Đào Hiếu Thảo/Th2
Cố Thủ tướng Anh Quốc Winston Churchill đã nói về chế độ tư bản và chủ thuyết cộng sản như sau: “Tư bản là tạo điều kiện cho mọi người giàu có, nhưng không bằng nhau, còn Cộng sản là đưa mọi người tới chỗ nghèo khó như nhau!”
Cuộc “đổi đời” ở Miền Nam Việt Nam vào ngày 30 tháng 4 đen năm 1975 đã minh chứng rõ rệt điều ấy, ra đường phố thấy toàn dân đi xe đạp, xăng dầu khan hiếm, các cây xăng tư nhân bị đóng cửa, giá cả thì tăng đến chóng mặt, trên khắp nẻo đường Saigon mọc lên những điểm bán xăng lẻ, trong những chai một lít hay 75 cl.
Khách mua xăng/dầu toàn là cán binh VC, “bộ đội nón cối”, “những người chủ mới” của đất nước, không biết từ đâu và bằng cách nào họ đã nhanh chóng sở hữu đủ loại xe gắn máy Honda, Yamaha, Suzuki và tai nạn lưu thông xảy ra như cơm bữa. Từ rừng núi, đường mòn, mật khu, tràn về ngập Saigon, bộ đội Hồ Tặc nào có biết luật đi đường trong xã hội văn minh, tiến bộ là gì?
Dân chúng Saigon kể với nhau những chuyện không thể nín cười như: “Đang luồn lách trên đường phố, lọng cọng vì chưa biết chạy xe gắn máy, một lính Bắc Việt “bộ đội” đụng phải bà lão đang băng qua đường, làm bà té nhào. Tên bộ đội gắt-Tôi cố tránh né không muốn va xe vào người bà, bà có biết không?- Bà lão thản nhiên đáp -Tôi cũng cố tránh né các cậu từ năm 54 đến giờ, chẳng may phải gặp lại, thế cậu có biết không hả?-”.
Trong xã hội mới, dân tình còn chưa hết âu lo, băn khoăn, sợ sệt “chính quyền cách mạng”, một cái chánh quyền chuyên quản lý con người bằng súng đạn, hơi cay, kiểm soát cái bao tử thì không ai bảo ai, mọi người đều tự mặc những bộ quần áo cũ, rách rưới cho ra vẻ dân lao động để tránh bị nhà cầm quyền CS liệt kê vào thành phần tư sản, mại bản, bị gán cho là “giai cấp bóc lột, ăn trên ngồi trước, làm giàu trên xương máu dân lành” và rồi, sớm muộn gì cũng bị họ tìm cách trấn lột tận xương tủy.
Bao nhiêu quần áo còn tươm tất hoặc mới, đồ đạc và máy móc trong nhà đều lần lượt theo nhau ra các chợ trời, những món hàng này được “bộ đội” đặc biệt chiếu cố, vơ vét và chuyên chở hết mọi “chiến lợi phẩm” ra ngoài Bắc bằng đủ mọi phương tiện. Ngoài đường chỉ còn thấy người ta mặc những bộ áo quần màu sậm, nâu, xám hay toàn đen trắng như để tang cho một đất nước bị bức tử, bổng dưng biến mất, bị xoá bỏ, cũng như quyền làm người ngày càng bị VC công khai tước đoạt.
Ngày qua ngày, tôi không tài nào tìm được một công việc dù nhỏ nhoi, dù phải lao động chân tay để đổi ra chút ít cơm gạo, buôn bán thì không vốn liếng và cũng chưa bao giờ biết mua bán ra sao, hơn nữa những anh em quân nhân chế độ cũ như tôi luôn bị an ninh phường khóm bám sát, hạch hỏi, theo dõi.
Để có tiền sống cầm hơi, cứ vài ba hôm tôi lại soạn ít đồ đạc cũ từ đôi giày đến chiếc nhẫn đưa ra chợ trời tiêu thụ. Anh em bạn gọi đó là nghề “chà đồ nhôm” tức chôm đồ nhà đi bán. Món cuối cùng tôi phải rời xa là gia sản quý nhất mà tôi cố cầm cự, đành bán chiếc xe Vespa Spring cũ với giá rẻ mạt kiếm chút tiền cho gia đình cầm cự qua ngày.
