Chuyện năm nẵm về Sàigòn: Biển Trời Lai Láng

Nguyễn Văn Sâm

Cảm thức về Sàigòn ở trong tôi dù sống nơi đâu. NVS

sagon

Gần nửa đời người  lăn lóc đó đây trên nhiều khu khác biệt của đất Sài-gòn vậy  mà tôi chỉ thấy được hai mặt, hoặc tráng lệ nguy nga đè bẹp con người  dưới gông cùm kim tiền vật chất, hoặc bùn lầy nước đọng chết đuối con người bằng những thứ tầm thường nhỏ mọn như miếng ăn chỗ ở. Không có bộ  mặt nào khác hơn.  Sài-gòn đối với  tôi, như vậy trên bản chất giống bất cứ một thành phố nào trên thế giới, không thể tìm thấy tánh cách thuần túy Việt Nam. Tôi một thời lơ là với  Sài-gòn cũng vì lẽ đó. Thế nhưng có ai chơi cắc cớ hỏi tính chất Việt của một thành phố là cái gì, nằm trong địa hạt nào của muôn ngàn dáng vẻ biểu hiện từ văn minh đến văn hóa, chắc thế nào tôi cũng ậm ừ cho qua bởi không thể nào vẽ lên, tả được những nét tận tường. Ổ chuột và những căn nhà chông chênh trên mặt sông bùn lầy đen đúa thì hiện diện ở bất cứ thành  phố nào của xã hội nghèo nàn, nhất là vùng Ðông Nam Á. Xã hội tân tiến Tây phương ít xóm nghèo, ít hang cùng ngõ hẻm hơn, ít nhưng không phải là không. Nhà lầu  cao với những kiến trúc tân kỳ  càng ngạo nghễ, đẹp mắt càng không thể tượng trưng cho Việt chất. Chộp nắm được phần nào dễ thương, là  lạ trong kiến trúc, trong lối ăn nếp ở, trong cách xử thế tiếp vật, trong một nghề nghiệp đặc biệt, tôi, lòng lúc đó đương lạnh tanh, nôn  nao sung sướng như hồi nhỏ được về quê thấy lại cái lò gạch cũ, nghe được mùi thơm từ khu vườn mía Tây của người láng giềng, ngó mãn nhãn những miếng ruộng lớn đại nối tiếp nhau chạy tới mút chân trời, hay thấy con sông hiền hòa  thỉnh thoảng có vài  chiếc ghe lồng trôi  chầm chậm…

   Ðiều dễ thương đối với tôi  cũng bình thường thôi.  Thường  là những căn nhà ở vùng Bà  Chiểu, Thủ Ðức, ba gian hai chái, vách bổ kho, mái ngói âm dương, cột danh mộc tròn lên nước bóng lưỡng  dựng chững chạc trên từng tảng  đá xanh vuông vức, trong nhà đối  liễn vẫn còn treo trên những vị  trí trang trọng. Hay một cái bàn ‘ông  thiên’ giữa trời thường  thấy ở vùng Giồng Ông Tố với  hình ảnh người chủ gia đình, lúc  vừa chụp tối, bận áo bà ba hai tay chấp nắm nhang xá xá bốn phương trời.  Hoặc một cái gáo dừa gắn cán dài úp trên lu nước dựng ngoài  mái hiên bắt gặp thường xuyên  từ khoảng Cầu Hàn đổ ra đến  nửa đường đi Nhà Bè hay từ  phía Phú Lâm đổ lên Gò Ðen. Có những hình ảnh nhỏ hơn và tầm  thường hơn như tiếng võng đưa kẽo-kẹt vào lúc giữa trưa trời đứng gió. Võng phải treo phía trên  một cái giường tre khập khễnh mới đúng điệu, hòa hợp vời cảnh  trí xa xa là một bụi tre mà ngọn và tất cả lá đều đương đứng im lìm trầm ngâm ngó trời như thường thấy ở xóm Cầu  Tre trước đây thì càng tốt.

   Nhưng tôi chưa đủ thời giờ  để nhìn cho thỏa mắt, chưa đủ lớn để chíp vô ký ức cất làm kỷ niệm riêng cho đời mình thì các cảnh trí trên phần nhiều đã bị sóng thời gian tàn nhẫn phủ lấp chìm hay bóp cho biến dạng theo sự đổi thay tất nhiên của xã  hội. Chúng mất hút đi mau chóng, tới  khi tôi kịp rãnh rỗi ngó lại thì  còn chẳng thấy được bao nhiêu.

   À, hình như là Sài-gòn phát triển theo tốc độ phi mã của thời đại tân tiến nên tiêu diệt mất những vết tích nhà quê nghèo nàn nhưng  dễ thương của một sinh hoạt tiền đô thị mà trước đây tôi  tưởng lầm là nét chấm phá nào  đó của Việt tính. Nhưng không sao, tôi biết được bịnh mình. Mình thèm, mình thiếu trong máu huyết một  mảnh trời quê và đương đòi Sài-gòn cung cấp cho một chút quê mùa  đó. Ðô thị vây hãm tầm mắt bằng nhà cao, hãng xưởng và xe bụi, Sài-gòn giới hạn tâm hồn người  bằng chuyện thành phố lẩm cẩm tình -tiền -thù  không có gì đặc trưng, tôi cảm thấy thiếu một khung trời khoáng đãng,  thèm một chút hoàn cảnh thuận tiện  để buông thả tâm hồn, tôi thiếu tình người ở trạng thái sơ tâm…

   Trong tâm thái hoài cổ nao nao của nỗi thèm khát đó tôi được nghe chuyện hai vợ  chồng chú Hai Một nhưng quan, khóc đám.

    Như bao nhiêu lần trước, Chú Hai Một  khi vô tới hàng ba, dợm cẳng bước  lên ngạch cửa, thì quay về phía sau rầy dức vợ sao chậm lục còn  hơn bà già đi âm  phủ rồi xăn xáy bước ào vô nhà như con trốt, bỏ mặc kệ thím Hai còn đủng  đỉnh đánh-đồng-xa đâu đó  mút tí tè ngoài đầu ngõ.

   Nhiều người ngưng chuyện trò len lén ngước lên quan sát người khách  mới, cách quan sát có chút tò mò  đó, nhưng e dè, xa cách. Nhiều người, cử chỉ bỗng nhiên chậm rãi hơn như đương bận dồn hết giác quan  để bí mật theo dõi chuyện gì đó  xảy ra chung quanh. Có người còn liếc  liếc rồi lại giả bộ cúi xuống hớp  ly nước dở dang nãy giờ để  lơ là trước mặt. Không một câu  hỏi nào được nói lên thành lời, chỉ có những câu hỏi thầm  ngầm chứa trong thái độ và cử  chỉ. Chú Hai Một tuy vậy cũng đã  biết mình phải nói gì nên lên tiếng  trước, chú nói trống không nhưng  thật ra là nói với toàn thể những  người đương có mặt.

   ‘Ðược rồi, để đó tôi  lo liệu cho. Bà con mình không chớ ai vô đây’, chú hỏi tiếp theo sau khi dòm  sơ qua một vòng từ những người  ngồi ở cái bàn gần cửa tới  một số người trai trẻ ngồi bỏ  chưn thòng xuống đất trên bộ ngựa rồi tới những người hơi lạ  lạ ngồi tuốt trong gần chỗ cái màn  cửa ngăn với nhà trong. ‘Mà hồi  nào vậy? Hôm kia hôm kìa gì đây tôi còn thấy ảnh đi băng-xiên băng-nai, té lên té xuống trước nhà tôi, quần ống cao ống thấp, lè nhè, con nít chạy theo coi rùm trời.  Gì mà mau vậy?’

   Ba bốn tiếng giọng thanh niên, mau mắn tranh  nhau nói với khách. ‘Chị Sáu thấy xác ảnh nằm vắt  vẻo nửa trên nửa dưới ở  cái mương cá đằng nhà thằng cha  Ba Khìa hồi tưng bửng sáng….’

   ‘Chắc đâu hồi khuya….’

   ‘Trúng gió, té nước…’

   Tiếng xì xào bàn góp thêm chi tiết  như một thứ bịnh truyền nhiễm chuyền từ nhóm nầy sang nhóm kia, phá tan bầu không khí lạnh nhạt e dè từ khi chú  Hai Một bước vô. Một tay tổ nào  đó, ý chừng là bạn nhậu thân  tình với nạn nhân, chêm vô một  câu diễu vô duyên ớn. ‘Chắc đâu cũng đốn hết mấy lít rồi nên nóng nảy trong mình, về  khuya gặp nước, tắm mát rồi khoái  chí tử nằm ì ra đó không chịu lên.’

    Những cặp mắt bây giờ đổ  dồn về phía tay anh chị ăn nói bạt mạng đó. Trách móc, khinh thị, bất  bình. Biết mình nói hớ, anh ta cười  cầu tài, sửa. ‘Ậy…. mà sinh ký tử quy. Chết  trẻ khoẻ ma, chết già lụm khụm. Anh  Sáu thọ như vậy là được rồi, năm mốt bước qua năm ba bước  lợi đâu có bao nhiêu người  qua khỏi cái cầu nầy.  Ậy… mà đời  bây giờ còn sống là còn khổ.  Chính tôi đây nè, nhiều khi khổ quá  mạng, cầu trời chết cho rảnh nợ mà không  được.’

   ‘Con vợ thằng Sáu nóng ruột chồng đi cả đêm không về nên trời vừa hừng hừng sáng là lo xách đèn đi kiếm, ai dè sự thể như  vầy…’ một tiếng đàn bà nhỏ nhẹ, nói  với mọi người mà như nói với mình. ‘Í hị!’ Tiếng thở dài thương  hại thay cho cái chấm câu.

   Chú Hai Một quay qua cúi đầu chào người  đàn bà, bà vừa nói tiếp vừa  gật đầu chào lại, giọng nho nhỏ  pha một chút mủi lòng.

   ‘Tội nghiệp, cái thằng say sưa vậy  mà cũng biết lo tưởng tới vợ  con, trên bờ mương còn hai xâu thịt  heo quay với một mớ bánh bò trắng nằm lăn lóc. Tao tiếc quá lượm đem về bỏ trong gạt-măng-giê…  Cái số con vợ nó không được ăn heo quay, chồng đem về chưa tới  ngõ đã lăn đùng ra theo ông theo  bà.’

   ‘Tuần rồi ảnh với tôi còn  leo lên nóc nhà lợp lại cái mái lá dột phía trước hết một buổi  trời,’ người đàn ông hồi nãy cũng cái mửng cũ vừa nói vừa khoe. ‘Thiệt anh Sáu khỏe còn hơn tiên, hồi nào tới giờ ở  nhà quê mà sống theo kiểu dân cậu, đâu cần động tới móng tay…..’  Anh ta đổi giọng vui vui. ‘Chắc biết mình  sắp đi nên bữa đó mới  chịu khó trả nghĩa vợ lần chót.’

    Nhiều  tiếng cười tán thưởng ở phía đám thanh niên hòa chung với  vài cái hứ bất bình từ đám đàn bà.

   Chú Hai Một bây giờ mới quay về  phía người đàn ông nọ. Chú biết là ai nhưng cũng không thèm để ý tới chuyện chào hỏi, cũng  không thèm cười góp mà chỉ hất hàm một cách  trống không về phía buồng.

   ‘Ờ, ở trong đó đó,’ Bà già vừa nói hồi nãy hiểu ý trả lời hớt mọi người. ‘Tội  nghiệp, sớm tới giờ hai mẹ con  nó xà quần trong đó. Bây giờ  chắc là đương lo thay quần áo cho ‘thẳng’. Bùn đất không… Hồi mới  đem về…. ướt mèm ướt mẹp  nên tụi nó xót ruột. Nhà không có đàn ông con trai để lo mấy chuyện đó nên  tụi nó phải làm. Ðâu thằng Hai mầy vô coi coi, liệu giúp đỡ gì được  mẹ con nó thì giúp.’

   Thím Hai Một tới bây giờ mới vô tới hàng ba. Khác với chồng, thím thủng thẳng bước nhích nhích  từng bước một, đầu cúi xuống, hai đầu khăn rằn hết đầu nầy đưa lên chùi nước mắt tới  đầu kia đưa lên chùi nước miếng nước mũi. Người trong nhà chưa ai thấy mặt mày thím nhưng tiếng khóc xụt xùi hòa với tiếng hít  khịt mũi đã nghe rõ ràng, nức nở đứt ruột đứt gan, lâm  li như tiếng khóc dễ mủi lòng của bà con ruột thịt khi mất người thân  thương.

   Không mấy ai ngạc nhiên trước cảnh nầy. Chuyện thím khéo dư nước  mắt khóc người ‘thân sơ’ dân làng Bình An đâu ai lạ lùng gì. Nghề nghiệp. Nghề nghiệp ít người theo như vợ chồng thím. Hai ông bà đã từ bao lâu nay trở thành một cặp bài trùng không thể  thiếu trong mấy đám ma chẳng những quanh quẩn trong mấy cái cù lao giữa kinh Ruột Ngựa và kinh Tàu Hủ mà  nhiều khi còn có người rước  lên tới Chợ Ðệm, Bình Ðiền, Gò Ðen nữa.  Một vài người khách ngạc nhiên quan sát, sao trên đời  lại có người lạ lùng như vậy cà, mau nước mắt đã đành lại  còn không biết mắc cở khi làm chuyện  trên đời chỉ có một mình mình. Thím Hai Một khóc ngọt ngào, bất tận. Nước mắt như mưa tuông trào đầy mặt. Não can tràng hơn tiếng than của đào thương trong gánh hát. Khóc đã đời  thím cất giọng kể lể. ‘Sáu ơi  là Sáu, chú bỏ vợ yếu con thơ chú vội vàng đi đâu. Bao nhiêu người  thương chú trên đời sao không ở  lại. Âm phủ dương gian hai đàng cách  trở, từ nay vợ con chú biết trông  cậy vô ai? Sáu ơi là Sáu ơi. Ngày trước chú giúp người cô quả,  chú thân thiện xóm làng, đầu trên  chợ dưới, người dưng họ hàng, ai có chuyện gì chú không nề  hà giúp đỡ. Sao người như  chú mà trời bắt đi cho nỡ, còn những kẻ lỗi đạo vô nghì lại  sống chật trời chật đất, tốn  gạo tốn cơm… Sáu ơi là Sáu ơi.’

   Chú Hai Một quay mặt ra cửa, ngó mau  về phía vợ, nhăn mày tỏ ý không bằng lòng — quá lố rồi đó, quá  trong nước mắt thì còn chấp nhận được, quá  trong lời than thì chạm tới biết bao nhiêu người, ăn của chủ nhà bao nhiêu  mà đưa lưng mang tiếng oán. Tuy nghĩ bụng như vậy nhưng chú không  nói gì, chỉ vén màn bước thẳng  vô phòng trong.

   Bóng tối âm u của ngọn đèn  dầu phọng tim se bằng một miếng vải  trắng bỏ trong cái dĩa dầu để dưới gầm giường và cây đèn cầy nhỏ đặt phía dưới chưn người chết chập chờn leo lét, không giúp cho đôi mắt quen với ánh sáng của chú  Hai thấy gì hơn là một cụm tối dầy đặc, khổng lồ. Chú đứng định  thần một hồi hèn lâu mới quen mắt  lần. Con nhỏ Huê đương quay lưng về  phía chú, mặt quay vô vách, đương giơ cao lên  xăm xoi một cách dềnh dàng bộ đồ bà ba hàng màu hột gà của ba nó  đâu như là mới vừa được lấy từ trong tủ ra, còn đầy những  lằn xếp. Chị Sáu đương rờ rờ nắn nắn hai cánh tay co rút của  người chết mà mấy ngón tay cong lại như đương thủ thế để cào cấu ai. Gương mặt chị thểu não pha lẫn  nét chán chường. Chị biết bổn  phận mình phải làm gì nhưng không  biết bắt đầu từ đâu và bằng cách nào. Trong lòng  chị đương có một sự tương  tranh dữ dội giữa hai mặt sợ-thương. Thấy ánh sáng và đã  đoán được ai bước vô, chị ngước mắt lên chờ đợi một mệnh lịnh, mệnh lịnh dưới hình thức đề nghị thiệt bình thường nhưng giúp chị ra khỏi cảnh bối rối hiện tại không biết mình phải làm  gì mới đúng cách và trọn đạo.

   ‘Chị Sáu với con Huê ‘quá bộ’ ra ngoài nhà tiếp khách đi,’ chú Hai Một nói như ra lịnh, nói lựa chữ văn hoa một cách ăn trét. ‘Bà con lối xóm nghe tin hồi nào không biết mà đã kéo tới chia buồn coi bộ hơi bộn rồi đó. Ðầy nhà! Mà tôi thấy  có ai ở ngoài đó lo trầu cau nước nôi gì cho khách đâu,’  Chú ngừng một chút ngó vô con Huê  bây giờ mới day mặt lại phía  ánh sáng. ‘Với lại ba cái chuyện  nầy nên để tôi. Nghề nghiệp ai người  nấy làm. Chuyện nầy đâu phải ai cũng mó tay mó chưn vô được.’ Một  lần nữa chú ngó về phía con Huê. ‘Ðàn bà con gái gần hơi người mới đi không nên đâu.  Ðộc lắm. Về sau bị bịnh hậu khó  lòng.’  Mặt con Huê, nãy giờ nước  mắt đã lăn rơi, buồn lâm ly, đổi sắc liền,  mừng thấy rõ, nó bỏ bộ quần  áo xuống rồi đi vòng về phía đầu  giường của ba nó, sẵn sàng bước  ra. Chị Sáu trái lại chỉ hơi khựng lại một chút khi nghe nhắc tới mấy tiếng không nên nhưng rồi cũng tiếp  tục cố gắng tuột tay áo của chồng  ra. Cái áo đã được mở  nút cẩn thận, phơi màu da ngực xám ngắt của xác chết dưới ánh đèn.  Cánh tay cứng đơ, cà huynh cà hoang,  tay áo dính một lớp bùn mỏng thêm  phần trở ngại. Chị bậm môi hè  hụi giựt mạnh nhưng cũng không ích  lợi gì, chỉ làm rớt lộp độp lớp bùn  khô xuống giường như bánh tráng nướng bể. Bộ mặt người chết nhăn nhăn với cặp  môi đã bắt đầu rút, lòi răng ra cười ngạo cảnh tượng.  Cánh tay thây ma cứng cong, trì lại phản đối không cho thay bộ quần áo  cuối cùng trong đời mình. Chú đánh thêm một đòn tâm lý trong khi thong thả cho tay vô túi trong lục kiến gói thuốc Job đỏ lận theo từ đằng nhà.

   ‘Chết bất đắc kỳ tử linh lắm.  Ngày giờ trùng thì chuyện gì cũng  có thể xảy ra. Tránh trước thì  hơn. Trùng tang liên táng xui mấy đời  chớ không ít đâu. Chị với  con Huê làm ơn dang ra cho tôi.’

   Chú ngừng nói, đứng yên, điếu thuốc đã an vị trên môi, tay mặt cầm sẵn diêm quẹt nhưng chưa quẹt lửa, cố ý đợi hai người phụ nữ bước ra. Thân nhân nào cũng sẽ khó chịu khi thấy xác của người thân bị kéo nắn mạnh tay, mười người như một, ai cũng  năn nỉ nầy nọ, xin xỏ vầy khác.  Khó lòng. Chú thấy công việc mình làm phải mang tính cách thiêng liêng, bí mật, càng ít người biết  mình làm gì với cái xác chết  càng tốt. Chú đưa tay rờ rờ  cái mặt lạnh tanh của thây ma, rồi bằng  một cử chỉ thiệt nghề nghiệp chú  đưa hai ngón tay cái-trỏ  ra kéo kéo  hai môi người chết lại cho khít khao hơn như ngầm nói tôi đã sẵn sàng rồi, mời bà con nhường chỗ cho tôi. Tay chú đụng vô chỗ lạnh hơn mình  tưởng, chú chửi thầm trong bụng cái thằng nhậu nhẹt chết bờ chết  buội, ngâm nước cả đêm để  cho cái mặt lạnh còn hơn đá cẩm  thạch ướp nước đá. Chú đưa mắt ngó con Huê rồi  đão qua má nó. Thường thường  mời thân nhân của người quá  cố ra khỏi buồng chú chỉ cần xài  tới mấy tiếng không nên đã  là quá đủ, họa hoằn lắm mới phải xài tới mấy điều dọa dẫm  về chuyện bệnh hậu, trùng tang liên táng mà  chú học lóm,  khi đi đám đó đây, từ mấy bô lão biết chút  ít bói toán thuốc men.

    Người đàn bà bỏ cánh tay chồng  xuống với một tiếng thở thiệt dài như là bà nín hơi từ lâu lắm bây giờ mới được phép  thở. Cách bỏ xuống cũng nhẹ nhàng, ẩn chứa trong đó cả một trời thương yêu. Nhè nhẹ, chầm chậm bước  lần về phía cữa. Khoảng cách chỉ vài bước mà như xa thăm thẳm,  vừa bước đi vừa ngó ngoái lại như không muốn mất những phút giây chót với chồng.  Ra khỏi đây rồi, lúc trở vô người chồng đầu ấp tay gối — người mới  hôm qua còn gây gổ với chị —  một sự gây gổ nhẹ nhàng càm ràm, quen thuộc trong bao nhiêu năm trời, khiến  chị cảm thấy mình hiện diện và  là một thứ gì khác với những  đồ vật vô tri trong nhà — bấy giờ  sẽ thật sự trở thành một cái  xác chết đúng nghĩa, hoàn toàn là  một cái thây ma lạnh lẽo chờ tới  giờ để được bỏ vô hòm  đem chôn. Hư vô, mất tuyệt từ  đấy.  Xa cách đời đời, thật  sự, tuyệt đối từ đây. Một  xa cách mặc dầu không hình dung được,  mới chỉ lắp ló trước mặt  đã cắt đứt ruột gan, khiến chị  chưa gì đã thấy mình bơ vơ, nhỏ nhoi lạc lõng hơn. Chị bật khóc thành tiếng, nấc nghẹn, mặc dầu đã cố dằn xuống ngay từ hồi thấy xác chồng nằm úp  mặt nửa trên nửa dưới ở  bờ mương — sợ nước mắt nhểu xuống mặt ổng ổng khó đi đầu  thai. Chị bỗng nhiên thấy tức mình  tại sao bữa hổm ổng đòi uống thêm xị nữa chị tiếc tiền và sợ ổng  bịnh không cho con đi mua lại còn biểu nó dấu cái chai đi. Phải dè sớm như vậy ổng muốn uống mấy ghe tàu cũng bán nhà mua cho ổng không tiếc tiền. Chị cũng tức mình  là tại sao mấy năm trước nghe phong  thanh ổng mèo mỡ chị đã làm quá mạng, cằn nhằn cưỡi nhưỡi,  cắn xé. Phải dè… Phải dè… Chị kêu tên chồng, cách thân mến rất ít khi sử dụng từ ngày có đứa  con đầu tiên. Con Huê áy náy nắm cánh tay mẹ, chỗ con chuột, mà nó có  cảm giác là đầy xương, dẫn ra cửa. Mắt ngập nước, nó cũng  ngó ngoái lại lần chót ba nó, vẫn  còn nằm trong một vị thế lạ lùng,  một cẳng co vô bụng, một cẳng thẳng ra luôn cả bàn chưn, như người đương kiếm cách leo lên khỏi mương  nước, hai bàn tay quắp cứng ngắc hai nắm bùn bây giờ đã khô,  mấy chỗ tứ chi ló ra khỏi quần áo  bao trùm một màu xanh xám đen đen lạnh  lẽo khiến nó bắt rùng mình. Chị  vợ ngó lại lần nữa thi thể người  chồng, gật đầu chào chú Hai Một, rồi như len lén giở màn bước  ra. Những giọt nước mắt được  kềm giữ quá lâu thong thả bò trên  gương mặt chị, nhểu xuống ngực  áo khi chị bắt gặp những ánh mắt thân tình chia xẻ niềm đau xót của  bà con lối xóm bây giờ tới đã tới ngồi đứng chật nhà.

    Chú Hai Một nao nao theo dõi hai mẹ con lúp  xúp đi trong tiếng thút thít, ánh mắt  chú đậu lại trên cái lưng đầy sức sống và bộ hậu láng o  của đứa con gái — được  ôm bằng cái áo bà ba bó sát và  cái quần vải đen dầy ủi thẳng thớm.  Chú nheo mắt với mình và cười  cười…

   Ngoài kia chú nghe rõ tiếng chào của chị Sáu với bà vợ mình. Tiếng  khóc của bà ta nín bặt ngang xương. Chú nghe loáng thoáng câu trả lời của vợ: ‘…  Ừ… Kể từ trưa mai cho tới giờ hạ huyệt tôi sẽ ở đây… Ừ..  tiền bạc gì. Ðừng có lo chạy  cho mất công. Bà con mình không, ai cũng  nghèo chứ đâu có dư dả gì.. Nói nào ngay, tôi cũng đâu giàu  có gì hơn với mớ đó’. Tiếng  khóc lại nổi lên, bi thương thập bội hơn giọng tỉ tê nhè nhè của vợ người  quá cố. Dòm qua chỗ hở do tấm màn  bị vướng, chú Hai Một thấy vợ  mình đầu bù tóc rối dụi dụi  mắt khóc kể như chết cha chết mẹ.  Bà ta nhảy từ nhân vật nầy qua nhân  vật kia. Ban đầu là bà mẹ vợ. ‘…. Sáu ơi là Sáu ơi, nhà nầy một mình mầy lo từ trong ra ngoài. Vợ  con mầy giờ đây làm sao đủ sức  chống chỏi với đời.  Ði đâu  thấy món ngon vật lạ mầy cũng mua về  cho tao, bây giờ mỗi khi thấy quán thấy hàng làm sao tao không khóc được,  Sáu ơi là Sáu ơi.’ Rồi tới  vợ, tới con gái, mỗi người  thím đều sáng tác giùm một bài văn tế bình dân nôm na như vậy, kể  công đức người chết, vài phần thiệt, vài phần phóng đại những  hành trạng mà nếu nghe được chắc  người chết cũng phải hổ ngươi.  Chỉ có một điều là giọng kể  lể của thím lâm ly quá, nước  mắt của thím sụt sùi quá khiến  người nghe không còn đủ bình tỉnh tâm trí để phân biệt đâu thiệt  đâu ngoa. Một cảm giác xấu hổ mà chú thường có khi vợ khóc đám  người quen như kiểu thằng cha Sáu Say nầy len lỏi vô tim chú. Chú ngờ- ngợ như vợ mình làm điều gì  sái quấy, quá đáng, hơn sự phải  có của điều bình thường, hơn  sự bắt buộc của nghề nghiệp. Vừa lúc đó con Huê quay lại, đưa  tay kéo cái chéo tấm vải màn xuống  cho kín cửa buồng. Chú dòm lom lom bàn  tay tròn trịa của con nhỏ cho tới khi  ánh sáng trong phòng trở thành lù  mù. Chú đốt điếu thuốc, dựa  vách ngó xác chết, thong thả hít từng  ngụm khói say sưa. Mỗi khi trong người  có chuyện buồn vui lẫn lộn, những  hơi đầu tiên của điếu thuốc vẫn  là một thứ thần dược giúp  chú tỉnh táo trở về thực tại  với một tinh thần sáng suốt vô biên. Chú vạch màn dòm ra ngoài nhà trên như là tìm kiếm ai, ánh mắt chú đậu lại phía có con Huê đương đứng.  Nghĩ sao không biết chú bước hẳn  ra ngoài tới một bàn, cầm lấy chai  rượu đế rót đầy một ly lớn, mỉm cười chào mấy người ngồi  ở bàn đó rồi quày quả bước vô. Chú cẩn thận bỏ màn xuống,  kéo mí lại như ngại ánh sáng bên  ngoài có thể chui vô phòng. Tới bên xác chết, chú thiệt sự bắt  tay vô công việc: phun phun, bóp bóp sửa nắn lại cho vào vị thế bình thường bộ tứ chi trước đây đã  cứng đơ cứng còng. Chú cắt rách tay áo và ống quần của xác  chết bằng cái kéo nhỏ, vật liệu  độc nhứt chú mang theo mình như một thứ dụng cụ nghề nghiệp. Chẳng bao lâu cái công việc mà người  vợ nạn nhân loay quay hàng giờ không  thực hiện được đã được  chú hoàn thành mỹ mãn. Anh Sáu Say bây  giờ đã thiệt sự ngủ say trong một tư thế thoải mái, thanh thản. Chú Hai Một bước lùi một bước,  ngắm nghía công trình mình, chú mỉm  cười hài lòng và tự thưởng  bằng chút cặn rượu còn sót lại  trong ly…

  Tôi náo nức thiệt tình! Tôi sẽ gặp được cặp vợ chồng truyền nhân chánh của một nghề đang sắp  biến mất trong một xã hội trên đà  chuyển mình Âu hóa như cái thành  phố Sài-gòn nầy. Ðường có xa, có lạ cũng chỉ là dịp để  mở rộng nhãn quan thôi… Chúng tôi  đi qua cầu chữ U ở bến Thuyền Buồm (Quai des Jonques), một cái cầu tuy lót  cây nhưng cao chưa từng thấy. Chiếc mô-bi-lết già chạy tới đâu đà cây lót cầu rung rinh nhúc nhích  la hét ầm ầm tới đó, những  chiếc bù lon sắt khổng lồ đưa lên như hàm răng con quái vật cầu sẵn sàng cắn vô vỏ bánh xe. Cây  ván trơn chao đảo tay lái, tôi phải  kềm thật vững.

   Ðã hết đâu.  Lại còn qua một cái cầu chữ U khác y hịt như vậy ở ngay trước chợ  Bình Ðông.  Sao vùng nầy lạ lùng vậy, cầu cao không tráng xi-măng hay trãi nhựa, chỉ lót bằng  cây mà lại lót xuôi theo đường  xe cộ chạy?

   Người dẫn đường như đoán  được ý tôi, giải thích ba hoa. ‘Vùng nầy không có thế để làm  dốc nên cầu phải xây hình chữ  U, cũng không thể xây bằng vật liệu  nặng vì bờ kinh hẹp, đất hai bên  lại mềm, không có chỗ đúc móng  chưn cầu. Phải xây cao cho ghe chài qua lại  bỏ lúa vô chành hay lấy lúa từ  trong chành ra chở đi Lục tỉnh, lên  Nam Vang… Ngày trước ghe chài ra vô  khúc kinh nầy liền liền, bây giờ có thêm kho chứa ở Bến Tàu nên  ít đi đó chớ.

   Tuy không biết rõ ràng danh từ chành là gì nhưng tôi cũng mường tượng  đoán được đó là một thứ  kho chứa trữ nên mần thinh không  hỏi như mọi khi. Cảnh tượng quê nhiều hơn tỉnh của vùng nầy trở  thành một thứ loại ven biên đô thị mới ngó qua đã bắt mắt nên tôi cũng làm biếng nghe thêm. Cái thằng cha nầy có khả năng nói chuyện nầy qua chuyện kia lòng vòng ba bốn ngày không  hết, đừng nên khươi cho nó nói  không nhằm lúc.

   ‘Gần tới chưa?’ Tôi hỏi cũng  là cách dẫn anh ta vô chuyện chánh. ‘Sao chưa thấy cái đình anh nói?’

   ‘Ði đò qua bên bờ kia. Ðó là làng Bình An, đình Bình An cách bến đò chừng một cây số  ngàn,’ hắn trả lời rành rọt. ‘qua đò rồi lội một đổi nữa thì tới nhà họ. Không xa đâu.’

   Lại còn thêm chuyện đò! Ánh mặt trời chói chang trên đỉnh đầu.  Coi bộ hơi trưa. Sài-gòn lẩm rẩm  mà rộng thinh thang, đi nửa ngày từ  trung tâm chưa ra tới ven biên.

   Con đò ngang đưa khách qua bên đình do một cô gái trắng trẻo độ mười sáu mười bảy tuổi thong thả đẩy đưa mái chèo. Những nhịp đẩy-kéo căng lên căng xuống bộ ngực tròn mạnh thiếu nữ. Nàng thành thạo,  không tỏ vẻ gì tốn sức tốn công.  Tôi chợt nhớ tới chuyện thơ nàng Tiên Bửu xinh đẹp, thông minh chèo đò. Chỉ tiếc mình  không có bộ râu dài phất phơ và  tài đối đáp như ông Trượng.

   Cảnh vật hai bên bờ kinh hiền hòa.  Nhà cửa  khang trang của một vùng quê  trù phú. Mạ non xanh mởn. Sóng lụa rung rinh trên đầu lúa. Gió mát thơm mùi hạt lúa còn đương ngậm sữa. Vài căn nhà lá ẩn hiện sau những  tàn cây mít, vú sữa xum xuê. Nét thanh  bình có thể cảm thấy vương vương lãng đãng cùng khắp không khí. Trong khung cảnh như vậy mà gặp được  một cái đám ma để quan sát luôn  tài nghệ của vợ chồng Hai Một ‘ra đám’, ‘khóc đám’ thì  còn gì thích thú bằng. Một công hai  ba việc. Khỏi phải đi về chờ đợi  lôi thôi.

    Tôi mừng rỡ khi nghe tiếng kèn đám  ma văng vẳng từ xa xa khuất đâu trong xóm. Trúng mối rồi. Mấy thuở  trời chìu lòng người, cầu được  ước thấy.

    Vậy mà tôi không được chứng  kiến gì hết những điều cần chứng kiến, mặc dầu kèn đám  ma đương ò-e ngay tại nhà ông Hai  Một. Tôi không gặp một ông ‘nhưng  quan’ tài nghệ đặc biệt,  điều khiển  mọi chuyện liên quan đến động quan, di quan bằng nhạc của hai khúc tre. Tôi không  gặp một người đàn bà bán nước mắt, khóc mướn trong mấy  đám ma, ré lên từng hồi cắt dạ rồi xuống giọng tỉ tê bi thảm  đau thương, kéo dài ngày nầy qua ngày  khác từ lúc tẩn liệm cho tới  khi hạ huyệt. Những hình ảnh lạ lùng tôi có trong trí vẽ ra do người dẫn  đường khi giới thiệu về cặp  kỳ nhân nầy không thấy đâu nữa.  Còn lại chăng là một cặp vợ  chồng già héo úa từ sâu thẳm trong lòng héo ra, một thứ cây chết  rũ, một loại người bị chấn thương do Tây tà tra tấn bằng bàn tay sắt bọc  vải, bầm nát ngũ phủ lục tạng tuy  bên ngoài vẫn còn chút nào đó  dáng vẻ bình thường.

   Người đàn  ông ngồi đó, mặt co rúm nhăn nheo của một thứ trái chín héo vì quá nắng, mắt ơ hờ ngó ra con đường đất đỏ bụi mù trước mặt, bất động tới cả từng thớ thịt mặt.  Tôi biết chắc chắn cái hàng rào bông bụp đầy bông nở đỏ thắm ngoài  kia, cái hàng rào đặc biệt được  đóng cột bằng mấy cây so đũa trái lòng thòng và sợi dây kẽm giăng kế đó, nơi con gái ông phơi  quần áo hằng ngày, không lọt vào trong giác trường của ông. Kể cả  những người học trò đạo tỳ  mặc quần áo đen viền trắng lăn xăn  lít xít vì chuyện của thầy cũng vậy  thôi, không có. Thời gian và hoạt cảnh trên cõi đời nầy hình như  đối với ông không còn nữa.  Dàn  đờn trổi ò-e ngưng trổi không  biết bao nhiêu chập, tôi để ý nhưng  không thấy vợ chồng ông Hai Một  nhúc nhích cục kịt gì, ngay cả khi một người đệ tử tới trước mặt ông  cung kính xin phép cho mình được thay ông điều khiển cuộc ‘di quan’, ông  cũng không trả lời hay hạ cái màn  vô hồn trước ánh mắt mình xuống,  mặc cho đám đệ tử và ông Hòa Thượng già điều khiển việc  khiêng cái hàng ra khỏi khung cửa chật hẹp của căn nhà. Hai chung rượu  để trên nắp hàng sóng sánh rồi tràn ra vài giọt do sự điều khiển không thành thạo của người đệ tử trẻ ông cũng không thấy, không  biết. Hồn ông đương ở trong một  cảnh giới ta-bà nào đó xa xăm, chỉ cái thân xác ngủ uẫn hiện diện  mà thôi.

    Ðám ma ra tới đầu ngõ,  ông Hai Một mới choàng tỉnh khỏi cơn mộng du, đứng dậy bước chậm rãi theo vài ba người đi chót  sau khi đã ngó bà vợ và lắc đầu trong tiếng thở dài. Người  đàn bà ngồi trên cái ghế dựa, mắt vô hồn ngó tôi khi tôi tới  kế bên nói mấy lời chia buồn cho  phải phép. Không có một giọt nước mắt nào trên khóe mắt của người  đàn bà suối lệ dễ tuông này.  Không có cả một hít, khịt mũi nhỏ  nhoi. Không có cả chuyện đỏ hoe hai mắt hay tiếng kể lể phân bua. Vậy đó.  Một sự im lặng tuyệt đối của môi trường chân không. Vô  lý tới khó tin.

   Tôi ngó lại lần nữa tấm hình  người quá cố. Cô gái có nụ cười thật buồn nhưng vẻ trẻ trung  làm nao nao lòng người. Ðôi mắt sâu thăm thẳm của cô khiến ai nấy  dòm qua một lần cũng phải ngó lại  một lần nữa. Cái đẹp man dại  và lôi cuốn. Cái đẹp của một cánh đồng đầy hoa thắm bên triền núi rộng cao. Có thể hình ảnh cô  gái trẻ mới chết có sức mạnh  tạo xúc động cho người sống –và một chút bằng lòng vì sự bất hạnh giáng xuống người khác chớ không phải mình — khiến phải ngó thêm. Tôi thấy trí mình  coi bộ cải lương khi bỗng nhớ tới  câu thơ có mấy chữ ‘hồng nhan bạc mệnh.’

  ‘Vợ chồng họ làm nghề thất đức nên  bây giờ như vậy đó,’ người dẫn đường kéo tôi  về thực tế khi anh bấm tay tôi nói nhỏ. ‘Cha tẩn liệm, di quan người khác lôi thôi, nên Trời khiến tới phiên con mình thì sững sờ  muốn tự tay săn sóc cũng không làm  được. Tụi học trò đạo tỳ nó làm  đâu có đúng lễ. Hồn ma trước  đây họ về trả thù đó. Biết  bao nhiêu lần ổng bẻ tay bẻ chưn thiên hạ mạnh tay hay làm ẩu xị cho qua. Biết  bao nhiêu lần ổng thay áo thay quần hay tẩn  liệm dụt chạc, nhứt là người  nghèo… Ðể rồi coi, hồn cô ta còn  lẩn quất nhiều ngày trên trần thế  chưa xuống dưới đó liền được  đâu. Thiếu lễ đi đâu có xuôi  chèo mát mái. Nhiều khi nó về nó phá nữa là khác.’

   Không đồng ý với nhận xét nầy, nhưng tôi không cãi. Con người ta  sinh ra vốn là mục tiêu cho những tấn  kích cách nầy cách nọ của tất cả ai khác trên đời, huống gì  chú Hai Một làm một nghề thiên hạ  chỉ thấy sợ hải và xa cách.

   Không muốn khơi mào một cuộc đấu  khẩu vô ích, tôi chỉ qua thím Hai Một,  chưa kịp nói gì thì người dẫn đường  đã lên tiếng, lần này pha một chút  giọng thầy đời.

   ‘Thói thường thương vay khóc mướn  tới khi cần khóc cho mình thì hết nước mắt.’

   Phải, điều gì xài quá thì mau hết,  cái lý đó cũng đâu có gì là khó hiểu. Nói một cách trừu tượng,  cái tình thương bà ta xài cho thiên  hạ trong bao nhiêu năm trường ‘khóc đám’ khiến cho bà ta cạn tuyệt tình  thương đối với con gái mình. Suối  lệ cạn nguồn người ta thường  nói vậy hoài.

   Vâng, lý luận này có vẻ hữu  lý nếu — và nếu, và nếu — tình thương là một dạng của vật chất cụ thể. Con  người ta thường tỏ ra mình thông  thái, mình phải, mình hay như cái anh chàng  nói nhiều nầy. Mấy ai biết được  và thông cảm được với vợ chồng ông nhưng quan Hai Một. Tình thương con biển trời lai láng của họ khiến  tất cả những biểu lộ bình thường khác đã trở thành vô nghĩa, không phù hợp. Với người sơ tôi đã khóc, và đã khóc mùi mẫn, với con gái cưng  của tôi, tôi cũng khóc như vậy hay thôi sao? Tại sao tôi phải giống thiên  hạ biểu lộ tình thương bằng nước  mắt kia chứ? Có sự khác biệt  giữa con gái tôi và người thiên  hạ chứ? Nếu khóc đám làm xôm đám chớ không biểu lộ tình yêu thương  chân thật thì cái gì mới diễn  tả được lòng thương con của  tôi đây. Con ơi, con nỡ bỏ cha mẹ  già một mình ra đi sao con…

  Tôi dòm lại dáng thất thểu của  chú Hai Một sau đuôi đoàn người. Bước thấp bước cao, hụt hẫng như một hình nộm được điều  khiển vụng về. Tôi ngó lại thím Hai Một, cũng dáng ngồi đó không biết bao lâu rồi, hai tay buông xuôi trên vế, bất động của một pho tượng  đất sét, thểu não của một thứ người tuyết đương tan rã từ  từ. Thím sẽ ngã xuống. Chắc chắn  như vậy.

    Tôi bỏ ra về, không dám ngó lại  một tấm hình khác ở trên bàn thờ.  Cuộc  đời người con gái đó bình thường, cái chết cũng có thể rất bình thường  nhưng một nhân duyên đặc biệt đã  hé mở cho tôi một cánh cửa để  nhận thấy rõ ràng về tấm lòng nhỏ  nhen, ganh ghét của người đời  nói chung và nỗi đau đớn khôn  cùng của cặp vợ chồng già mất  con trẻ nói riêng.

  Trên đường về không khí bỗng  nhiên nặng nề u ám ngang. Tôi ngậm câm cho tới  lúc chia tay.

    Tại sao?

   Tôi xúc động vì lòng thương con  trời biển bao la đến nỗi mất hồn  của cặp vợ chồng nhưng quan – khóc  đám Hai Một. Mà cũng có lẽ là  do tình cảm trân trọng đối với  một cánh rừng đang chứa chấp một loài trân  cầm dị điểu kỳ hoa hiếm hoi đang trên đà  tuyệt chủng.

   Sau nầy lắm lúc ngồi ôm súng ở  một vùng đồi núi cao nguyên, đêm  về bốn bề tĩnh mịch, giữa cảnh  trùng trùng của bóng tối bao la, trí  nhớ bình bồng trôi về quá khứ,  tôi ngạc nhiên thấy kỷ niệm của  mình về Sàigòn không chỉ nằm trong  chỗ những sinh hoạt ồn ào tục tằn  ở các khu ổ bùn lầy nước đọng từng sống một thời gian  dài lúc trẻ, và những nơi có  kiến trúc nguy nga tráng lệ có dịp đặt  chơn tới sau nầy khi đã  thành nhơn, mà còn nằm ở cảnh  trí đơn giản của một buổi sáng  ven đô nơi ít người biết tới  là làng Bình An bên kinh Ruột Ngựa, chỗ căn nhà có hàng rào bông bụp, xen kẻ bằng hàng cây so đũa lòng  thòng trái…

   Không ai chịu mất thì giờ đào  sâu vào chốn tận cùng tâm hồn mình  để tìm hiểu những yếu tố cụ  thể nào khiến mình yêu đậm đà  quê hương xứ sở, thân mến  tuyệt cùng với nơi mình lớn lên  trong buổi đầu đời.

Mà cần gì  tìm hiểu nguyên nhân?

Sàigòn cũng  vậy, đối với tôi thân thiết, đáng nhớ, xa trong thực thức nhưng  tiềm thức không bao giờ xa. Bao nhiêu  đó đã là quá đủ. Một vài  chi tiết cụ thể về nơi nầy nơi nọ, người nầy người kia, nói cho cùng, cũng chỉ như một nhúm sao nhỏ nhoi trong vũ trụ bao la của triệu triệu dãy Ngân  Hà.

Nguyễn Văn Sâm

(Port Arthur, Texas, 3- 1992, những ngày dạy học trầm buồn ở quê người. )

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *