài vàng bạc châu báu , còn có đến tám trăm thùng hồ tiêu ( Hồ tiêu sao xuất bát bách thạch胡椒抄出八百 石 ) *]. Mi cũng chẳng thấy : Bá Di với Thúc Tề [* Bá Di 伯夷 : vào cuối đời nhà Thương 商, là con của vua nước Cô Trúc 孤竹 cùng với em là Thúc Tề 叔齊 đã phản đối nhà Chu vì đã không ngăn cản được vua nhà Chu là Chu vũ Vương 周武王 diệt nhà Thương. Hai ông đã bỏ vào núi Thủ-dương hái rau vi mà sống, không chịu ăn thóc nhà Chu cho đến chết *] ; không chịu ăn thóc [* của nhà Chu *] đã thà chết đói nơi núi Thủ-dương [* Thủ dương 首陽 : tên núi, còn có tên là Lôi thủ sơn 雷首山, tương truyền là nơi Bá Di, Thúc Tề náu ẩn hái rau vi mà sống. Trong Thi Kinh 詩經, phần Quốc phong 國風 chương Đường phong 唐風, chương Thái linh 採苓 : “Thái linh thái linh, Thủ dương chi điên 採苓採苓, 首陽 之巔 ( Hái rau, hái rau, Trên đỉnh Thủ-dương ) “.” Họ Mao 毛 chú : ’ Thủ dương , sơn danh dã 首陽, 山名也 ‘ Theo Mao thi chính nghĩa 毛詩正義, chương Đường phổ 唐譜 thì “ Đường 唐 là tên nước mà vua Chu thành Vương 周成王 phong cho người em Nghiêu 虞, con ông này là Tiếp 燮 đối tên nước thành Tấn 晉, là dải đất chạy dọc sông Phần 汾水 vùng Thái-nguyên 太原 thuộc tỉnh Sơn-tây ngày nay . Vậy toàn thể chương “ Đường phong ” trong Kinh Thi là những bài dân ca mô tả sinh hoạt của vùng này. Chu Hi 朱熹 , người đời Tống, khi chú giải Kinh Thi, có nói :” Kì thi bất vị chi Tấn nhi vị chi Đường , cái nhưng kì thủy phong chi cựu hiệu nhĩ 其詩不謂之晉 而謂之唐,蓋仍其始封之舊號耳 ( Những bài thơ này không gọi là phong tục vùng Tấn mà gọi là phong tục vùng Đường chỉ vì rằng muốn tôn trọng cái tên được phong tặng trước kia ) “ *]. Người hiền với kẻ ngu, dù không giống nhau; nhưng họ đã cùng đạt được cái mình muốn. Trong đời người dài trăm năm; cuối cùng cũng như cây cỏ thôi. Vui, mừng, sướng khổ cứ đổi thay nhau; lúc tươi khi héo cứ tuần tự thay nhau. [* Dù là khi chết *] Gò núi [* sơn khâu 山丘, chỉ phần mộ 墳墓 , mồ mả khi chết. Giang Yêm 江淹 ,444 – 505, nhà thơ nước Lương 梁 , thời Nam Bắc triều 南北朝, trong Hoài cựu thi thương Vương Kham 懷舊詩 傷王諶 :“Hoan yến vị chung tất, Linh lạc ủy sơn khâu 歡宴未終畢, 零落委山丘 ( Tiệc vui chưa chấm dứt, Lạnh lẽo vùi dưới mồ. ) “ *] hay [* khi còn sống *] nhà đẹp [* Hoa ốc 華屋 : căn nhà lộng lẫy lúc sống. Tào Thực 曹植 , 192 – 232, nhà thơ nước Ngụy 魏 thời Tam quốc 三國 trong Không hầu dẫn 箜篌引 :” Thịnh thì bất khả tái, Bách niên hốt ngã tù. Sinh tồn hoa ốc xứ, linh lạc qui sơn khâu 盛時不可再,百年忽我遒; 生在華 屋處,零落 歸山丘 ‘ ( Lúc vui không có mãi, Trăm năm cứ qua vù. Lúc sống ở nhà đẹp, chết rồi về núi gò )*] đó cũng là do ngẫu nhiên; sau khi chết rồi có còn ai vinh với ai nhục. Đời nay nếu có người nào giống như Sào, Do [* Sào Do 巢由 : nói gom tên hai người Sào Phủ 巢父 và Hứa Do 許由, hai vị cao sĩ thời vua Nghiêu, Trung quốc, không muốn nghe nói đến lợi, danh, ở ẩn trong núi rừng . Hứa Do tự là Vũ Trọng 武仲, vua Nghiêu nghe nói ông ta là người hiền , bèn đem đất nước mà trao cho ông, ông bèn lánh vào trong rừng, mạn bắc sông Dĩnh , dưới núi Kì ( Dĩnh thủy chi dương, Kì sơn chi hạ 潁水之陽,箕山之下 ) . Sào Phủ dữ Hứa Do : khi vua Nghiêu ngỏ ý nhường thiên hạ , Hứa Do đã bỏ vào rừng rồi, mà vua Nghiêu còn tiếp tục mời ông làm chủ chín châu ( Cửu châu 九州: chỉ lãnh thổ Trung Hoa thời cổ ), Hứa Do xuống suối rửa tai. Ngay khi đó có Sào Phủ 巢父 đang cho trâu uống nước, thấy cảnh Hứa Do rửa tai, hỏi nguyên nhân. Đáp rằng “ Vua Nghiêu muốn tôi ra làm chủ chín châu, ghét nghe câu đó, nên xuống suối rửa tai ( Nghiêu dục triệu ngã vi cửu châu trường, ố văn kì thanh, thị cố tẩy nhĩ 堯欲召我為九州長, 惡聞其聲, 是故洗耳 ). Sào Phủ nghe thế nói rằng :” Ông đã ở trong vùng núi cao hang sâu , người đi không tới, Ai là kẻ có thể gặp được ông. Lòng ông vẫn còn ham cảnh phù du , muốn được người nghe nói đến tên mình , tôi sợ nước rửa tai của ông làm bẩn miệng con trâu của tôi.( Tử nhược xử cao ngạn thâm cốc, nhân đạo bất thông , thùy năng kiến tử ? tử cố phù du , dục văn cầu kì danh dự. ô ngô độc khẩu 子若處高岸深谷, 人道不通, 誰能見子?子故浮游, 欲聞求其 名譽. 污吾 犢口 )’. Nói xong Sào Phủ giắt trâu lên đầu nguồn cho trâu uống nước. *], Thì xin mời lắng nghe ta hát bài ca trong núi.
Dịch vần :
A.
Côn-sơn suối mát,
Tiếng nước rơi róc rách,
Ta coi là đàn hát.
Côn-sơn đá phẳng,
Mưa tưới rêu mượt bóng,
Ta lấy làm chiếu chõng.
Trong khe có thông,
Vạn dặm xanh một vùng,
Ta nương bóng nghỉ ngơi thật thong dong.
Trong rừng có trúc,
Ngàn mẫu in màu lục,
Ta nhờ đó mà nghêu ngao dưới gốc.
Hỏi ngươi sao chẳng về cho rồi,
Nửa đời bụi bám, còn lăn lóc.
Vạn chuông, chín vạc có ra gì,
Nước lã, cơm rau, đủ tùy lúc.
Ngươi chẳng thấy :
Đổng Trác, vàng bạc đầy một kho,
Nguyên Tải, hồ tiêu tám trăm hộc.
Lại chẳng thấy :
Bá Di với Thúc Tề,
Thủ Dương đói chết, không ăn thóc.
Hiền, ngu hai cái tuy khác nhau,
Nhưng cái mình ước đều đạt được.
Trăm năm, một đời người,
Như cây cỏ, rốt cuộc.
Vui buồn, lo sướng cứ thay phiên,
Khi tươi, lúc héo thường liên tục.
Gò núi, lầu hoa do ngẫu nhiên,
Chết rồi còn có ai vinh, nhục.
Đời nay bạn Sào, Hứa nếu còn,
Hãy vào núi nghe ta ca khúc.
B.
Côn-sơn có suối trong veo,
Thác nước đổ xuống tiếng reo rầm rầm.
Ta coi đó là đàn cầm,
Côn-sơn có đá như bàn phẳng phiu.
Mưa rơi thấm ướt nẩy rêu,
Chiếu êm thảm mượt là điều ta mong.
Trong núi có mọc đầy thông,
Muôn dặm xanh biếc một vùng mênh mông.
Tha hồ ta nghỉ ở trong,
Lại thêm trúc mọc đầy rừng xanh tươi.
Ngàn mẫu in sắc lạnh người,
Thảnh thơi bên gốc ta thời ngâm nga.
Còn ngươi sao chẳng về cho,
Nửa đời cát bụi vẫn lò dò đi.
Muôn chung ngàn đỉnh ra gì,
Cơm rau nước lã miễn khi đủ dùng.
Ngươi chẳng thấy :
Đổng Trác vàng bạc đầy vung,
Nguyên Tải, có tám trăm thùng hồ tiêu.
Lại chẳng thấy :
Bá Di, Thúc Tề rủ nhau
Thủ-dương đói chết, chẳng cầu thóc Chu .
Hiền ngu có khác gì đâu,
Nhưng cùng thoả mãn điều cầu đấy thôi.
Trăm năm là cõi con người,
Cuối cùng tàn rũ như đời cỏ cây.
Vui buồn, sướng khổ luôn thay,
Khi tươi, khi héo kéo bày theo nhau.
Ngẫu nhiên : gò núi, lầu cao,
Chết rồi vinh nhục ai nào biết cho.
Đời nay còn có Sào, Do,
Xin mời vào núi nghe ta hát hò.
Vụ án vườn Lệ-chi
• Mọi việc đang diễn ra tốt đẹp, thì đánh đùng một cái, vụ án Lệ Chi viên xảy ra như một tiếng sét làm tan nát cuộc đời Nguyễn Trãi và gia tộc ông.Đầu đuôi vụ án như sau:
• Ngày 27 tháng 7 năm Nhâm Tuất niên hiệu Đại Bảo thứ ba tức ngày mồng 1 tháng 9 năm 1442, vua Lê Thái tông đến Côn-sơn thăm Nguyễn Trãi. Nguyễn Trãi có một người vợ lẽ yêu là Nguyễn Thị Lộ vừa đẹp vừa hay chữ. Thị Lộ từng được vua Thái tông vời vào triều phong cho chức Lễ nghi học sĩ giữ công việc dạy dỗ cung nhân. Khi Lê Thái Tông đến Côn-sơn thì Thị Lộ đã về đấy thăm Nguyễn Trãi từ trước. Lúc nhà vua rời Côn-sơn thì Thị Lộ được lệnh theo nhà vua về Thăng Long. Ngày mồng 4 tháng 6 năm Nhâm Tuất tức ngày mồng 7 tháng 9 năm 1442, xa giá vua Thái Tông về đến Lệ Chi viên tục gọi là Trại Vải ở làng Đạo Lai, huyện Gia Bình tỉnh Bắc Ninh (nay là huyện Gia Lương). Nửa đêm hôm ấy, nhà vua bị cảm, và đến sáng thì mất. Các quan hộ giá giữ kín tin, và đến ngày mồng 6 tháng 8 mới rước linh cữu vua về Thăng Long, Thị Lộ cũng bị bắt. Thị Lộ cũng như Nguyễn Trãi bị buộc tội là âm mưu với nhau giết vua. Tại sao triều đình nhà Lê lại khoác vào cổ Nguyễn Trãi, người đã dày công chiến đấu gian khổ để dựng ra nó, cái tội tày đình như thế?
• Lê Thái tông có 5 vợ. Trong số năm người vợ này có Nguyễn Thị Anh và Ngô Thị Ngọc Dao. Nguyễn Thị Anh sinh ra Bang Cơ được phong làm thái tử. Nguyễn Thị Anh biết bà phi Ngô Thị Ngọc Dao đang có mang và nằm chiêm bao thấy Ngọc Hoàng thượng đế sai một vị tiên đồng đầu thai vào bà Ngọc Dao. Thị Anh sợ rằng khi bà Ngọc Dao sinh hạ quý tử, thì cái ngôi thái tử của Bang Cơ sẽ không còn nữa. Thị Anh bèn tìm đủ cách để hãm hại bà Ngô Thị Ngọc Dao. Thị Anh đã từng vu cho bà Ngọc Dao có dính líu vào vụ làm bùa của bà Huệ phi và có ý làm hại thái tử. Chính Thị Anh đã xui Thái tông khép bà Ngọc Dao vào tội voi giày.
• Nguyễn Trãi đã tìm cách cứu bà Ngọc Dao. Ông bảo Thị Lộ khuyên vua Thái tông không nên nghe lời xúc xiểm mà làm một việc thất đức. Nghe lời Thị Lộ, vua Thái tông đã cho phép đưa bà Ngô Thị Ngọc Dao giấu ở chùa Huy Văn. Ở đây vài tháng sau, bà Ngọc Dao đã sinh ra một người con trai đặt tên là Tư Thành (vua Thánh Tông sau này). Để tránh sự mưu hại của Nguyễn Thị Anh, Nguyễn Trãi đưa hai mẹ con bà Ngọc Dao ra An Bang (Quảng Ninh ngày nay). Những việc này cuối cùng đến tai Nguyễn Thị Anh. Từ đấy Thị Anh đâm thù Nguyễn Trãi và Thị Lộ. Thị đang chờ cơ hội để trả thù, thì xảy ra vụ Thái tông đột nhiên chết ở Lệ Chi viên. Thế là bà nắm ngay lấy việc này để trả thù. Bà lại càng dễ trả thù, sau khi Bang Cơ, mới hai tuổi, được lên ngôi vua và bà được ra thính chính. Bọn gian thần cũng căm thù Nguyễn Trãi, chúng vẫn coi Nguyễn Trãi là cái gai ở triều đình. Khi xảy ra vụ án Lệ Chi viên, chúng liền vào hùa với nhau để cùng với Thị Anh hãm hại Nguyễn Trãi và gia tộc ông.
• Như trên đã nói, sau khi đưa linh cữu Thái tông về Thăng Long, Nguyễn Thị Lộ bị bắt, và sau đó Nguyễn Trãi cũng bị bắt. Nguyễn Thị Lộ bị tra tấn cực kỳ dã man. Khi mang Thị Lộ ra thẩm vấn, trước sau hình quan chỉ hỏi Thị Lộ có một câu: – Có phải mày đã tiến độc cho đức Đại Hành Hoàng đế, và cáo mưu thị nghịch là do Nguyễn Trãi không? Do bị tra tấn quá tàn nhẫn, Thị Lộ đành phải nhận tất cả các tội lỗi mà bọn hình quan đã bày đặt ra theo một lệnh không biết từ đâu. Thế rồi cả gia quyến Nguyễn Trãi bị bắt giam: con gái bị sung làm nô tỳ ở cung vua hay ở các nhà quan, con trai thì chờ ngày ra pháp trường chịu tội tử hình.
• Vào cái ngày đau xót không những cho Nguyễn Trãi mà còn cho cả dân tộc nữa, là ngày 16 tháng 8 năm Nhâm Tuất tức ngày 19 tháng 9 năm 1442: Nguyễn Trãi và gia tộc đã rụng đầu dưới lưỡi dao oan nghiệt của cái triều đình hèn hạ và ngu muội mà chính ông đã chiến đấu gian khổ để dựng nên.
• Hai mươi hai năm sau, vào năm Quang Thuận thứ 5 tức năm 1464, nhìn thấy nỗi oan uổng của Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông mới xuống chiếu tẩy oan cho ông. Nguyễn Trãi được vua Lê Thánh Tông truy phong chức Đặc tiến kim tử Vinh Lộc đại phu trước Tán trù bá và cho một người con duy nhất trốn , thoát nạn tru di là Nguyễn Anh Vũ làm tri huyện. Nhà vua lại cấp cho gia đình họ Nguyễn một trăm mẫu ruộng để dùng vào việc thờ cúng. Và vua Lê thánh Tông đã ca ngợi tấm lòng trong sáng của Nguyễn Trãi :
Ức Trai tâm thượng quang khuê tảo.
抑 齋 心 上 光 奎 早
( Ức Trai lòng sáng tựa sao Khuê )
Lê Thánh Tông
Phạm Doanh
Góp ý xin l/l Phamdoanh1999@gmail.com
( Trích đoạn trong Nguyễn phi Khanh & Nguyễn Trãi : Hai đời chung một luồng thơ Chữ , sắp xuất bản).
Tư liệu tham khảo :
1. Văn Tân et als ( Eds ) : Nguyễn Trãi Toàn Tập , Nhà xuất bản Khoa-học Xã-hội, Hà-nội 1969 , 798 pps.
2 Lê cao Phan (Trans. ) : Ức Trai thi tập , Nhà xuất bản Văn-học, 2000, 447 pps.
.3 Phan sĩ Tấn et als ̣( Eds ): Thơ văn Nguyễn Trãi , Nhà xuất bản Giáo-dục 1980, 256 pps.
4 Hoàng công Khanh : Vằng vặc sao Khuê, Nhà xuất bản Văn-học, Hà-nội , 1998 779 pps