Một hôm trong lúc đang đi bộ trên vỉa hè, bỗng có hai bộ đội rất trẻ, mỗi người đeo một khẩu AK 47, chạy theo và hỏi tôi có đồng hồ Nhật muốn bán không? Đang đeo chiếc đồng hồ Seiko còn khá mới, chưa tính bán ngay, nhưng vì có người hỏi mua nên tôi muốn thử thời vận xem có được giá không. Đến hàng cà phê ở góc phố, hai bộ đội nói họ thích mua đồng hồ ngoại gởi về Hà Nội làm quà, họ nói như nằm lòng là đang tìm đồng hồ “không người lái, hai cửa sổ, 12 trụ đèn, không thấm nước” có nghĩa là tự động có ngày, tháng, có chấm lân tinh, sáng vào ban đêm.
Họ trầm trồ, mân mê, nhìn chăm bẩm, lúc lắc cái đồng hồ Seiko của tôi, thấy đã đạt đúng sở thích mà họ ước ao. Có lẽ đây là lần đầu tiên trong đời hai cán binh cộng sản này cầm được trong tay chiếc đồng hồ mà dân chúng trong Nam có thể sắm bất cứ lúc nào mình cần.
Khi nói chuyện giá cả, hai tay bộ đội dốc hết túi, đếm bạc lớn, bạc nhỏ tính ra được trên 5 ngàn tiền Hồ, mà thời giá chiếc Seiko phải gấp ba, bốn lần như thế. Họ nài nỉ quá, họ nói đồng lương bộ đội rất kém, phải chiến đấu gian lao, sinh hoạt hạn hẹp, cho nên cuối cùng tôi xiêu lòng, tháo Seiko ra, nhận nắm tiền ít ỏi, dù sao cũng mua được chút ít thực phẩm trên đường về nhà.
Cầm nắm tiền Hồ trong tay, nhìn lại mới thấy giấy in phẩm chất rất xoàng, dễ nhầu nát, dễ rách, hình vẽ thô sơ, toàn là những chân dung “Hồ Chủ Tịt”, nào là bác Hồ nghe đài hình nghiêng, bác Hồ xem tivi chụp thẳng. Người dân Saigon xem những tờ giấy bạc đó không khác nào toa thuốc bọc dầu Nhị Thiên Đường, mà những đường nét và màu sắc trong toa còn có phần hấp dẫn hơn tiền Hồ.
Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, Uỷ Ban Quân Quản Saigon-Chợ Lớn-Gia Định ra lệnh đổi tiền theo tỷ lệ một đổi một, giữa tiền cũ của Việt Nam Cộng Hoà và tiền của chính quyền mới Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà (Cộng Sản Bắc Việt).
Vào tháng 6 năm 1975, sau khi chúng tôi đã ra trình diện và đang bị nhốt trong ngục tù, họ lại khẩn ban hành lệnh đổi tiền tại Vùng Giải Phóng tức là từ vĩ tuyến 17 trở vào tận Cà Mau, các loại tiền đang lưu hành mất hết hiệu lực. Mỗi cá nhân có tên trong hộ khẩu, từ 18 tuổi trở lên chỉ được đổi mỗi người 200 đồng tiền mới phát hành. Trước ngày đổi tiền thì có lệnh giới nghiêm 24 giờ trên 24, trong 2 ngày (48 tiếng đồng hồ), không ai được ra khỏi nhà (để đổi chác, chạy chọt, đầu cơ) mọi vi phạm đều bị nghiêm trị. Sau khi giới nghiêm giải toả mọi người bắt đầu được phép mang tiền ra đổi, số tiền mà mỗi cá nhân dự trữ lâu nay vượt quá 200 đồng tiền mới, trở thành những tấm giấy lộn, vậy là nhà nước đã cướp đoạt tiền của dân một cách trắng trợn và công khai. Chưa một quốc gia nào trên thế giới, ngoại trừ cộng sản Việt Nam lại cho áp dụng biện pháp đổi tiền phi lý như vậy, một cách “bóc lột con người tận xương tuỷ”. Câu nói “cộng sản biến mọi người thành nghèo như nhau” trong hoàn cảnh này quả thật là chính xác, chẳng sai trật chút nào.
Chắc nhiều người còn nhớ, sau khi Bức Tường Ô Nhục Bá Linh sụp đổ hoàn toàn, hai nước Đông và Tây Đức thống nhất vào tháng 11 năm 1989, tiền Mark tức đồng Đức Kim bên Cộng Sản Đông Đức chỉ bằng một phần sáu đồng Đức Kim phía Dân Chủ Tây Đức. Nhưng chính phủ Cộng Hòa Liên Bang Đức quyết định nâng giá trị đồng tiền của Đông Đức lên ngang hàng với tiền của Tây Đức, có nghĩa là tài sản, vốn liếng của người dân từng sinh sống dưới chế độ cộng sản được nhân lên gấp sáu lần. Thời ấy, 72 triệu dân Tự Do, Tây Đức đồng ý dùng biện pháp kinh tế, tài chánh để thống nhất đất nước trong hoà bình, thịnh vượng với 16 triệu dân Cộng Sản Đông Đức dù họ còn thấp kém về mọi mặt sau gần một phần tư thế kỷ sống trong chính quyền Cộng Sản Đức dưới sự kềm kẹp, thống trị bằng bạo lực của nhà độc tài Erik Honecker.
Chỉ vài năm sau đời sống của người dân Đông Đức được cải tiến, phát triển nhanh chóng, hàng loạt xí nghiệp, hãng xưởng, nhà máy sản xuất được chuyển từ Tây sang Đông, xã hội Đông Bá Linh chẳng bao lâu trở nên trù phú, phồn thịnh.
Còn chuyện “Saigon Giải Phóng”, đảng và nhà nước cũng hô hào thống nhất, Nam Bắc quy về một mối, không còn sự phân biệt giữa chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà với chính phủ Cộng Hoà Miền Nam Việt Nam (tên gọi của Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam).
Lúc tiến vào Saigon, các chiến xa, xe tải Molotova đều treo cờ Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam, nửa trên màu xanh dương, nửa dưới màu đỏ, chính giữa có ngôi sao vàng. Bộ đội cũng mang trên nón cối của họ huy hiệu của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, nhưng chỉ ít hôm sau, cờ của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam đột nhiên biến mất, thay vào đó là lá cờ đỏ sao vàng xuất hiện đều khắp, nhà nhà phải tự mua và treo ở ngay mặt tiền, để “ăn mừng chiến thắng thần thánh”.
Vào tuần lễ cuối tháng 5, năm 1975, radio, tivi, báo chí phổ biến lệnh trình diện tập thể đối với tất cả các hạ sĩ quan, binh sĩ chế độ Việt Nam Cộng Hòa từ cấp binh nhì đến Chuẩn uý, nơi tập họp là trụ sở quận, phường, khóm, để tham gia lớp học tập gọi là “bồi dưỡng chính trị”, kéo dài 3 hôm. Sau khi hoàn tất khoá học các anh em được cấp giấy chứng nhận và tự do ra về làm ăn, sinh sống. Ai không tuân thủ lệnh triệu tập sẽ bị trừng phạt nghiêm khắc.
Nhớ lại Tết Mậu Thân 1968, sau khi cộng quân xâm chiếm khu vực Thừa Thiên-Huế, công chức, quân nhân của chánh quyền Saigon cũng có lệnh phải ra trình diện với “Cách Mạng”, nhưng sau đó mới biết đã có trên 10 ngàn người dân vô tội bị giết hại, chôn sống và lấp dưới những nấm mồ tập thể, khắp cố đô Huế và một số tỉnh thành khác.
Các anh em hạ sĩ quan, binh sĩ Việt Nam Cộng Hòa tham gia lớp học chính trị kể lại là họ được cán bộ cộng sản tiếp đón niềm nở, không khí buổi sinh hoạt vui vẻ, mọi người thấy yên tâm, bớt ái ngại vì thấy kẻ chiến thắng kêu gọi xoá bỏ hận thù, hoà hợp, hoà giải, hàn gắn vết thương chiến tranh, xây dựng đất nước hùng mạnh.
Sau khoá học chính trị kéo dài 3 hôm tổ chức ngay tại địa phương các anh em hạ sĩ quan, binh sĩ chế độ VNCH được tự do ra về. Chính quyền “thành Hồ” toan tính gì đây? Họ thường rêu rao là “Đánh kẻ chạy đi, không ai đánh kẻ quay trở lại”, việc thả hết các anh em hạ sĩ quan, binh sĩ về là chính sách “khoan dung, độ lượng, nhân đạo” hay chỉ là mánh khoé bịp bợm, thả con tép riu, bắt con cá mập? để đưa anh em chúng tôi vào cảnh “cá chậu, chim lồng” lâu dài?
Nhớ đến câu nói bất hủ của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu: “Đừng nghe những gì cộng sản nói mà hãy nhìn kỹ những gì cộng sản làm”. Phân vân, mình có tin được vào những lời hứa hẹn, kêu gọi, khuyến dụ của chính quyền cộng sản hay không?
Chế độ chuyên chính vô sản có bao giờ chấp nhận quyền tư hữu, chấp nhận lề lối quản lý kinh tế của tư bản mà họ cho là “người bóc lột người”, toàn dân Miền Nam Việt Nam đã bắt đầu phải đi vào phương thức làm ăn tập thể, hoàn toàn do nhà nước chỉ đạo, định đoạt và điều hành.
Giai cấp tư bản và tiểu tư sản bao gồm những công thương kỹ nghệ gia toàn Miền Nam cũng phải trình diện, học tập chính trị để biết cách thức làm ăn mới mà với họ chính là “đi vào cửa tử” hay “chết dần chết mòn”, vì mọi phương tiện sinh sống của họ đều bị đảng và nhà nước tước đoạt sạch từ những ngày đầu tháng 5 năm 1975.
Không quen với công việc lao động tay chân nay lại bị ép buộc vào sinh hoạt tập thể những người lâu nay chỉ biết sống bằng nghề buôn bán, bây giờ phải làm thợ, làm công nhân trong các hợp tác xã, nhà máy, hãng xưởng quốc doanh với đồng lương cầm hơi, họ cảm thấy cuộc sống của mình đang “đi vào ngõ cụt”. Tin tức truyền khẩu cho nhau nghe là đã có một số thương gia giàu có, tiền rừng, bạc bể phải đi tìm cái chết để tự giải thoát. Bên cạnh đó, người ta rỉ tai nhau là chỗ này, chỗ kia có những tổ chức bí mật đưa người ra khơi, trốn chạy cộng sản, nhưng cần phải chi rất nhiều vàng làm lộ phí.
Chính quyền mới cũng ban hành hàng loạt quy định (rất ngược ngạo, vô lý) trong đó có việc ngăn cấm dân chúng không được tiếp xúc với người nước ngoài với bất cứ lý do gì, mọi cuộc gặp gỡ bị xem là trái phép, lén cung cấp thông tin hoặc làm “gián điệp cho ngoại bang” là những “thế lực phản động, thù nghịch với Cách Mạng”. Việc dạy và học ngoại ngữ cũng bị triệt để ngăn cấm, các loại nhạc của Saigon trước đây bị cấm phổ biến, họ cho “Nhạc Vàng” là nhạc bệnh hoạn, uỷ mị, ru ngủ. Cấm hát, cấm nghe, sách báo, văn hoá phẩm của Miền Nam bị tịch thu và thiêu huỷ đồng loạt, bị phê bình là do ảnh hưởng của tư tưởng Mỹ Nguỵ không phù hợp với “đạo đức thế hệ Hồ Chí Minh?. Đám đông trên ba người không được tụ họp nơi công cộng nếu không xin phép trước, điều này có nghĩa là tại các giáo đường, đình chùa, thánh thất, hội quán, người dân không được tự ý đến cầu kinh, lễ bái, các vị lãnh đạo tinh thần không được phép cử hành những nghi thức tôn giáo mà cần phải có ý kiến của chính quyền sở tại.
Người ta vẫn thường nói rằng chế độ cộng sản Miền Bắc chủ trương “ngu dân” nay sự thật phơi bày, dân chúng Miền Nam ai nấy đều “sáng mắt” khi phải sống dưới “gông cùm cộng sản” và chứng kiến những gì xảy ra quanh mình mỗi ngày, từ khi cả nước bị nhuộm một màu đỏ của máu.
“Bao giờ sấm trước có mưa, bao giờ cộng sản mà ưa dân mình” là câu nói truyền khẩu mà bà con rao truyền cho nhau nghe, một khi thấy rõ dã tâm của phương Bắc chiếm đoạt trọn vẹn Miền Nam, thống trị cả nước bằng sắt máu, bằng súng đạn, để tiến thẳng đến chủ nghĩa Xã Hội Chủ Nghĩa mà người cộng sản cho là “ưu việt”, là tuyệt vời.
Việc Uỷ ban Quân quản kêu gọi các anh em hạ sĩ quan, binh sĩ của chế độ Saigon trình diện, tham dự các khoá “bồi dưỡng chính trị Mác-Lê” kéo dài 3 hôm, tổ chức ngay tại phường khóm, rồi sau đó cho tất cả ra về được dư luận bàn tán không ngớt, có người xem đó là một cách đối xử tử tế, rộng lượng, cũng không ít người nghĩ đó chỉ là những màn dàn dựng chứa đựng thâm ý nhằm thực hiện kế “điệu hổ ly sơn”, thi thố các chiêu độc hại đối với những người bại trận.
Đến đầu tháng 6 năm 1975, báo chí, radio, tivi Saigon Giải Phóng ra rả những thông báo yêu cầu tất cả sĩ quan từ cấp Thiếu tá đến cấp Trung tướng thuộc Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà phải ra trình diện để được hưởng sự khoan hồng và tham gia khoá học tập chính trị, mỗi người cần mang theo quần áo, đồ dùng cá nhân và tiền mặt đủ dùng trong một tháng. Bất cứ ai không tuân hành lệnh này sẽ bị Cách Mạng xử phạt thích đáng. Thông cáo cũng nhắc lại rằng tất cả anh em hạ sĩ quan, binh sĩ của chế độ Saigon được gọi tập trung đi học tập chính trị, nhưng sau đó toàn bộ được tự do ra về và làm ăn sinh sống yên ổn ở địa phương.
Thời hạn trình diện là hai ngày 14 và 15 tháng 6 năm 1975, tại các địa điểm tập trung, tuỳ theo nơi mình cư trú, là những trường đại học, trung học, tiểu học. Các cơ sở giáo dục này đang đóng cửa vì lúc ấy là thời gian sinh viên, học sinh nghỉ hè.
Theo lời kể của các thân nhân thì khi đến trình diện tại những cơ sở giáo dục được chỉ định, các sĩ quan cấp tướng và cấp tá được bộ đội tiếp đón tử tế. Buổi trưa có nhân viên thuộc những nhà hàng nổi tiếng ở Saigon, từng là nơi tổ chức tiệc cưới, mang cơm nước thịnh soạn đến phục vụ tận nơi. Bà con Saigon lại bàn bạc cho rằng mấy ông tướng, ông tá được chăm sóc chu đáo, ân cần như thế thì học tập chỉ một tháng trời, đâu có gì nhọc nhằn, gay go mà phải lo lắng quá đáng.
Nhưng bước qua sáng ngày 16 tháng 6 năm 1975 thì tất cả các vị trí tiếp nhận sĩ quan cấp tướng và cấp tá của Miền Nam đều vắng lặng, không còn một bóng người, không biết họ được di chuyển đi đâu trong đêm tối?
Dân chúng Saigon hoài nghi chủ trương của chính quyền mới, họ thắc mắc tại sao người cộng sản chỉ ra tay trong đêm tối. Trong thời kỳ chiến tranh du kích quân cộng sản cũng chỉ hiện về trong đêm tối, thu thuế, ám sát, giết hại quan chức, đặt mìn, phá cầu, cắt đường, đắp mô…
Sau khi bắt gọn toàn bộ sĩ quan cấp tướng và cấp tá thuộc Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, cho tất cả vào rọ một cách khoa học (bịp bợm, láo khoét), chính quyền cộng sản chuẩn bị kế hoạch “hốt hết, thà bắt lầm còn hơn bỏ sót” sĩ quan cấp Thiếu uý đến Đại uý của miền Nam mà quân số có thể lên tới hàng trăm ngàn người.
Mười hôm sau khi các sĩ quan cấp tướng và cấp tá của Miền Nam lên đường vào trại tập trung, Uỷ Ban Quân Quản ra lệnh cho các sĩ quan cấp uý trình diện đi học tập. Cấp Đại uý trình diện vào hai ngày 23 và 24 tháng 6 năm 1975, cấp Trung uý và Thiếu uý trình diện vào hai ngày 25 và 26 tháng 6 năm 1975. Địa điểm tập họp vẫn là những cơ sở giáo dục trong phạm vi Saigon-Chợ Lớn-Gia Định, mỗi người phải mang theo ít tiền, quần áo, thức ăn, đồ dùng đủ cho 10 ngày.
Đã từng đọc qua nhiều sách báo, nghiên cứu, thuyết trình về chủ nghĩa cộng sản quốc tế và cộng sản Việt Nam, tôi nghi ngờ là rồi đây tương lai của những “tù, hàng, bại binh” theo cách gọi của Cách Mạng sẽ không bình an, vô sự như họ thường rêu rao, tuyên truyền, khuyến dụ.
Theo tinh thần thông tư yêu cầu các sĩ quan cấp uý ra trình diện, tôi phải có mặt trong các ngày 23 và 24 tháng 6 năm 1975, dành cho cấp Đại uý, nhà tôi thuộc Quận 10, Saigon nên địa điểm tập trung là trường trung học Trần Hoàng Quân.
Tôi chuẩn bị ít quần áo cũ, mùng mền, gọn nhẹ, vét món tiền mọn dành dụm còn lại, tính ra chỉ đủ dùng trong vòng 10 hôm, vì hai con tôi, cháu trai, Khiêm mới 19 tháng và con gái út, cháu Trâm vừa được 6 tháng, cần tiền mua sữa hơn. Tôi tin rằng “Trời sinh voi, sinh cỏ”, ai sao mình vậy, thua trận, đầu hàng, rơi vào tay địch thì kẻ thắng cho sống mình nhờ, mà họ buộc phải chết thì đành chịu thôi, có than vãn mấy cũng vô ích.
Tôi đến trình diện bộ đội Bắc Việt sáng ngày 24 tháng 6 năm 1975 vì muốn được sống tự do, quây quần với gia đình thêm một ngày nữa. Nào biết, bước chân đi lần ấy biền biệt sáu năm sau mới may mắn quay về, tôi nói may mắn vì có rất nhiều bạn lính, bạn tù đã mãi mãi không về nữa. Họ đã nằm xuống trong những ngục tù cộng sản ở hai miền Nam-Bắc, không một người thân, không một nắm mồ!
Hôm 24 tháng 6, 1975 buổi trưa trước khi lãnh phần ăn, mọi người phải ra sân tập họp, ngồi dưới đất, phơi nắng, nghe cán bộ giảng về những nội quy, điều lệnh phải nghiêm chỉnh chấp hành, nói chung là cái “thòng lọng” cứ siết chặt dần, cho đến khi người ta bị ngộp thở, gục ngã.
Sau màn phơi nắng sơ khởi, mỗi người được phát một phần cơm, lon nước ngọt do các nhà hàng Tàu trong vùng thủ đô Saigon cung cấp. Cơm trưa xong là màn kê khai lý lịch, mỗi người phải xếp hàng, gặp cán bộ hỏi han một số chi tiết về mình.
Anh bạn xếp hàng khai báo lý lịch trước tôi kể lại rằng, bộ đội cộng sản hỏi anh thuộc đơn vị nào, anh đáp: “Lữ Đoàn Dù”, tên cán bộ viết xuống: “Nữ Đoàn Dù”! …
Đến phiên tôi, họ hỏi tên tuổi, cấp bậc, chức vụ, tôi khai: 28 tuổi, cấp bậc Đại uý Hiện dịch, chức vụ Chánh Văn Phòng Tham Mưu Trưởng Không Quân, trình độ học vấn, trên đại học…Bộ đội cộng sản nhìn mặt tôi và nói “Gớm! lên cho nhanh để đi giết người ấy”, các bạn đứng gần cười ồ lên, tay cán binh cộng sản không hiểu vì sao, cho tôi thông qua và gọi người kế tiếp.
Sau buổi cơm chiều, mọi người lo tìm chỗ nghỉ tạm qua đêm, rồi sẽ tính tới nữa. Nhiều anh bạn đi trình diện tay không, cho rằng nếu chỉ học tập có 10 ngày thì mang theo hành lý làm gì, một bộ quần áo mặc vào người, một bộ khác để thay đổi là quá đủ.
Đang ngồi, nằm la liệt dưới đất, mọi người bị tiếng còi inh ỏi đánh thức lúc 12 giờ khuya, bảo phải tập họp gấp, đội ngũ chỉnh tề, chuẩn bị “cơ động hành quân”? Hết bắn nhau rồi, còn “hành quân” cái quái gì nữa? Sau này mời hiểu lệnh ấy có nghĩa là mọi người sắp di chuyển, lên đường đến vị trí khác.
Bên ngoài trời mưa tầm tả, giông gió liên hồi, tiếng máy nổ của đoàn xe vận tải vang rền. Chúng tôi thu dọn hành trang và ra tập họp ngoài sân, lúc ấy mưa như trút nước, từng nhóm 30 người xếp hàng chờ lên xe Molotova, mui vải bịt bùng. Lúc luống cuống leo lên xe, tôi bị trượt chân, trèo lên tuột xuống mấy lần, nên bị một tên bộ đội la mắng và dọng cho một báng súng AK 47 vào bả vai, đó là một đòn thù đầu tiên trong kiếp sống tù tội.
Tiếng còi, tiếng thét vang dội, thúc hối mọi người phóng nhanh lên xe, ai còn chần chờ, khó xoay trở vì mang theo túi hành lý kềnh càng thì bị bộ đội lấy báng súng nện sau lưng, quát tháo, xô đẩy, nhồi nhét cho đủ số người, rồi sập mui xuống, tối mù, ngộp thở.
Sao đêm hôm ấy trời lại mưa ngập nước, sấm chớp, giông tố kéo tới trên vùng Saigon, phải chăng đây là dấu hiệu cho thấy kiếp sống tù đày “cá chậu chim lồng” sẽ vô cùng cay đắng, khắc nghiệt, khổ ải triền miên ?
Xin thành kính tưởng niệm vong linh các bậc tiền bối, chiến hữu, đồng cảnh đã vĩnh viễn nằm lại trong chốn ngục tù cộng sản, cầu nguyện cho oan hồn của quý cô chú bác, quý anh, quý chị được siêu thoát Cõi Vĩnh Hằng.
Viết nhân tưởng niệm Ngày Quốc Hận 30 tháng tư năm thứ 45 (1975-2020) và để nhớ lại những ngày, tháng tù đày qua các trại lao động khổ sai: Hóc Môn, Long Giao, Hoàng Liên Sơn, Bắc Thái, Nghệ Tĩnh.