Bài diễn văn của Nữ sĩ Trương Anh Thụy nhân ngày Lễ Tưởng Niệm Nhị Vị Trưng Vương

Kính thưa quý trưởng thượng

Kính thưa quý quan khách

Kính thưa các chị em phụ nữ,

Năm nay là năm thứ 42 kể từ cuộc di tản 1975. Riêng ở vùng thủ đô Hoa Thịnh Đốn, tôi được biết chính xác là cộng đồng chúng ta đã tổ chức lễ tưởng niệm Nhị Vị Trưng Vương tới 40 lần, tức là kể từ năm 1978 khi người Việt tỵ nạn còn chưa hẳn đã an cư lạc nghiệp.

Buổi lễ kỷ niệm Hai Bà lần đầu tiên tại vùng Hoa Thịnh Ðốn đã được tổ chức trọng thể tại Trung Tâm Cộng Ðồng Việt Nam, lúc bấy giờ tọa lạc nơi khuôn viên trường tiểu học Page thuộc quận Arlington do cố giáo sư Nguyễn Ngọc Bích sáng lập. Thấy người Việt quần áo chỉnh tề, nhất là các phụ nữ thướt tha trong áo dài muôn sắc, hớn hở rủ nhau về dự lễ, báo chí Mỹ trong vùng không khỏi lấy làm lạ là cộng đồng chúng ta thời ấy còn phải vật lộn với hoàn cảnh khó khăn trên vùng đất mới, mà đã nghĩ ngay đến việc bảo tồn những mỹ tục như ngày Tết, lễ Hai Bà… Ngày hôm sau buổi Lễ Hai Bà năm đó, đã có ngay một bài dài trên báo Washington Post hết mức ca tụng một sinh hoạt văn hóa phong phú của người Việt.

Ký giả bài báo ngạc nhiên được biết là chuyện Hai Bà đã xẩy ra cách đấy gần 2000 năm, mà những ông già bà cả hãy còn giảng dạy cho con cháu mình nghe như chuyện mới xảy ra và đã có tập tục này tự hàng bao thế kỷ, có lẽ cũng từ ngày chúng ta lấy lại được độc lập từ tay người Tầu. Dưới thời Việt Nam Cộng Hòa chính phủ cũng lấy ngày lễ đó làm “Ngày Phụ Nữ Việt Nam.” Một ngày lễ dành riêng cho phụ nữ như thế đã không có trong nước Trung Hoa phong kiến khi họ còn đặt nặng vấn đề trọng nam khinh nữ. Về phương diện này, không những ta đi trước Trung Hoa, mà nếu tôi không lầm, ta còn đi trước cả các nước Tây phương hàng thế kỷ. “Women’s Day” ở Mỹ mới có từ năm 1909, và Hội nghị Thế Giới Phụ Nữ lần thứ năm mới chỉ xẩy ra vào mùa thu năm 1995 ở Bắc Kinh.

Người Mỹ đã học được ở buổi Lễ tưởng niện Hai Bà những gì?

– Thứ nhất là địa vị rõ ràng bình đẳng của phụ nữ trong truyền thống Việt Nam.

– Thứ hai là việc duy trì truyền thống tôn vinh các vị anh thư, anh hùng của chúng ta đã giúp cho dân tộc Việt Nam là một dân tộc sống có ơn có nghĩa, biết ngọn, biết nguồn, để còn truyền dòng máu đó từ thế hệ này đến thế hệ khác, tự ngàn xưa cho đến ngàn sau.

Riêng chúng ta nhớ được gì về Hai Bà?

Nhiều người và cũng có một số sử gia, nghĩ là công trạng hai Bà chỉ có mỗi điều đáng nhớ, đó là đuổi được quân nhà Hán ra khỏi bờ cõi nước ta để dựng một cơ đồ kéo dài không đầy ba năm trời. Song nếu một cuộc kháng chiến kéo dài có ba năm mà không để lại một dấu ấn hào hùng làm gương sáng cho hậu thế thì chưa chắc đã dài lâu đủ để có thể ghi vào tâm khảm của người dân, so với những cuộc kháng chiến bền bỉ hơn thế nhiều, như các cuộc kháng chiến chống Tầu thời Nhà Lê hay ngay như của Hoàng Hoa Thám–Con Hùm Xám Yên Thế–chống Pháp vào cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20 chẳng hạn…

Thực vậy, trường hợp Hai Bà đặc biệt ở chỗ là chỉ trong vòng không đầy nửa năm mà Hai Bà đã thu phục được 65 thành trì trên toàn cõi đất nước thu cả giang sơn về một mối, gieo khiếp đảm vào trong lòng những binh lính chuyên nghiệp, hung hãn của nhà Hán. Điều đó chứng tỏ rằng, người Việt thời bấy giờ đã nhìn ra rất rõ bản sắc dân tộc của chính mình để mà vùng lên lấy lại chủ quyền quốc gia dưới ngọn cờ khởi nghĩa của Hai Bà. Lịch sử đã chứng minh được rằng trong những người theo về với Hai Bà không những chỉ có đàn ông dũng tướng mà còn không thiếu những gương phụ nữ sau này lừng danh cho đến nghìn năm sau để giờ đây còn được thờ phượng không những ở các vùng đồng bằng miền Bắc mà còn ở các miền Trung du. Theo nhà văn Trần Ðại Sỹ, người đã từng đi khảo sát trên thực địa ở miền Nam Trung Hoa thì Hai Bà còn được thờ tận gần Ðộng Ðình Hồ, bên Tầu. (Xin xem bộ Anh Hùng Lĩnh Nam của Yên Tử Cư Sĩ.)

Sau khi đuổi được quân Nam Hán ra khỏi bờ cõi, Hai Bà đã dựng lên một triều đình ở Mê Linh, mà cái lạ lùng nhất, có lẽ không tiền khoáng hậu trong lịch sử nhân loại, là chị em đã cùng lên ngôi Nữ Vương, đồng trị vì đất nước.

Sở dĩ Hai Bà đạt được những kết quả to lớn trên, là do Hai Bà có được một nhân cách lớn, một tâm hồn dũng liệt của bậc cân quắc anh hùng. Hai Bà đã vượt được lên trên cái “Nữ nhi thường tình”, không chỉ trau dồi “Công, dung, ngôn, hạnh” mà còn lo toan mưu đồ việc lớn vì quan niệm việc cứu dân cứu nước ra khỏi ách cai trị của ngoại bang là việc chung, trai cũng như gái. Ở đây tôi phải xin mở một dấu ngoặc: “Các câu chuyện về Hai Bà Trưng, Bà Triệu, và các nữ tướng khác được một số sử gia trích dẫn để làm bằng chứng cho luận điểm rằng xã hội Việt Nam trước khi bị Hán hóa là một xã hội mẫu hệ (hay còn gọi là chế độ mẫu hệ), trong đó phụ nữ có thể giữ vai trò lãnh đạo một cách rất tự nhiên mà không gặp một trở ngại nào.

Chúng ta sẽ đừng bao giờ để bất cứ ai, kể cả các sử gia, nhà văn, nhà thơ, nhà báo nhà giáo… nói rằng Hai Bà nổi lên đánh đuổi quân Tầu là để trả thù cho chồng bà Trưng Trắc là ông Thi Sách bị Tô Ðịnh, tên thái thú Tầu gian ác giết đi. Hãy đừng bị choáng ngợp bởi các sử gia tiền bối như sử gia Lê Ngô Cát từ thời vua Tự Đức (cuối thế kỷ18) viết về Hai Bà trong cuốn Đại Nam Quốc Sử Diễn Ca với những câu như:

“Hồ Tây đua sức vẫy vùng,

Nữ nhi chống với anh hùng được nao.”

Thật là sặc mùi trọng nam khinh nữ đến độ coi cả giặc là anh hùng, coi Hai Bà chỉ là “nữ nhi.”

Chúng ta đừng quên Hai Bà là con gái quan Lạc Tướng. Từ thuở nhỏ, nào đã biết ông Thi Sách là ai, Hai Bà đã được thân phụ huấn luyện binh khí để nối dõi binh nghiệp của cha. Nếu không phải vì lòng yêu nước, nếu không phải vì ôm ấp lý tưởng sẽ có một ngày đánh đuổi quân Tầu xâm lược để giải cứu quê hương thì tại sao Hai Bà lại chịu khó tập luyện để rồi khi có biến là Hai Bà đã sẵn sàng nổi dậy trong chớp nhoáng. Rõ ràng là việc ông Thi Sách bị giết chỉ là một cái cớ, một cao điểm, khiến Hai Bà không còn phải chần chờ gì nữa mà quyết định dấy binh vào ngay lúc đó.

Bài học cho chúng ta ngày hôm nay là gì?

Nhìn lại 42 năm về trước, sau “cơn sóng thần” năm 1975 trên đất nước chúng ta, tất cả mọi sự đều đảo lộn ập xuống đầu mọi người con dân Việt, khiến cho người ra đi, kẻ ở lại đều xếch vếnh sang vang như nhau, mà trong đó giới phụ nữ vốn chân yếu tay mềm bị ảnh hưởng nặng hơn cả. Kẻ ở lại thì trực diện cảnh trả thù đê tiện của “bên thắng cuộc”, lặn lội núi cao rừng sâu đi tìm chồng tù tội, nuôi mẹ già, con dại trong cảnh kỳ thị o ép…  Kẻ ra đi đến được thế giới tự do thì cũng phải trải qua bao nhiêu thử thách, cấp tốc thích nghi với đời sống mới, văn hóa mới, ngôn ngữ mới… cố gắng học được một tay nghề, dù có nhiều trường hợp chẳng cả hợp với khả năng của mình, miễn sao có tiền nuôi con cho ăn học. Có khi còn làm ngày làm đêm để có thêm tiền gửi về bên nhà nuôi chồng, nếu còn ở trong tù, nuôi mẹ, anh chị em nếu còn bị kẹt ở lại!

Vậy mà chỉ chưa đầy 5 năm, 10 năm, 20 năm… cho đến nay là hơn 40 năm nhìn lại, chúng ta thấy gì? Thế giới thấy gì? Không còn nghi ngờ gì nữa, các mầm non mà chúng ta mang ra với thế giới bên ngoài đại đa số là những phần tử ưu tú. Có biết bao nhiêu con em chúng ta nổi bật giữa giới trẻ bản xứ ở mọi ngành nghề, văn chương, nghệ thuật, y khoa, dược khoa, luật khoa, kinh tế, chính trị…  thậm chí đến cả thể thao, quân sự, khoa học…  Hai mươi, ba mươi năm trước khi có dịp nói đến tuổi trẻ Việt Nam hải ngoại tôi còn kê ra được một danh sách dài, tới nay thì vô phương, không nhẽ tôi đứng đây suốt buổi để nêu danh các cô cậu Việt Nam xuất sắc, mà vẫn lo rằng còn có thể thiếu sót!

Nói đến phụ nữ Việt Nam mà không nói gì đến phụ nữ Việt Nam bên nhà thì thật là một thiếu sót lớn. Nhưng nếu phụ nữ hải ngoại tạo được những thành tựu lẫy lừng làm vẻ vang dân Việt thì ở bên nhà sau hơn 40 năm cộng sản cưỡng chiếm miền Nam, đã đưa cả nước vào cảnh bần cùng khốn khó thì phụ nữ bên nhà trong cái guồng máy khổng lồ đó gánh chịu hậu quả thê thảm hơn so với nam giới nhiều lắm, thế mà trong cái tình trạng tuột dốc chóng mặt đó, vẫn có những phụ nữ, những em gái, cháu gái ở cả lứa tuổi rất trẻ đã ý thức được trách nhiệm của một công dân trong cơn “sơn hà nguy biến”, đã can trường đứng lên ngay giữa lòng địch, bất chấp sự đàn áp dã man, vô nhân tính của cộng sản để mà kịch liệt phản đối sự xâm lấn của Trung Quốc và sự bán nước của tập đoàn lãnh đạo. Người bị tù đầy với những bản án rất nặng, người bị đánh đập dã man trong những cuộc biểu tình chống Trung Quốc. Cũng có những bà mẹ tự thiêu để phản đối việc con gái bà bị tù đầy oan khuất. Có những phụ nữ kiên trì hết năm này đến năm khác, làm dân oan khiếu kiện đòi đất, đòi nhà…  Có các nữ công nhân quả cảm tổ chức và tham gia biểu tình, đình công… phản đối sự bất công, bóc lột của chủ ngoại quốc và sự đồng lõa bao che của chính quyền mình. Cái danh sách của các vị anh thư này cũng lại quá dài khiến tôi không thể kê hết ra ở đây được.

Tất cả những tinh thần cầu tiến, những tinh thần bất khuất đó ở đâu mà ra nếu không phải là do tinh thần Hai Bà tác động lên mỗi người con dân Việt? Nếu có dịp thử DNA tôi tin dám có thể mỗi chúng ta đều có DNA của Hai Bà!

Kính thưa quý vị,

Hôm nay là ngày mùng 4 tháng 2 tại đây, nhưng là mùng 5 tháng 2 tại quê nhà. Ngày hôm nay, cùng giờ này, tại quốc nội đang có cuộc biểu tình ôn hòa, đồng khởi từ Nam ra Bắc của những người con dân Việt yêu nước, của các nhà dân chủ tranh đấu phản đối quân tham tàn Trung Cộng đang manh tâm dần dần thôn tính nước ta, với sự đồng lõa, hèn với giặc ác với dân, của đảng cộng sản Việt Nam bán nước, đang tâm đàn áp dân mình để tiếp tay cho các hành vi bất chính của giặc.

Cuộc chiến không cân sức, lấy trứng trọi đá này của đồng bào quốc nội thật là cam go, thật là nguy khốn, nhưng với lòng yêu nước sôi sục, với ý chí quật cường được hun đúc bởi các anh hùng liệt nữ như Hai Bà Trưng, bà Triệu, như Quang Trung, Trần Hưng Đạo, như Cô Giang, Cô Bắc thời nay…v…v… thì chúng ta hãy tin là cuộc chiến này cũng sẽ phải đem đến thành công.

Hôm nay nhân ngày Lễ Hai Bà, xin quý vị hãy cùng chúng tôi hướng về Quê Hương Việt Nam yêu dấu, thành tâm cầu nguyện Hai Bà phù hộ cho các Con Cháu chân cứng đá mềm để cuộc chiến trường kỳ này và đặc biệt cuộc biểu tình toàn quốc đang diễn ra tại đây mang được cái tinh thần, cái hào khí của một Hội Nghị Diên Hồng, một vùng Mê Linh ngời sáng, một Trận Đống Đa, một trận Bạch Đằng…vv…  để giải thể được đảng cộng sản bán nước, và đuổi được bọn Trung Cộng tham tàn độc ác ra khỏi lãnh thổ của Tổ Tiên để lại, hầu cứu được toàn dân thoát khỏi ách Bắc thuộc một lần nữa./.

TRƯƠNG ANH THỤY

Tiểu sử Trương Anh Thụy:

Sinh tại Hà Nội, di cư vào Nam năm 1954, học trường nữ trung học Trưng Vương 54-56, du học tại Hoa Kỳ 1961, hiện sống tại Virginia, Hoa Kỳ với chồng và con. Có một thời gian dài được sống với thân phụ là họa gia thủy mạc Tá Chi Trương Cam Khải và thân mẫu, nữ sĩ Kim Y Phạm Lệ Oanh. Cả hai cụ đã khuất núi từ cuối thế kỷ XX.

Được huấn luyện trong ngành sư phạm, bà đã theo đuổi trong nghề dạy học cho đến ngày về hưu. Bên cạnh đó, bà đã đóng góp, từ trước 1975, vào các công tác từ thiện, xã hội trong cộng đồng Việt Nam hải ngoại. Đồng sáng lập hội từ thiện Vietnam Refugee Fund, Inc. (1975). Chủ tịch chi nhánh vùng Hoa Thịnh Đốn của Uỷ Ban Báo Nguy Giúp Người Vượt Biển (Boat Poeple S.O.S. Committee), trụ sở chính ở San Diego (California); tiếp nối là một trong những người sáng lập Uỷ Ban Cứu Người Vượt Biển (BPSOS, Inc., Virginia), tại đây bà làm Chủ tịch Ban Quản Trị đầu tiên trong nhiều năm.

Trương Anh Thụy lập ra nhà xuất bản Cành Nam năm 1984. Năm sau cùng với Hội Văn Hóa Việt Nam tại Bắc Mỹ và Nhóm Xác Định lập Tổ Hợp Xuất Bản Miền Đông Hoa Kỳ. Cơ sở xb này còn hoạt động cho đến ngày hôm nay (2014).

Bà cộng tác với nhiều báo chí ở hải ngoại và đã từng giữ chức Phó Chủ tịch Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại, nhiệm kỳ 1991-1993, thời nhà văn/nhà thơ Trang Châu làm Chủ tịch.

Thơ của Trương Anh Thụy đã được dịch sang tiếng Anh do GS. Nguyễn Ngọc Bích (trong War & Exile, A Vietnamese Anthology, Vietnamese P.E.N., East Coast U.S.A., 1989; Trường Ca Lời Mẹ Ru – A Mother’s Lullaby, Cành Nam, 1989) và GS. Huỳnh Sanh Thông (An Anthology of Vietnamese Poem, New Haven: Yale University Press, 1996). Bà được giới thiệu trong tuyển tập “20 Năm Văn Học Việt Nam Hải Ngoại” (Đại Nam xb 1995), cũng như trong từ điển Tác Giả Việt Nam / Vietnamese Authors do Lê Bảo Hoàng sưu tập (Sóng Văn, 2005). GS. Nguyễn Đình Hòa cũng đã điểm sách cuốn “Trạm Nghỉ Chân” trong World Literature Today của Đại Học Oklahoma (1994).

Nhiều bài thơ của Trương Anh Thụy đã được Nguyễn Ngọc Bích phổ nhạc. Nhạc sĩ Nguyễn Văn Thành cũng đã phổ bài “Đêm mơ thấy Hai Bà mắng” và “Hình ai” trong <danchuca.org>.

Sự nghiệp văn học của Trương Anh Thụy được nhắc đến trong The Oxford Companion to Women’s Writing in the United States (Oxford University Press, 1995), và được giới thiệu trên những diễn đàn như tạp chí Indochina Chronology (tháng 7-9, 1990) cũng như tại hội nghị quốc tế hằng niên của Hội Á Đông Học (Association of Asian Studies, 25-28 tháng 3, 1993).  

Tác phẩm đã xuất bản:

Của Mưa Gửi Nắng (Thơ, 1984), Trường Ca Lời Mẹ Ru (Kèm theo bản dịch Anh ngữ của Nguyễn Ngọc Bích và 30 bức minh họa của hoạ sĩ Võ Đình, 1989), Trạm Nghỉ Chân (tập 1 trong trường giang Chuyển Mùa, 2004), Ánh Mắt (tập truyện, 1998), Chuyển Mùa (bộ trường giang tiểu thuyết) đã đoạt Giải Văn Học 2004 của Hội Quốc Tế Y Sĩ Việt Nam Tự Do

 

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *