Công dân ơi! Đứng Lên Đáp Lời Sông Núi

Trần Quốc Bảo

Ru con, Canh 1

À ơi!
Hạ hời ơi!
Canh một con ngủ cho say
Để mẹ ra chợ ăn mày nuôi con
Xót xa mấy chục năm tròn
Quỉ ma ngự trị trên non sông này
Sống trong tủi nhục đắng cay
Mất tự do, mất luống cầy nương khoai
Mất hiện tại, mất tương lai
Như câm điếc, dưới gót giầy Cộng nô
Toàn dân uất hận giặc Hồ
Tôn thờ Cộng sản dày mồ Việt Nam
Dòng lịch sử bốn ngàn năm
Ai ngờ nay lại tối tăm thảm sầu
Mười nước mạt nhất hoàn cầu
Việt Nam giờ đứng hàng đầu con ơi!

Ru con, Canh 2

À ơi!
Hạ hời ơi!
Canh hai con ngủ cho vùi
Để mẹ ra chợ buôn chui, bán lòn
Mánh mung chằng đủ nuôi con
Đồ nhà chôm hết, đâu còn thứ chi
Hết cơm, hết cả khoai mì
Bo bo sống sượng, lấy gì con ăn
Gườm gườm mũi súng công an
Lao tù cải tạo gian nan chất chồng
Cột điện mà nó biết rông
Thì nó đã bỏ, nó dông tám đời!
Một năm ba mét vải sồi
Ăn lông ở lỗ như thời sơ khai
Vậy mà nói láo thiệt tài
Tự do, hạnh phúc, vượt ngoài chỉ tiêu! (?) ”

Ru con, Canh 3

À ơi!
Hạ hời ơi!
Canh ba con ngủ cho yên
Đừng nghe Việt Cộng tuyên truyền ba hoa
Tối ngày ông ổng qua loa
Hòa bình, độc nập, rân ta phú cường! ”
Người dân đội đất nằm sương
Những câu bịp bợm dễ thường ai tin
Thiên đường Các-mác Lê-nin
Là nơi đầy đọa ăn xin ngủ đường
Việt Nam mình thật đáng thương
Dưới tay Đảng trị, tai ương dập dồn
Với Tầu Cộng, Đảng cúi luồn
Với dân, đàn áp đến muôn kinh hoàng
Núi sông phủ một mầu tang
Mẹ nhìn con ngủ hai hàng lệ rơi!

Ru con, Canh 4

À ơi!
Hạ hời ơi!
Canh tư con ngủ cho ngoan
Ru con lòng mẹ nát tan thảm sầu
Đắng cay nhìn khắp năm châu
Việt Nam mình có phải đâu ngu hèn
Vốn dòng Hồng-Lạc Rồng-Tiên
Giang sơn như gấm hoa miền Á Đông
Biết bao liệt nữ anh hùng
Biết bao tuấn kiệt, kiếm cung văn đàn
Thế mà Nước mất nhà tan
Quốc dân gánh chịu muôn vàn khổ đau
Sĩ phu … sao chịu …cúi đầu ???
Anh thư, hào kiệt … lánh đâu hết rồi ???
Da vàng máu đỏ con ơi!
Có nghe lời mẹ ru hời năm canh ???

Ru con, Canh 5

À ơi!
Hạ hời ơi!
Canh năm con ngủ đã lâu
Niềm đau sông núi con đâu biết gì
Hỡi ơi! … Tổ Quốc lâm nguy !!!
Tầu-Cộng xâm lấn biên thùy Nước ta
Nam Quan lùi mốc thiệt xa
Ngoài khơi, Quần đảo Hoàng sa mất rồi!
Nội địa, Đảng dâng núi đồi
Đảng dâng Vũng Áng cho người ngoại bang
Chúng làm nhà máy thép gang
Làm chim, cá chết, tàn hoang xứ mình
Than ôi! vận Nước điêu linh
Ai người cứu Nước hi sinh anh hùng ?
Qua đêm tăm tối mịt mùng
Con ơi! Tỉnh dậy rạng đông rồi kìa !

                         ***
Ru con nước mắt đầm đià
“Con ơi! Nước Việt mai kia mất còn
Tương lai Tổ Quốc tay con
Mau mau vùng dậy cứu non sông nhà !!!”

Trần  Quốc Bảo
Richmond, VA

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

naycongdanoi

To My Mom – Gửi Mẹ Của Con

Nguyên tác: Cryssy Gambrill
Chuyển Ngữ: Tâm Minh Ngô Tằng Giao

roseflower-316621

 

 

TO MY MOM

To My Mom
who’s a listener and a friend,
To My Mom whose love never ends.
To My Mom whose heart is sore broken,
To My Mom whose love
is unspoken.

To My Mom
who never really ages,
To My Mom I could fill up pages.
To My Mom who unwraps my emotions,
To My Mom,
I’d swim over oceans.

To My Mom
I’m proud to express,
“You’re the greatest and the best.”
To My Mom who sacrificed much,
To My Mom
I love your sweet touch.

To My Mom
I’m still her sweet little baby,
To My Mom who loves me
though sometimes I’m lazy.
To My Mom I can be the most honest,
To My Mom who keeps her promise.

To My Mom
who prays from her heart.
To My Mom who has had a great part,
In shaping and making me into the child
who once was confused and
often too wild.

To My Mom,
there’s only one you,
To miss Mother’s Day
I’d feel real blue.
I love to hold you and
express my thanks
For loving me
in spite of my pranks.
And to share all our stories
though wild and far-fetched,

Your beautiful smile
will always remain etched
In My memory
of people I love.
You’re surely a gift
sent from above.
To My Mother,
a queen in my eyes,
My special love for you
never dies!

So Happy Mother’s Day
to the dearest of ladies,
I’m so thankful I could be
one of your babies.
May this year bring you
your heart’s hidden desires,
And never quench the love
that inspires
Your children
to walk in the path of real love.
You’re truly
a treasure
sent from above!

Cryssy Gambrill

GỬI MẸ CỦA CON

Vài hàng kính gửi Mẹ yêu
Mỗi khi con nói Mẹ chiều Mẹ nghe
Mẹ là người bạn cận kề,
Suối nguồn tình Mẹ không hề cạn vơi.
Đôi khi lòng Mẹ tơi bời,
Thâm trầm tình Mẹ không lời thốt ra.

Mẹ thời trẻ mãi không già,
Tình con dâng Mẹ chan hòa ngàn trang.
Trong con tình cảm thênh thang
Mẹ thời khai mở nhẹ nhàng cảm thông,
Cho dù biển rộng mênh mông
Con bơi tìm Mẹ mà không ngại ngùng.

Con yêu Mẹ, yêu vô cùng
Con luôn kiêu hãnh nói sung sướng rằng:
“Mẹ vĩ đại không ai bằng
Mẹ thời tuyệt hảo, vĩnh hằng, Mẹ ơi!”
Mẹ hy sinh cả một đời,
Bàn tay xoa dịu con thời khó quên.

Mẹ coi con ở cạnh bên
Mãi còn bé bỏng lành hiền thơ ngây,
Con dù lười biếng đôi ngày
Mẹ luôn thương mến la rầy gì đâu.
Con luôn thành thật hàng đầu,
Noi gương Mẹ quý trước sau giữ lời.

Mẹ thường cầu nguyện đất trời
Thiết tha, nồng thắm, muôn đời thành tâm.
Chính bàn tay Mẹ dự phần
Nuôi con lớn dậy khôn ngoan nên người
Dù con Mẹ đã có thời
Bước chân lầm lạc rong chơi lỡ làng.

Mẹ ơi con muốn thưa rằng
Khó ai mà lại sánh ngang Mẹ hiền,
Con ân hận, con muộn phiền
Nếu “Ngày Hiền Mẫu” lại quên năm này.
Con mong ôm Mẹ trong tay
Thốt lời âu yếm giọng đầy tri ân
Vì rằng Mẹ đã bao lần
Yêu con, không chấp lỡ lầm của con.
Và lòng mẹ đã chẳng buồn
Cảm thông chia xẻ chuyện con hoang đàng,

Nụ cười Mẹ mãi rỡ ràng
Phô ra nét đẹp huy hoàng khắc sâu
Trong con ấp ủ dài lâu
Tận cùng tâm khảm rạng màu thương yêu.
Mẹ là tặng phẩm mỹ miều
Trời cao ban phát với nhiều hồng ân.
Mẹ là tiên nữ giáng trần
Nữ hoàng lộng lẫy trong tầm mắt con,
Con yêu Mẹ, yêu thật lòng
Tình con dâng Mẹ mãi không phai tàn!

Con yêu Mẹ nhất trần gian
Nhân “Ngày Hiền Mẫu” ngập tràn niềm vui
Con ghi ơn Mẹ suốt đời
Được làm con Mẹ tuyệt vời biết bao.
Những điều Mẹ ước từ lâu
Bao ngày chất chứa thầm sâu trong lòng
Con cầu chúc, con ước mong
Năm nay Mẹ sẽ đạt xong vẹn toàn,
Tình gây cảm hứng dâng tràn
Không bao giờ tắt, ngày càng đẹp thêm
Hướng đàn con nối gót liền
Theo đường rực rỡ dấu in chân tình.
Mẹ là kho báu thiên đình
Trời cao ban xuống cho mình con thôi!

Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(chuyển ngữ / Mother’s Day 2016)

rose-19

Nhắn Kẻ Trở Cờ

Trần Văn Lương

thangtudenHỡi người bạn trở cờ theo lũ giặc
Đang nắm quyền sinh sát ở quê tôi,
Đừng chỉ vì chút canh cặn cơm ôi,
Mà thay chúng nói rặt lời dối trá.

Chúng luôn mồm ra rả,
Đánh lừa thiên hạ khắp nơi.
Và chẳng may, đâu đâu cũng có người,
Vẫn nhẹ dạ tin trò chơi bịp bợm.

Này bạn hỡi, đừng đem lời chúng mớm,
Để qua đây luôn sớm tối kêu gào.
Bạn giết người mà chẳng dụng gươm dao,
Khi theo chúng rêu rao điều gian dối.

Đừng dẫn chứng đám cò mồi múa rối,
Bọn thầy tu giả mạo mới ra lò,
Rồi phùng mang trợn mắt hót líu lo,
Rằng đất nước có tự do tôn giáo.

Chúng tóm kẻ chức quyền cao trong đạo,
Cho xênh xang áo mão để reo hò,
Để thổi phồng chiếc bánh vẽ “xin cho”,
Hoặc trình diễn lắm trò hề tương tự.

Chúng bắt chẹt tình cảm người xa xứ,
Dụ họ về bằng hai chữ “quê hương”,
Bằng những câu giả dối ngọt như đường,
Bằng hình ảnh của “vườn” kia “trái” nọ.

Rồi hốt trọn bầy “cá hồi” vô rọ,
Vắt cạn tiền, xong vất bỏ thẳng tay.
Chuyện sờ sờ trước mắt chẳng chịu hay,
Sao bạn vẫn luôn cối chày ngụy biện?

Đừng núp bóng dưới chiêu bài “từ thiện”,
Miệng oang oang toàn nói chuyện thương người,
Nhưng thực ra là về để ăn chơi,
Cùng đóng kịch mong được đời ca ngợi.

Đừng lợi dụng chuyện thiên tai lụt lội,
Để làm giàu trên nỗi khổ của dân.
Thiên hạ ai cũng biết rõ trăm phần,
Mà sao bạn vẫn trần thân lải nhải?

Đừng ong óng toàn những câu nhai lại,
Nào ” giao lưu”, nào “hòa giải”, “thứ tha”.
Sao bạn không dám bảo bọn tà ma,
Ngưng bách hại người sa cơ thất thế?

Đừng trâng tráo nói “không làm chính trị”,
Khi chính mình xin tỵ nạn nơi đây,
Khóc sụt sùi khai với Mỹ, với Tây,
Vì sao phải đắng cay rời quê cũ.

*****

Thân nhược tiểu, mong manh quyền tự chủ,
Bị “đồng minh” bán cho lũ sài lang.
Nên chúng tôi phải đau đớn tan hàng,
Chua xót đứng nhìn giang san tơi tả.

Vì lương thiện, chúng tôi đà trả giá,
Bằng khăn tang của cả triệu người thân,
Bằng những dòng lệ ngập mắt cá chân,
Bằng sinh mạng ngàn quân dân cán chính.

Vì tưởng chúng còn mảy may nhân tính,
Nên bao người đã dính phải tai ương,
Kẻ bỏ mình trong núi thẳm mù sương,
Kẻ giũ kiếp giữa trùng dương sóng gió.

Cũng vì bởi những người như bạn đó,
Mà quê ta, giặc đỏ vẫn cầm quyền,
Sống giàu sang, phung phí những đồng tiền
Từ xa trút liên miên về chốn cũ.

Bạn hỡi bạn, sao đang tâm hưởng thụ,
Trên vết thương đầy máu mủ dân mình,
A tòng theo bọn bán nước cầu vinh,
Để tiếp tục làm điêu linh đất tổ.

Dân tộc Việt chỉ hoàn toàn hết khổ,
Khi lũ này không còn chỗ dung thân,
Khi Cờ Vàng phất phới giữa trời xuân
Theo nhịp bước đoàn quân Nam anh dũng.

*****

Bốn mươi mấy năm từ khi buông súng,
Quá khứ buồn giờ chắc cũng phôi pha.
Bao triệu người, còn mấy kẻ xót xa,
Khi nhớ đến một quê nhà đã mất.

Trần Văn Lương 
Cali, đầu mùa Quốc Hận,
4/2016

thang tu den 3

Đưa Anh Vào Cuộc Viễn Du

(Kính dâng hương linh giáo sư Nguyễn Ngọc Bích) 

Cao Nguyên

nnb-2
Hôm nay mười hai tháng ba
đưa Anh Ngọc Bích đến nhà vĩnh an
nguyện lời theo khói hương trầm
cầu mong Tâm Việt thỏa lòng viễn du
 
Đời Anh vì Nước ưu tư
Tình Anh vì Đất vẫn cười thản nhiên:
đấu tranh mưu cuộc nhân quyền
phải như cây sống trên miền hạn khô
 
Vòng Tay Anh là bến bờ
sẵn lòng đón kẻ ơ hờ thế nhân
Trí Tâm Anh là tấm lòng
vị tha nhân ái khơi hồng lửa tin
 
Đời Anh rạng ánh bình minh
rọi trên biển đảo gọi nhân sinh về
với tình tổ quốc hương quê
nối liền mạch chảy sơn khê Lạc Hồng
 
Tim dừng đập trên Biển Đông
để luân chuyển nhịp vào trong đất liền
hòa cùng sông núi hồn thiêng
phục sinh hào khí Rồng Tiên anh hùng
 
Hợp lòng dân Bắc Nam Trung
cùng nhau khởi sự phục hưng sơn hà
lời tim nồng nhiệt thiết tha
Anh đi nhắn lại chung hòa yêu thương
 
Giữ gìn đạo đức kỷ cương
phát triển Hồn Việt muôn phương thấm truyền
Tự Do – Dân Chủ – Nhân Quyền
hành trình Anh mở còn nguyên lời mời!
 
Đưa anh vào cuộc rong chơi
tám mươi năm đã vì đời dựng xây
Anh đi nhưng mãi nơi này
Ân Tình Anh vẫn hằng ngày khắc ghi!

Cao Nguyên
Washington D.C. – March 12, 2016 

———————————–
Tâm Việt là bút hiệu của Giáo Sư Nguyễn Ngọc Bích

Tết Tha Hương

(Thơ hoài hương ngày Tết của một số nhà thơ
vùng thủ đô Hoa Thịnh Đốn.)

tethanoi

Khi ngày Tết tới, trong kiếp sống tha hương người Việt chúng ta ai cũng có ḷòng tưởng vọng về quê cũ. Riêng đối với các nhà thơ, tình hoài hương lai láng đó được giàn trải bàng bạc thành những vần thơ dâng đầy sầu cảm.

Tết đến rồi kìa! Dù nơi cửa Thiền hay ngoài cõi tục trần vẫn luôn thoang thoảng mùi hương thơm của hoa Xuân:

“Hiên chùa trăng sáng bao la
Mùa Xuân của Đạo nở hoa nhiệm mầu
Hương thiền hàn gắn khổ đau
Ngõ tu phúc huệ, đường vào Chân như”
(Bùi Thanh Tiên)

“Đông đến và mùa khơi tháng giêng
Xuân gieo đêm chuyển mộng an hiền
Bừng vui môi mắt cười xanh quá
Mộng bỗng vàng ươm thơm cúc hoa.”
(Ý Anh)

Mỗi độ vào ngày Tết lại là một lần nhẩm đếm để ghi dấu thêm một năm nữa xa quê và lòng vẫn trĩu nặng hình ảnh dĩ vãng:

“Năm năm mỗi độ Xuân về
Nước non nhắc nhở niềm quê bồi hồi.”
(Kim Y)

“Nắng  vàng  như  mật  ong
Gió  xanh  màu  cỏ  biếc
Lòng  ta  đầy  tưởng  tiếc
Một  thời  Xuân  xa  xưa…”
(Hoàng Song Liêm)

Ngày Tết dù có đua nở khoe sắc thắm tươi với vạn vật nhưng nhiều lúc có lẽ đã tắt ngấm trong lòng người ly hương:

“Vui xuân đón Tết nhường thiên hạ
Riêng khách lưu vong vạn cổ sầu”
(Kim Y)

“Quê hương mình đẹp đâu bằng
Xuân xa quê chẳng nghĩ rằng là xuân”
(Hà Bỉnh Trung)

“Quê người đất khách Xuân sang
Trời đông giá lạnh lòng hoang vắng sầu
Cảnh đời sao lắm biển dâu
Tuổi thơ cho đến bạc đầu phong sương”
(Hoàng Trùng Dương)

Lòng nhớ quê hương lại càng nung nấu hơn nữa khi xuân cũng phải đổi màu vì tuyết trắng rơi phủ lạnh lẽo nơi xứ người:

“Xuân xanh, xuân đỏ rồi xuân trắng
Ta biết tìm đâu bóng dáng quê?
Ta biết tìm đâu thêm chút nắng
Khi trời đang lạnh, tuyết lê thê”
(Hà Bỉnh Trung)

Đêm nay thức đợi Giao Thừa
Vườn sau vi vút gió lùa rặng thông
Một trời tuyết trắng mênh mông
Nhớ về quê mẹ cõi lòng quặn đau
(Lê Thị Ý)

Quê nhà cách xa cả nửa vòng trái đất, trông vời chỉ thấy núi cùng sông, thấy biển cả mênh mông, thấy dáng chiều buồn vời vợi dưới ánh trăng suông:

“Xuân về đây – không hoa không lá
Vạn vật thờ ơ
Xuân xa lạ
Khách phong sương chợt thấy dạ bồi hồi
Xuân ơi! Xuân!
Từ lâu đã mất xuân rồi
Bao giờ xuân thắm quê tôi trở về”
(Trần Quốc Bảo)

“Rau răm trụi hết lá già
Mùa Xuân gửi ngọn bạc hà xa xăm
Chiều nghiêng dáng núi đêm rằm
Lũng trăng cũng giục âm thầm nhớ quê”
(Giang Hữu Tuyên)

“Dụng tửu phá thành sầu”, một chén rượu đưa tiễn năm cũ và đón chờ năm mới cũng vẫn chẳng làm ấm lòng người xa xứ, không mang lại chút vui nào:

“Năm châu lạc bước, vùi mưa tuyết
Nhìn đâu chẳng thấy bóng quê hương
Rượu đêm trừ tịch, xuân đất khách
Vẫn không cạn nổi, chén chán chường!”
(Vũ Hối)

 “Ta rót mừng ta ly rượu đỏ
Chào Xuân đất khách, Tết tha hương
Hỡi ơi quê mẹ xa ngàn dặm
Se sắt lòng ta nỗi nhớ thương!”
(Hoàng Song Liêm)

“Xuân à! Những tưởng Xuân đi.
Nào hay Xuân lại tức thì đến ngay.
Đời say, Xuân cũng say say.
Hoa vàng, bướm trắng, ngất ngây một trời.
Xuân à! Những tưởng Xuân tươi.
Ngờ đâu Xuân cũng biết cười gió đông
Bên kia Xuân đẹp, Xuân nồng.
Bên này Xuân quá lạnh lùng, hỡi Xuân!”
(Đăng Nguyên)

Dù đầy nhung nhớ nhưng chỉ cần nghĩ đến hình ảnh quê nhà là tâm hồn người ly hương lại đã bừng lên niềm hoan hỉ chen lẫn mối hận lòng:

“Quê hương khuất nẻo chân trời
Bỗng dưng chớp rạng sáng ngời quê hương”
(Vi Khuê)

“ngỡ là xuân đến sau đông
Hoa đào xinh xắn tô hồng môi duyên
chỉ vì quốc hận chưa quên
hồn thơ u uẩn giữa mênh mông đời”
(Cao Nguyên)

Thời xưa thi sĩ Lamenais viết: “Kẻ tha hương ở đâu cũng cảm thấy cô đơn, lạc lõng” (L’exilé partout est seul). Thời nay các nhà thơ xa xứ cũng có tâm trạng đồng điệu, cõi lòng cũng lạnh lẽo khi nhớ tới tiếng pháo nổ ròn, nhớ về bóng mai vàng chào đón Tết trong ánh nắng quê xưa:

 “Đâu còn đón Tết, mai vàng
Ngậm ngùi nuốt lệ, trái ngang nghẹn ngào”
(Vũ Hối)

“Xin gửi qua giùm chút nắng Xuân
Bên này đã lạnh thuở Thu phân
Bây giờ trời đất tràn băng giá
Không biết làm sao để ấm lòng”
(Lãm Thúy)

Dù khi có hoa đào nở, có hoa mai vàng hé nụ nhưng ngày xuân vẫn có vẻ gượng gạo, chẳng mang lại niềm vui:

“Ngỡ ngàng viễn xứ xa xôi
Bồng bềnh mây trắng nổi trôi quê người
Rộn ràng đào thắm khoe tươi
Mai vàng hé nụ gượng cười đón xuân”
(Quỳnh Anh)

tet que nha

Trong cuộc sống xa xứ bà Mẹ hiền cao niên luôn nhớ đến quê cũ khi xuân về.

“Làm sao em quên được
khi lúc nào Mẹ cũng âu lo.
Nghĩ đến những người thân còn kẹt lại.
Tối ngày, Mẹ cứ thở ngắn than dài…
Hỏi mãi, hỏi hoài
“Bao giờ mình mới được
về sống ở Việt Nam?”
(Hồng Thủy)

Khi chính bà Mẹ mình còn kẹt lại quê nhà thời nhà thơ đâu còn thiết đến đón Tết vì vắng hình ảnh kính yêu trong tâm khảm:

“Mẹ mất vào cuối năm
Hỏi chi hoa mai nở
Chờ gì én phất phơ
Ngàn đời xuân biệt tăm”
(Nguyễn Thị Thanh Bình)

Nhà thơ nhớ lại ngày nào còn viết những vần thơ đón Tết thành khẩn cầu chúc cho Cha Mẹ kéo dài tuổi thọ với đầy ân phước:

“Năm nay Xuân nữa, viết thơ xuân
Cầu cha mẹ thọ, đủ vui mừng
Tài lộc không màng, xin chỉ vậy
Phước là vui sống với song thân”
(Lãm Thúy)

Hình ảnh song thân trong gia đình Việt Nam quả thật mãi đẹp trong tâm hồn các nhà thơ:

“về thôi, Tết đã đến rồi
Mẹ chờ đun lửa canh nồi bánh chưng
Cha chờ rót chén rượu mừng 

đêm chờ ngày mới núi rừng rộ hoa”
(Cao Nguyên)

Nhưng rồi theo quy luật “vô thường” Mẹ yêu cũng khuất bóng khiến lòng nhà thơ ngậm ngùi hơn khi năm cùng tháng tận:

“Xuân về chạnh nhớ Mẹ yêu
Nghĩa trang hoang vắng buồn hiu mộ phần
Mẹ đi giã biệt dương trần
Không còn mong đợi mỗi lần xuân qua”
(Hoàng Trùng Dương)

“Nhớ ngày năm ngoái con còn Mẹ
Cùng đón Xuân về, vui biết bao.
Mẹ khuất. Năm nay Xuân quạnh quẽ
Tha hương nghe lạnh gió đông sầu.”
(Lãm Thúy)

Giây phút linh thiêng đón Năm Mới cũng là lúc nhớ đến song thân, đến “Nguồn Cội”:

“Giao thừa kinh nguyện ngát trầm hương
Giây phút thanh tân thắm nụ hường
Bóng Mẹ hiền lương am Tịnh Độ
Dáng Cha phúc hậu mái Xuân Đường.”
(Phan Khâm)

“Thắp nén nhang trầm đón Tết ta
Mâm đầy ngũ quả lại bày ra
Chè sen thơm ngát dâng tiên tổ
Hương khói chân thành khấn Mẹ Cha”
(Nguyễn Thị Ngọc Dung)

Sợ thế hệ con cháu trong tương lai bị vẩn đục bởi bụi bặm cõi trần gian mà quên nếp cũ, nhà thơ nhắc nhở:

“Tân niên khai bút đề thơ
Nhang trầm thơm ngát bàn thờ tổ tiên
Rể, dâu, con, cháu đoàn viên
Cả nhà sum họp ấm êm vui vầy…”
(Hoàng Trùng Dương)

“Tết nay nội ngoại về trời,
Mẹ cha khuất núi, xa vời người thân,
Phong tình cổ tục quên dần,
Gắng công gìn giữ được ngần ấy thôi”
(Nguyễn Thị Ngọc Dung)

Nhà thơ cũng lại nhớ thêm đến cả người con thân yêu đã yểu số xa lìa dương thế:

“Cây đào cũ hết ra hoa.
Con về thiên cổ, Hoa là cành không.
Xuân còn sót lạnh tàn đông
Mẹ còn nguyên, nỗi nhớ nhung đọa đày.”
(Lãm Thúy)

Đôi khi cõi lòng tưởng nhớ đến hình ảnh một bóng hồng năm cũ với nụ cười như hoa nở, nhớ lúc cận kề tình tứ trong buổi gặp gỡ hôm nao, hình ảnh dấu yêu vẫn mãi vương mang trong tiềm thức:

“Tôi vô tình nhớ năm qua
Vào xuân em mát lụa là tháng giêng
Em cười nở nụ thủy tiên
Đời tôi hóa kiếp truân chiên mất rồi”
(Phan Khâm)

“Xuân về chợt thấy thiếu em
Yêu đương nồng thắm êm đềm ngày xưa
Bên nhau biển lặng rừng thưa
Có em quên hết nắng mưa, ưu phiền…”
(Bùi Thanh Tiên)

Thơ hoài hương day dứt nỗi buồn xa xứ, lai láng tình tự dân tộc. Những vần thơ không chỉ còn là những dòng mực trải trên trang giấy vô tri vô giác nữa mà đã thật sự gần gũi với dòng máu chảy trong huyết quản khách ly hương. Bao hình ảnh thân thương xa xưa lại được dịp hồi tưởng lại khi đón Tết xa quê:

 “Tha hương Tết lắm ngậm ngùi…
Thương quê, thương bạn, đâu nguôi lòng này
Ngồi đây đếm vạn đắng cay
Giao thừa quê mẹ, phương này tuyết rơi.”
(Vũ Hối)

“Xuân đến rồi ư người bạn nhỏ
đầy thềm tuyết đọng suốt đêm qua
ngẩn ngơ tự hỏi mùa xuân đến
xuân ở ngoài đời hay trong ta…
Nghĩ lại năm xưa xuân hớn hở
bạn bè nhộn nhịp lòng như hoa…
 Xuân này ngó lại đầy bông tuyết
tóc trắng bay theo những mộng đời
bạn cũ, quê xưa nào đâu thấy
chỉ thấy quanh nhà tuyết lại rơi.”
(Nguyễn Tường Giang)

Vào cuối năm, khi nhìn tuyết rơi trắng nơi nơi ở khắp đất khách lòng nhà thơ lại gợn lên bao nỗi sầu nhất là khi cô đơn đón Tết:

“Người bạn bên hàng xóm
ngừng đào tuyết, hỏi tôi
man, you looked so sad
what’s your problem?
Vâng, lòng tôi buồn lắm
Hôm nay ngày cuối năm
Bao nhiêu người đón Tết
Tôi ở đây một mình”
(Nguyễn Tường Giang)

    Đôi khi bão tuyết mịt mùng, chôn lấp cảnh vật, chôn sâu thêm nỗi niềm nhung nhớ của nhà thơ. Trong màn sương tuyết đó bóng người sao mà mờ ảo, như thực, như hư, chập chờn vì sương tuyết hay vì làn nước mắt, vì giấc mộng mơ:

“Lại một Xuân về trên đất khách
Tết buồn, Tết nhớ, Tết tha hương!
Ngày xanh như lá thu vàng rụng,
Trở giấc đêm về mộng viễn phương.”
(Hoàng Song Liêm)

 Nhà thơ đôi lúc cảm thấy không còn thi hứng để sáng tác, khi nghĩ đến cảnh khổ đau của người dân trong nước:

 “Tân niên gác bút không khai bút
Thơ xuân ngượng ngập ở đầu môi”
 (Trần Quốc Bảo)  

Hoặc khi nghĩ đến cảnh xưa tang tóc vì chiến tranh lẫn cảnh đọa đày ngày nay của dân Việt trong nước:

“mùa Tết mà rưng cay khoé mắt
phải anh vừa nhắc chuyện Mậu Thân
Huế chít khăn sô buồn thấm đất
mưa phùn phủ trắng mộ đời hoang”

(Cao Nguyên)

“Anh hỏi em
Mỗi độ Xuân về trên đất Mỹ
Em có bao giờ…
Nghĩ đến Việt Nam không?
Có chứ anh
Em vẫn thường tự hỏi
Những cội mai vàng có còn nở đầy bông?
Chợ Tết Saigon có còn đông như trước?
Chợ Hoa đường Nguyễn Huệ
Tài tử giai nhân
Có còn dập dìu chen chân bước?
Như những ngày…
Đất nước mình còn hai chữ Tự do?”
(Hồng Thủy)

Nhưng đôi khi khung cảnh mùa xuân được lòng hoài hương gợi hứng nhà thơ vẫn đem cả tâm tình gửi vào những vần điệu với nỗi lòng nhung nhớ quê hương:

“Cố hương xa mấy trường đình
Xin đem gởi trọn tâm tình vào thơ”
(Anh Độ)

“Em về quê cũ xin cho gởi
Trắng một cành hoa đến muôn nơi
Sông sẽ cùng hoa đi khắp nẻo
Thì thầm tình tự đất mình ơi.”
(Ý Anh)

Dù vắng tiếng chuông chùa, thiếu mùi trầm hương, thiếu tiếng pháo reo vui, vắng bóng hoa mai vàng rực rỡ lời thơ vẫn vang lên những lời cầu chúc tốt đẹp cho thân nhân và bằng hữu trong cảnh tha hương:

“Thiên nhiên khởi sắc đón mùa sang
Lòng kẻ tha hương bỗng rộn ràng
Đất khách chẳng còn tràng pháo đỏ
Quê người dù thiếu bóng mai vàng
Chúc Xuân lời vẫn ươm tình nghĩa
Mừng Tết thơ luôn đượm ánh quang
Thoang thoảng hương trầm khơi kỷ niệm
Vẳng chuông chùa cũ tiếng còn vang.”
(Tâm Minh)

Trong tận cùng tâm khảm, lời ước đầu năm của các nhà thơ thường là điều mơ ước được trở về lại chốn quê cha đất tổ vào một ngày nào đó trong tương lai:

“Quay đi quay lại đã già
Bước run trên tuyết, thoáng qua nửa đời
Còn bao xuân nữa quê người
Và hôm nào sẽ pháo vui quê nhà”
(Lê Thị Ý)

“Xuân qua lặng lẽ, cành trơ lá
Đất khách quê người nỗi nhớ xa
Giấc mộng muôn trùng sao chưa đến
Bao giờ ta lại gặp quê ta?”
(Bùi Thanh Tiên)

“Xôn xao tiếng gió đêm trừ tịch
Lả ngọn đào xuân lay giấc Xuân.
Lửa ấm sao nghe lòng buốt giá
Giao thừa năm cũ vẫn bâng khuâng…
 Bao giờ trở lại quê xưa nhỉ?
Chợt lắng tâm tư sầu gợi sầu
Đất khách, quê người Xuân lữ thứ
Se lòng trăn trở giấc chiêm bao.”
(Hoàng Song Liêm)

Trong tận cùng nỗi nhớ, người dân Việt thầm cầu chúc cho đất nước một ngày nào đó được thật sự độc lập, tự do và hạnh phúc, toàn dân Việt được thật sự giải phóng khỏi mọi khổ đau để những ngày đón Tết năm mới sẽ rộn nở mãi mãi trên đất Việt trong một mùa Xuân dân tộc:

“Trước thềm Năm Mới ta cùng chúc
Quê cũ mai này hết xót xa.”
(Nguyễn Thị Ngọc Dung)

“Ta cứ ngỡ chết rồi mi sẽ khép
Mùa xuân đâu sao chim én chưa về
Mi sẽ khép lúc xuân về tươi đẹp
Anh hãy về cho én lượn trên quê”
 (Nguyễn Thị Thanh Bình) 

“Mùa Xuân Tổ Quốc không xa nữa
Đồng lúa miền Nam óng ánh vàng
Rừng núi miền Trung hoa rộ nở
Mừng ngày giải phóng được giang san”
(Giang Hữu Tuyên)

Ngọn cờ vàng ba sọc đỏ lại tung bay rực rỡ trong mùa mới, màu cờ chính nghĩa của toàn dân Việt, niềm mơ ước của người xa xứ trong cuộc đời tỵ nạn cộng sản:

“Chúa Xuân phất ngọn cờ vàng
Trên đỉnh cao cổ thụ
Thời gian chín ngọt mênh mang
Chở tin yêu về đầy vũ trụ
Sông núi chuyển mình
Đón chào Chân Thiện Mỹ
Xuân giáng sinh và ngự trị vĩnh hằng”
(Trần Quốc Bảo)

“Ngày mai, vui Xuân chiến thắng
Mai vàng nở rộ, đón Xuân sang!
Khải hoàn ca, ầm vang khắp phố
Cả non sông, rợp bóng cờ vàng!”
(Vũ Hối)

“Chúc tụng Xuân nào đầy mãn nguyện,
Ngày về rực rỡ đất Thăng Long”
(Nguyễn Thị Ngọc Dung)

hoa dao ngay tet
Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Virginia, USA, tháng 1 năm 2016
Trước Thềm Xuân Bính Tuất)

Hoàng Trường Sa

(Tưởng niệm 42 năm hải chiến Hoàng Sa 
của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa 
 19/01/1974 – 19/01/2016)

Cao Nguyên

hq4haichienhoangsaƠi Hoàng Sa! Hỡi Trường sa!
Bi thương tiếng gọi sơn hà Việt Nam
Đang còn bị giặc xâm lăng
Nước trào rỉ máu, Đất oằn xót đau!

Ơi Tổ Quốc! Hỡi Đồng Bào
Yêu thương tiếng gọi thắm màu quê hương
Âm vang trống giục sa trường
Bạch Đằng dậy sóng quật cường oai nghiêm!

Giơ tay cao thét lời nguyền
Hận thù Bắc Thuộc hịch truyền xuất quân
Đánh cho giặc Hán kinh hồn
Muôn đời khiếp sợ tinh thần Văn Lang!

Hoàng Trường Sa của Việt Nam
Đã trong sử sách ngàn năm lưu truyền
Trống đồng hào khí linh thiêng
Hãy vang lên khắp mọi miền núi sông!

Triệu con tim một tấm lòng
Quyết tâm tiêu diệt thù trong giặc ngoài
Việt Nam ơi! Tổ Quốc ơi!
Triệu con dân Việt sẽ khơi sử hồng!

Từ Trường Sơn tới Biển Đông
Thịt da xương máu con Rồng cháu Tiên
Núi Sông là một mạch liền
Không ai có thể đảo điên sơn hà!

Cao Nguyên
Đông Bắc Mỹ – Jan 17, 2015

Paracel-Spratly Islands

In remembrance of The 42-year
Paracel Islands Sea Battle of The Republic of Vietnam Military Forces
(Jan. 19, 1974 – Jan. 19, 2016)

O Paracel Islands! Spratly Islands!
What a moan it was, the call of Vietnam’s Mountains and Rivers
For still being invaded by enemies
Waters overflowed with blood; lands bent down with pain

O Spratly Islands! O Paracel Islands! O Homeland! O Countrymen!
Love, the call deeply painted with homeland’s color
Resounding, the battle field drums called to forward
Bạch Đằng River rising up solemnly unyielding waves!

Holding up hands high with the roaring vows
Hostility against China’s domination, proclamation launched for soldiers to go forth
Fighting the Hans made them scared to their soul
For thousands of years in fear of Van Lang’ spirit

Paracel and Spratly Islands are of Vietnam
Already inscribed in History for thousand years to pass on
The bronze drums of sacred heroics
Let them resound all over the mountains and rivers

Million hearts but only one will
Determined to destroy outer and inner foes
O Vietnam! O Father Land!
Millions of citizens will make Hồng’s History to start

From the Long Mountain to the East Sea
All are the flesh and skin of Dragon’s and Fairy’s descendants
Mountains and rivers are one continual vein
Nobody can make any topsy-turvy reverse to Mountains and Rivers

Cao Nguyen
(Translator: William Hoàng)

Trong Trí Nhớ Giòng Sông

Phan Khâm
(Cảm đề bức tranh  "River in memories HUE " của Họa sĩ Đinh Cường)

dinhcuong de nho hue

Trong trí nhớ dòng sông
Tóc em bay phiêu bồng
Giữa hai hàng phượng đỏ
Thương thương mùa hạ hồng

Trong trí nhớ dòng sông
Em chọn màu rêu rong
Áo dài đi qua phố
Ai biết đời long đong

Trong trí nhớ dòng sông
Mươn mướt hàng mi cong
Lối em về Thôn Vỹ
Vườn cau vừa trổ bông

Trong trí nhớ dòng sông
Chín đợi đến mười mong
Qua cầu nghe nức nở
Tiếng ve chiều Kim Long

Trong trí nhớ dòng sông
Em đan suốt mùa dông
Ai đó về An Cựu
Có nắng đục mưa trong

Trong trí nhớ dòng sông
Ôi xa vắng mênh mông
Lối xưa thành quách cũ
Còn rải vàng phấn thông

Trong trí nhớ dòng sông
Đưa em xuống thuyền rồng
Bao cuộc đời nhung lụa
Có có rồi không không

Trong trí nhớ dòng sông
Mờ mịt sắc cầu vòng
Mưa Huế nhiều chi lạ
Nước phân chia trăm dòng.

Phan Khâm

Ngày Xuân nói chuyện Thơ, Rượu và Trà.

Phạm Doanh

Vào đầu thế kỉ thứ 20, Trần tế Xương 1870-1907, nhà Thơ nước Việt ta đã có bài tứ tuyệt:

Một trà, một rượu,một đàn bà,
Ba cái lăng nhăng nó quấy ta.
Chừa được cái gì hay cái nấy,
Có chăng chừa rượu với chừa trà.

Nay chỉ xin đề cấp tới hai thứ mà nhà thơ Trần tế Xương muốn chừa. Thiết nghĩ cái mà Trần tế Xương không muốn chừa hay không thể chừa thì nói cùng hội Cao Niên có vẻ như là thừa thãi vì hai lẽ : hiện tại trên truyền hình quảng cáo cho Viagra lẫn Cialis đầy hấp dẫn rồi và thứ nhì do vì “ lực bất tòng tâm”. Vậy chỉ xin bàn về rượu và trà trong thơ .. Tàu.

I. Về Rượu

Li-Bai

Xin khởi đầu với Thi tiên Lí Bạch.

Nhà Thơ hô : hãy nghiêng chén trong bài:

Tương tiến tửu. Lí Bạch

卷162_8 《將進酒》. 李白

Quân bất kiến:

君不見

Hoàng-hà chi thủy thiên thượng lai,

黃河之水天上來,

Bôn lưu đáo hải bất phục hồi.

奔流到海不復回。

Hựu bất kiến:

又不見

Cao đường minh kính bi bạch phát,

高堂明鏡悲白髮,

Triêu như thanh ti, mộ như tuyết.

朝如青絲暮成雪。
Nhân sinh đắc ý tu tận hoan,

人生得意須盡歡,

Mạc sử kim tôn không đối nguyệt.

莫使金樽空對月。

Thiên sinh ngã tài tất hữu dụng,

天生我材必有用,

Thiên kim tán tận hoàn phục lai.

千金散盡還複來。

Phanh dương, tể ngưu thả vi lạc,

烹羊宰牛且為樂,

Hội tu nhất ẩm tam bách bôi.

會須一飲三百杯。

Sầm phu-tử, Đan Khâu sinh.

岑夫子,丹丘生,

Tương tiến tửu, Quân mạc đình.

將進酒,君莫停。

Dữ quân ca nhất khúc,

與君歌一曲,

Thỉnh quân vị ngã khuynh nhĩ thinh!

請君為我側耳聽。

Chung cổ, soạn ngọc bất đắc quí,

鐘鼓饌玉不足貴,

Đãn nguyện trường túy bất nguyện tinh.

但願長醉不願醒。

Cổ lai thánh hiền giai tịch mịch,

古來聖賢皆寂寞,

Duy hữu ẩm giả lưu kì danh.

惟有飲者留其名。

Trần Vương tích thời yến Bình-lạc,

陳王昔時宴平樂,

Đẩu tửu thập thiên tứ hoan hước.

鬥酒十千恣歡謔。

Chủ nhân hà vi ngôn thiểu tiền,

主人何為言少錢,

Kính tu cô thủ đối quân chước.

徑須沽取對君酌。

Ngũ hoa mã,  Thiên kim cừu.

五花馬,千金裘,

Hô nhi tương xuất hoán mĩ tửu.

呼兒將出換美酒,

Dữ nhĩ đồng tiêu vạn cổ sầu!

與爾同銷萬古愁。

Giải xuôi:       Hãy chuốc rượu!

Anh không thấy sao : nước sông Hoàng từ trên trời rơi xuống, tuôn ra bể không hề trở lại, lại chẳng thấy kia : gương sáng, lầu cao soi rõ nỗi buồn vì tóc sớm bạc. Sáng còn như tơ xanh mà chiều đã như tuyết. Đời người khi đắc ý nên tận hưởng niềm vui, đừng để chén vàng cạn trơ dưới ánh trăng. Trời sinh ta ắt có chỗ dùng, nghìn vàng tiêu hết rồi lại có. Mổ dê, giết trâu để mà chè chén vui vẻ, phải uống một lần tới ba trăm chén mới đủ. Hỡi cụ Sầm [* Sầm trưng quân 岑征君*], này anh [* Nguyên 元丹丘* ] Đan Khâu [* Sầm và Nguyên là hai người bạn cùng thời với Lí Bạch *],  rượu sắp đưa ra rồi, các người đừng ngừng chén! Vì bạn ta sẽ hát lên một bài, vì ta xin các bạn hãy nghiêng tai lắng nghe. Buổi tiệc lớn có tiếng chiêng, tiếng trống cũng không quí bằng. Ta không muốn tỉnh, chỉ muốn say khướt! Từ xưa thánh hiền đâu có được nghe nói đến, chỉ có kẻ say mới được nhắc đến tên mà thôi. Ngày xưa Trần Vương [* 陳王 hay  Trần tư Vương 陳思王 tước của Tào Thực 曹植 , 192 – 232, tự Tử Kiến 子建, thời Tam quốc 三國 là con thứ ba của Ngụy vũ Đế 魏武帝 Tào Tháo, em của Văn Đế 文帝. Giỏi về văn chương  *] mở tiệc nơi cung Bình-lạc [* Bình-lạc 平樂  : tên quán đời Hán . Có hai quán mang cùng tên . Cái thứ nhất xây vào thời Tây Hán 西漢, triều vua Cao Tổ 高祖, tại Trường-an 長安, trong vườn Thượng-lâm 上林苑, phía bắc cung Vị-ương 未央. Toà thứ hai dựng vào thời Đông Hán東漢 đời vua Minh-đế 明帝, tại phía ngoài cửa tây thành Lạc-dương 洛陽. Tào Thực 曹植 trong bài thơ “ Danh đô thiên 名都篇 “ có câu :”  Ngã qui yến Bình-lạc, Mĩ tửu đẩu thập thiên 我歸宴平樂,美酒斗十千 ( Tiệc Bình-lạc ta về, Rượu ngon cả nghìn chén ) “ *], rượu quí vạn đồng một đấu, mặc sức ăn uống vui say, chủ nhân cớ sao lại nói thiếu tiền. Hãy mua rượu ngay để ta cùng bạn chuốc chén. Này là ngựa quí năm sắc, áo cừu trị giá cả ngàn vàng, hãy sai con đem ra mà đổi lấy rượu ngon, cùng nhau ta phá tan cơn sầu muôn thuở!

Dịch vần:

Thấy chăng ai:

Nước sông Hoàng từ trời trút đổ,

Tuôn ra khơi có trở lại đâu.

Lại chẳng thấy :

Sầu tóc bạc, lầu cao gương sáng,

Sớm tơ xanh, tối trắng tuyết pha!

Đời vừa ý hưởng đi mà,

Chớ để chén với trăng già trơ trơ.

Trời cho ta của tất phải dùng,

Ngàn vàng tiêu hết lại đầy vung.

Giết trâu, mổ dê vui cho đã,

Xúm nhau chè chén đủ ngàn chung!

Hỡi cụ  Sầm,

Ới anh Nguyên.

Hãy chuốc rượu,

Chén cho tràn!

Vì người ta hát khúc ca,

Xin người hãy lắng nghe ta dạt dào!

Cỗ bàn chuông trống quí đâu,

Say vùi chớ để lúc nào tỉnh queo!

Xưa nay hiền thánh buồn teo,

Chỉ chàng say khướt danh lưu cõi đời.

Tiệc Trần Vương xưa nơi Bình-lạc,

Ngàn vạn li thù tạc liên miên.

Chủ nhân chớ ngại thiếu tiền,

Miễn sao có rượu chuốc liền với ai.

Giắt ngựa câu,

Lấy áo cừu.

Sai con đem đổi rượu mau,

Cùng người ta giết cái sầu ngàn xưa!

Nhìn quanh không thấy ai , nên Nhà Thơ phải:

 Độc chước.

卷182_28 《獨酌》李白

Xuân thảo như hữu ý, La sinh ngọc đường âm.

春草如有意,羅生玉堂陰。

Đông phong xuy sầu lai, Bạch phát tọa tương xâm.

東風吹愁來,白髮坐相侵。

Độc chước khuyến cô ảnh, Nhàn ca diện phương lâm.

獨酌勸孤影,閑歌面芳林。

Trường tùng nhĩ hà tri, Tiêu sắt vị thùy ngâm?

長松爾何知,蕭瑟為誰吟。

Thủ vũ thạch thượng nguyệt, Tất hoành hoa gian cầm.

手舞石上月,膝橫花間琴。

Quá thử nhất hồ ngoại, Du du phi ngã tâm.

過此一壺外,悠悠非我心

Dịch vần :

Cỏ xuân như cố ý,

Mọc lan phía nam nhà.

Gió đông mang sầu tới,

Thấm vào mái tóc hoa.

Chuốc rượu cùng với bóng,

Ca vang trước rừng già.

Thông cao liệu có biết,

Trẩm bổng vì ai mà ?

Tay múa, trăng trên đá,

Gối duỗi, đàn dưới hoa.

Tới đó một bầu rượu,

Nào lo gì đời ta!

Rồi ban đêm dưới trăng :

Nguyệt hạ độc chước, tứ thủ.

Trích bài 1

卷182_22 《月下獨酌四首》李白

Kì nhất

其一

Hoa gian nhất hồ tửu, Độc chước vô tương thân.

花間一壺酒,獨酌無相親。

Cử bôi yêu minh nguyệt, Đối ảnh thành tam nhân.

舉杯邀明月,對影成三人。

Nguyệt kí bất giải ẩm, Ảnh đồ tuỳ ngã thân.

月既不解飲,影徒隨我身。

Tạm bạn nguyệt tương ảnh, Hành lạc tu cập xuân.

暫伴月將影,行樂須及春。

Ngã ca nguyệt bồi hồi, Ngã vũ ảnh linh loạn.

我歌月裴回,我舞影零亂。

Tỉnh thời đồng giao hoan, Túy hậu các phân tán.

醒時同交歡,醉後各分散。

Vĩnh kết vô tình du, Tương kì diểu Vân-hán.

永結無情遊,相期邈雲漢。

Giải xuôi : Dưới trăng uống rượu một mình, bốn bài.

Trích bài đầu

Dưới hoa một bình rượu, một mình rót uống, không có ai là thân cả. Nâng chén mời trăng sáng, cùng với bóng mình là ba người. Trăng đã không biết uống rượu, mà bóng chỉ biết theo ta. Tạm làm bạn với trăng cùng bóng mình, hưởng vui cho kịp ngày xuân. Ta hát, trăng ngây ngất không rời, ta múa bóng quay cuồng tả tơi. Khi say thì cùng vui đùa như thế đó, đến khi hết say rồi thì mỗi người một nơi. Muốn được tình chơi vu vơ thắt chặt mãi mãi thì chỉ có cùng hẹn nhau trên giải Ngân hà !

Dịch vần :

Dưới hoa một bầu rượu,

Cạn li chỉ có ta.

Cất chén mời chị nguyệt,

Với bóng nữa là ba.

Trăng kia không biết uống,

Bóng này chẳng rời xa.

Bạn cùng trăng với bóng,

Vui chơi kẻo nữa già.

Ta hát trăng ngây ngất,

Ta múa bóng sa đà !

Khi say cùng vui vẻ,

Lúc tỉnh lại phôi pha.

Gắn bó kiếp bèo nổi,

Hẹn nhau giải Ngân-hà !

Và :

Xuân nhật độc chước nhị thủ.

Trích bài đầu

卷182_30 《春日獨酌二首》李白

其一.

Đông phong phiến thục khí, Thủy mộc vinh xuân huy.

東風扇淑氣,水木榮春暉。

Bạch nhật chiếu lục thảo, Lạc hoa tán thả phi.

白日照綠草,落花散且飛。

Cô vân hoàn không sơn, Chúng điểu các dĩ qui.

孤雲還空山,眾鳥各已歸。

Bỉ vật giai hữu thác, Ngô sinh độc vô y.

彼物皆有托,吾生獨無依。

Đối thử thạch thượng nguyệt, Trường tuý ca phương phi.

對此石上月,長醉歌芳菲。

Giải xuôi :       Ngày Xuân một mình chuốc rượu, hai bài.

Trích bài đầu

Bài một.

Gió xuân thổi hơi ấm tới, cây cỏ, nước non rạng rỡ dưới ánh xuân. Mặt trời chiếu đám cỏ xanh, cánh hoa rơi bay tứ tung. Mây trời lờ lững trong núi vắng, và chim đâu đó đều đã về tổ. Những loài đó đều có chỗ nương tựa, duy đời ta chẳng có chỗ nào nương nhờ ! Thấy như thế nên ngồi trên đá ngắm trăng, uống say rồi ca cho thoả.

Dịch vần :

Gió xuân mang hơi ấm,

Cây nước rạng xuân tươi.

Nắng soi cỏ xanh mượt,

Cánh hoa rụng bời bời.

Mây lẻ nơi đầu núi,

Chim đàn về tổ rồi.

Vạn vật đều có chỗ,

Riêng ta không một nơi.

Đành trên đá ngắm nguyệt,

Say nhừ  ca hát vui.

Phải giải thích sao mình cần rượu đến thế :

Xuân nhật túy, khởi ngôn chí.

卷182_37 《春日醉起言志》李白

Xử thế nhược đại mộng, Hồ vi lao kì sinh.

處世若大夢,胡為勞其生。

Sở dĩ chung nhật túy, Đồi nhiên ngoạ tiền doanh.

所以終日醉,頹然臥前楹。

Giác lai miện đình tiền, Nhất điểu hoa gian minh.

覺來盼庭前,一鳥花間鳴。

Tá vấn thử hà nhật, Xuân phong ngữ lưu oanh.

借問此何時,春風語流鶯。

Cảm chi dục thán tức, Đối tửu hoàn tự khuynh.

感之欲歎息,對酒還自傾。

Hạo ca đãi minh nguyệt, Khúc tận dĩ vong tình.

浩歌待明月,曲盡已忘情

Giải xuôi :       Ngày xuân say rượu, tỉnh rồi nói ý chí mình.

Cuộc đời như một giấc mộng dài, tội chi mà phải vất vả đời mình. Chỉ nên suốt ngày hãy say sưa, nằm lăn quay cạnh cột trước hiên nhà. Tỉnh dậy nhìn ra sân, một con chim trong bụi hoa đang hót. Thử hỏi hôm nay là ngày nào mà chim oanh lại học nói trong gió xuân như vậy. Lòng cảm xúc, muốn thở than, nhưng rồi lại nghiêng bầu rượu. Cất tiếng ca vang chờ trăng sáng, ca hết khúc quên cả nỗi lòng mình.

Dịch vần :

Cuộc đời giấc mộng lớn,

Làm chi cho nhọc mình.

Suốt ngày hãy say tít,

Trước hiên cứ lăn kềnh.

Tỉnh rồi nhìn trước cửa,

Dưới hoa chim liệng quanh.

Hôm nay là mấy nhỉ,

Gió xuân hoà tiếng oanh.

Xúc cảm lòng muốn nói,

Rượu kia lại nghiêng bình.

Hát ngao chờ trăng sáng.

Khúc dứt lòng nhẹ tênh.

Tiếp theo là Thi thánh Đỗ Phủ.

amtrungbattienca

Nhà Thơ từng ham rượu, nhưng rồi vì bệnh tật nên “ chừa” bớt. Tuy nhiên ông ca tụng các vị tiên trong làng say:

Ẩm trung bát tiên ca.

卷216_25 《飲中八仙歌》杜甫

知章騎馬似乘船,

Tri Chương kị mã tự thừa thuyền,

眼花落井水底眠.

Khán hoa lạc tỉnh thủy để miên.

汝陽三鬥始朝天,

Nhữ Dương tam đẩu thủy triều thiên.

道逢麹車口流涎.

Đạo phùng khúc xa khẩu lưu diên.

恨不移封向酒泉,

Hận bất di phong hướng tửu tuyền.

左相日興費萬錢.

Tả tướng nhật hứng phí vạn tiền,

飲如長鯨吸百川,

Ẩm như trường kình hấp bách xuyên.

銜杯樂聖稱世賢.

Hàm bôi lạc thánh xưng tị hiền.

宗之瀟灑美少年,

Tông Chi tiêu sái mỹ thiếu niên,

舉觴白眼望青天.

Cử trường bạch nhãn vọng thanh thiên.

皎如玉樹臨風前,

Hiệu như ngọc thụ lâm phong tiền,

蘇晉長齋繡佛前.

Tô Phổ trường trai tú phật tiền,

醉中往往愛逃禪,

Túy trung vãng vãng ái đào thiền.

李白一鬥詩百篇.

Lí Bạch nhất đẩu thi bách thiên,

長安市上酒家眠,

Trường-an thị thượng tửu gia miên.

天子呼來不上船.

Thiên tử hô lai bất thượng thuyền.

自稱臣是酒中仙,

Tự xưng thần thị tửu trung tiên.

張旭三杯草聖傳.

Trương Húc tam bôi thảo thánh truyền,

脫帽露頂王公前,

Thoát mạo lộ đỉnh vương công tiền.

揮毫落紙如雲煙.

Huy hào lạc chỉ như vân yên.

焦遂五斗方卓然,

Tiêu Toại ngũ đẩu phương trác nhiên,

高談雄辨驚四筵.

Cao đàm hùng biện kinh tứ diên .

Giải xuôi :     Bài ca về tám vị tiên trong giới uống rượu.

Tri Chương [* Hạ tri Chương 知章 , 659 – 744 tự là Quí Chân 季真 , tự xưng là Tứ minh cuồng khách 四明狂客, người vùng Vĩnh-hưng 永興, Việt châu 越州 , là một nhà thư pháp nổi tiếng. Tiến sĩ đời Vũ tắc Thiên 武則天 cầm quyền ( 684 – 701 ), làm quan tới Thái tử tân khách 太子賓客, bí thư giám 祕書監, nên có tên gọi Hạ Giám 賀監. Năm thứ ba đời Thiên-bảo thiên bảo 天寶 ( 744 ), dâng sớ từ quan nguyện làm đạo sĩ, về quê vùng Cối-kê 會稽. *] cưỡi ngựa mà giống như ngồi thuyền  [* Vùng Ngô quê của Hạ Tri Chương, dân chúng thạo thuyền bè, nên Nhà Thơ dùng để so sánh cưỡi ngựa và chèo thuyền. Theo Việt tuyệt thư 越絕書 : “ Phu việt thủy hành nhi sơn xứ , dĩ thuyền vi xa , dĩ tiếp vi mã 夫越水行而山處, 以船為車, 以楫 為馬  ( Vượt sông mà qua vùng núi như lấy thuyền làm xe, lấy chèo làm ngựa  ) “ *] , mải coi hoa nên sa chân xuống giếng nước, ông ngủ luôn dưới đáy giếng. Nhữ-dương [* Nhữ dương vương Lí Tiến 汝陽王 李璡 là con đầu của Ninh vương 寧王 Lí Hiến 李憲 Ninh vương 寧王, tên Hiến tự là Thành Khí qua  đời, có tên thụy là Nhượng hoàng đế 讓皇帝. Mới đầu được lập làm thái tử, sau vì Lí Long Cơ ( Đường Minh hoàng ) có công diệt được họ Vi ( thái hậu ), nên được nhường ngôi kế vị này. Hiến có mười con trai, mà Tiến là con trai đầu. Lí Tiến ? – 750, được phong vương quận Nhữ-dương, từng giữ chức thái-bộc khanh, giao tình thơ, rượu với Hạ-tri Chương 賀知章 và Chử đình Hối 褚庭誨. Năm đầu đời Thiên-bảo 天寶 ( 742 ), sau khi an táng cha, được phong thêm Đặc tiến 特进, tặng thái-tử thiếu sư 赠太子少师.*] phải uống ba chén [* Tam đấu  三斗:  Ba chung. Cát Hồng 葛洪 , 284 – 363, nhà văn đời Đông Tấn東晉 trong sách Bão phác tử 抱朴子, chương Tửu giới 酒誡 : “ Vu công dẫn mãn nhất hộc, nhi đoạn ngục ích minh; Quản Lộ khuynh ngưỡng tam đẩu , nhi thanh biện khỉ xán 於公 引滿一斛, 而斷獄益明; 管輅傾仰 三鬥,而清辯綺粲 ( Với ngài nhâm nhi một chén mà sử án nghiêm minh,  Quản Lộ uống tràn ba chung mà ăn nói vanh vách ) “ *] trước khi vào cung chầu vua. Trên đường trông thấy xe chở men rượu mà nước miếng chảy rào rào, giận rằng mình không được phong ở đất Suối Rượu [* Tửu-tuyền 酒泉 : tên một ấp xưa . Theo Tả truyện 左傳, chương Trang công nhị thập nhất niên 莊公二十一年: “ Vương dữ chi Tửu-tuyền 王與之 酒泉 ( Nhà vua cấp cho ấp Tửu-tuyền ) “. Đỗ Dự 杜預 chú : “ Tửu-tuyền , Chu ấp 酒泉, 周邑 ( Tửu-tuyền, ấp thuộc nhà Chu ) “. Có người chú giải : tân quận , có huyện Tửu-tuyền, tỉnh Cam-túc 甘肅. Theo truyền thuyết, dưới chân thành có suối vàng ( kim tuyền 金泉 ) , nước suối có hơi rượu. Theo Thập di kí 拾遺記 : Diêu Phức 姚馥, người Khương vốn ham rượu, bạn bè đặt tên là Lực khát Khương 力渴羌, vua Vũ đế 武帝 nhà Tấn , cử giữ chức tể vùng Triều-ca 朝歌, ông ta đáp : “ Xin từ chối tới huyện Triều-ca, hạ thần thường giữ chức nuôi ngựa đã lâu, luôn luôn được ban rượu được vui tới trọn đời”. Vua phán : “ Triều-ca , kinh đô cũ của vua Trụ , có Tửu trì 酒池 ( thuộc tỉnh Hà-nam 河南省 ), khiến già Khương không bi khô héo vì khát.” Ông đáp : “ Lão Khương này đã dần tiêm nhiễm văn minh, nếu vui lòng với thứ nước tại Tửu-trì thì biến thành dân thời vua Trụ nhà Ân mất. Nhà vua vui mừng cho đổi đi giữ chức thái thú vùng Tửu tuyền 酒泉太守 *]. Tả Tướng [* Lí thích Chi 李適之,694 -747, người vùng Thành-kỉ 成紀, Lũng-tây 隴西. Ông là cháu nội Lí thừa Kiền 李承乾, làm tới chức thứ sử Thông-châu 通州刺史, hình bộ thượng thư 通州刺史. Năm đầu đời Thiên-bảo 天寶 ( 742 ) , giữ chức tả tướng , nhưng vì tranh quyền với Lí lâm Phủ 李林甫, thất bại nên bị bãi tướng. Sau đo làm thái tử thiếu bảo 太子少保, chức vị không có quyền hành. Năm thứ sáu đời Thiên-bảo 天寶 ( 747 ) bị biếm đi Viên-châu 袁州 và qua đời nơi này. *] trong ngày hứng lên tiêu tiền rượu đến vạn đồng. Uống như con cá kình lớn hút luôn tới cả trăm con sông [* trường kình hấp bách xuyên 長鯨吸百川 : cá kình dài hớp nước trăm sông. Tả Tư 左思, 250 – 305, nhà văn học thời Tây Tấn 西晋 trong Ngô đô phú 吳都賦: “ Trường kình thôn hàng , Tu nghê thổ lãng 長鯨吞航, 修鯢吐浪 ( Kình dài nuốt thuyền, Giải lớn nhà sóng ) “. Mộc Hoa 木華, 290 –  ??,  nhà văn thời Tây Tấn 西晋 trong Hải phú 海賦  : “ Ngư tắc hoành hải chi kình , đột ngột cô du , hấp ba tắc hồng địch súc, xuy lạo tắc bách xuyên đảo lưu 魚則橫海之鯨, 突兀孤游, 噏波則洪踧蹜, 吹潦則 百川 Cá ắt có Kình nằm dài trên biển, bỗng dưng bơi đi, hút sóng khiến nước dồn, phun vòi làm trăm sông ngập. ) “ *] , Nâng chén [* hàm bôi 銜杯 : nâng li , cụng chén. Lưu Linh 劉伶, 221 – 300, nhà văn thời Tây Tấn 西晋 trong Tửu đức tụng 酒德頌 : “ Phủng anh thừa tào,  hàm bôi sấu lao 捧甖承槽, 銜杯漱醪 ( Đỡ chén hứng vò, Nâng li xúc rượu ) “ *] tự xưng là thánh yêu đời, người hiền đi ở ẩn [* Lạc thánh xưng thế hiền 樂聖稱世賢 : thánh khoái xưng là người hiền trên đời. Theo Tam quốc chí 三國志 , tập Ngụy chí 魏志 , chương Từ Mạc truyện 徐邈傳: “ Bình nhật túy khách vị tửu thanh giả vi thánh nhân , trọc giả vi hiền nhân 平日醉客謂酒清者為 聖人,濁者為賢人 ( Thường ngày các bợm nhậu dùng tiếng lóng gọi người trơ rượu là bậc thánh, người nát rượu là người hiền ) “ . Cụm từ trích trong  bài thơ của ông, sau khi bị Lí lâm Phủ bãi chức tả  tướngTị hiền sơ bãi tướng, Lạc-thánh thả hàm bôi. Vị vấn môn tiền khách, Kim triêu kỉ cá lai? 避賢初罷相, 樂聖且銜杯. 為問門前客, 今朝幾個來 ( Tị hiền vừa mất chức, Thánh Khoái lại nghiêng chai. Xin hỏi khách trước cửa, Chiều nay có tới chơi? ) *]. Tông Chi [*Thôi tông Chi 崔宗之 ?? – ?? , tên là Thành Phụ 成輔. Là con của Thôi nhật Dụng 崔日用, nhờ thế tập mà được phong là Tề quốc công 齊國公. Trải qua các chức tả ti lang trung 左司郎中, thị ngự sử 侍禦史 , sau bị đổi đi Kim-lăng 金陵 *] thời nhỏ rất thanh thoát [* tiêu sái 瀟灑 : cũng viết là 瀟洒, lâng lâng thoát tục,  không bị ràng buộc , an nhiên tự tại. *], trẻ đẹp  [* Mĩ thiếu niên  美少年 : trẻ tuổi xinh tươi. Nguyễn Tịch 阮籍, nhà thơ nước Ngụy thời Tam quốc 三國 , trong Vịnh hoài thi bát thập nhị thủ 詠懷詩八 十二首, bài 4 : “ Ngưng sương triêm dã thảo, Triêu vi mị thiếu niên 凝霜沾野草, 媚少年 ( Sương đọng ướt cỏ nội, Sớm là gái kiều mị ) “ *], Nâng li lên là trên đời không thấy ai là tri kỉ, chỉ thấy trời cao xanh [* bạch nhãn vọng thanh thiên 白眼望青天 : chỉ đưa mắt trắng lên nhìn trời xanh : thái độ làm cao, khinh người đời. Theo Tấn thư 晉書 quyển 49, chương Nguyễn Tịch truyện 阮籍傳: “ Nhậm tình bất ki, kiến lễ tục chi sĩ , dĩ bạch nhãn đối chi 任情不羈,見禮俗之士, 以白眼對之 ( Đối xử không câu nệ, gặp người mà cứ giữ gìn theo lề thói, thiô lấy cặp mắt trắng mà đối xử )” . Theo Liệt tử 列子, chương Hoàng đế thiên 黃帝篇 : “ Phù chí nhân giả , thượng hám thanh thiên 夫至人者,上闚青天 ( Hễ là người nhân thì cứ hay nhìn lên trời  ) “ *],  trắng đẹp như cây ngọc trước làn gió [* ngọc thụ lâm phong 玉樹臨風 : cây ngọc trong gió. Thái độ lâng lâng sau khi uống rượu. Dương Hùng 揚雄 , 53 BC – 18 BC , nhà văn học thời Tây Hán 西漢 trong Cam tuyền phú 甘泉赋: “ Thúy ngọc thụ chi thanh thông hề, bích mã tê chi lân phiên 翠玉树之青葱兮, 璧馬犀之瞵 ( Cây ngọc xanh có mầu đậm chừ, mã tê ( ngọc mã não và sừng tê giác ) biếc nổi vằn ) “. Theo Thế thuyết 世說 : “ Mao Tằng dữ Hạ hầu Huyền cộng tọa, thì nhân vị kiêm gia ỷ ngọc thụ 毛曾與夏 侯玄 共坐, 時人謂兼 倚玉樹 ( Mao Tằng cùng ngồi với Hạ hầu Huyền , người đương thời nói là cây sậy dựa vào cây ngọc )  “ *]. Tô Tấn [* Tô Tấn 蘇晉 biết làm văn khi mới lên ba. Có sáng tác Bát quái luận 八卦論. Giữ chức lại bộ thị lang 吏部侍郎, bí thư thiếu giám 秘書少監 cho Vương Thiệu 王紹. Ứng thi tiến sĩ , sau lại dự khoa thi đại lễ đều trúng tuyển. Trong thời Tiên-thiên 先天 ( 712 ) chuyển làm trung thư xá nhân 纍遷中書舍人, sùng văn quán học sĩ 崇文館學士. Khi Đường minh Hoàng trị vì, các văn thư đều do Tô Tấn soạn trước. Sau vì bị gièm pha, lấy cớ có cha già, xin về hưu. Năm thứ mười bốn đời Khai-nguyên 開元 ( 726 ) lại ra làm lại bộ thị lang , giữ việc tuyển người, biết đề bạt, chức vị cuối cùng là thái tử tả thứ tử 太子左庶子 *], người trai giới thờ Phật [* trường trai : 長齋 : ăn chay. chỉ các người theo Phật giáo , nhất quyết không ăn sau giờ trưa. Sau này dùng chỉ người chỉ ăn rau, kiêng thịt. Từ Lăng 徐陵 , 507 – 583, nhà thơ nước Trần thời Nam Bắc triều 南北朝, trong Đông-dương, Song-lâm tự Phó đại sĩ bi 東陽雙 林寺傅大士碑 : “ Tự tu thiền viễn hác, tuyệt lạp trường trai 自修 禪遠 , 絶粒長齋 ( Tự tu thiền hang sâu,  nhịn ăn chay dài ) “ *], Khi say lại thường thường ưa ngồi thiền [* ái đào thiền 愛逃禪 : ưa ngồi niệm Phật. Khi say, nhưng thường hối lỗi nên ngồi thiền cảnh tỉnh *]. Lí Bạch [* Lí Bạch 李白 sinh ngày 28 tháng 2 năm 701,  qua đời năm 762, tự Thái Bạch 太白 , tự nhận là cùng chung ông tổ với dòng vua Đường, gốc vùng Thành-kỉ 成紀 , Lũng-tây 隴西 ( nay là Thiên-thủy 天水, Cam-túc 甘肅 ). Thời nhỏ sống trong vùng Thục, đọc sách theo đạo giáo. Năm hai mươi lăm tuổi sang vùng Lỗ quận 魯郡. Trong quãng thời gian này có tới Trường-an 長安 định mưu tìm công danh, nhưng không ưng ý nên quay lại phía đông. Quãng những năm đầu đời Thiên-bảo 天寶, vì có lời tiến cử của công chúa Ngọc Chân 玉真公主, nên ông theo chiếu vua mà về kinh, làm việc trong hàn lâm. Không lâu vỉ bị gièm pha, nên lại rời Trường-an, đi chu du các nơi. Khi có loạn An Sử , vì tình thế chưa yên, nên gia nhập chiến khu của Vĩnh-vương 永王 . Sau đó Vĩnh-vương bị Túc Tông 肅宗 giết, ông cũng bị trách phạt, phải đi đày vùng Dạ-lang 夜郎. Sau đó được đại xá, trở về miền đông, sống nhờ ông chú họ tại Đông-đồ 當塗 ( nay thuộc tỉnh An-huy 安徽 ) , không bao lâu, ông qua đời nơi đây. *] chỉ cần một li thôi là hàng trăm bài thơ ra, Nơi phố chợ Trường-an, tại quán rượu [* tửu gia 酒家: cửa hàng bán rượu, tiệm ăn Tư-mã Thiên 司馬遷, 145 BC – 86 BC, trong Sử kí 史記  chương Loan Bố Quí Bố liệt truyện 欒布季 列傳 : “ Cùng khốn, Nhẫm dong vu Tề , vi tửu nhân bảo 窮困, 賃傭於 ,為酒人保 ( Cùng khốn, được trở về Tề, do chủ nhà hàng bảo lãnh )”. Bùi Nhân 裴駰 trong Tập giải 集解 , viện dẫn Hán thư âm nghĩa 漢書音 : “ Tửu gia tác bảo dong dã 酒家作保傭也 ( Hàng rượu đứng ra bảo lãnh ) “ *] say ngủ khì. Nhà vua cho thuyền tới đón, vì say quá mà lóng cóng hồi lâu mới bước lên được thuyền, [* Còn có nhiều giải thích khác. Cổ áo gọi là thuyền, Lí Bạch được đón về cung mà không kịp mặc áo cho đàng hoàng, đúng như câu chuyện dật sử về nhà thơ này. Vì được Ngô Quân , một đạo sĩ tiến cử cho vua Đường minh Hoàng, và nhà vua đang cần người viết lời để phổ nhạc cho phi Dương ngọc Hoàn 楊玉環, tại Trầm hương đình 沉香亭 hát , nên đã vội và tìm Lí Bạch gấp về làm công tác này. Tới cung vua, Lí Bạch hơi  tỉnh rượu, khiến viên hoạn quan đầy thế lực là Cao lực sĩ 髙力士 phải cởi giày, mài mực, trải giấy  và Lí Bạch vung bút viết nên ba bài Thanh bình điệu 清平調. Trong Chính tự thông正字通 , bình dân gọi thuyền là  khâm xuyên 襟穿 ( mặc áo, choàng áo). Người xứ Thục gọi giải áo là  xuyên 穿, người dân quê gọi trại ra là thuyền *], Thường nói rằng mình là vị tiên say rượu. Trương Húc [* Trương Húc 張旭 658 -747, tự Bá Cao 伯高, là một nhà thư pháp nổi danh. Sinh quán tại huyện Ngô 吳縣 thuộc quận Ngô 吳郡 ( nay là Tô-châu thị 蘇州市 tỉnh Giang-tô 江蘇省 ) . Ông được tôn xưng là Thảo thánh 草聖 vì tài thư pháp. Quãng thời Khai-nguyên làm quan tới chức thường thục úy 常熟尉, sau làm kim ngô trưởng sử金吾長史, nên người đời gọi ông là Trương trưởng sử 張長史 *] uống ba chén rượu là [* viết chữ rất đẹp *] người đời tôn là vị thánh viết chữ, tụt khăn  [* thoát mạo 脫帽 : rũ khăn bịt đầu : tỏ ý hào phóng, mê mải vì nghệ thuật. Trong Nhạc phủ thi tập 樂府詩集, chương Tương hòa ca từ tam 相和歌辭三, bài Mạch thượng tang 陌上桑: “ Thiếu niên kiến la phu, thoát mạo trứ tiếu đầu 少年見羅敷,脫帽著帩頭 ( Thuở bé thấy cô hái dâu, Tụt khăn để lộ cái đầu tóc trơ ) “*], để đầu trần trước mặt các quan lớn, Vung bút trên giấy [*huy hào lạc chỉ 揮毫落紙: vung bút lông trên giấy. Cao Doãn 高允, 390 – 487, nhà văn học nước Ngụy thời Nam Bắc triều 南北朝 trong Chinh sĩ tụng 徵士頌 : “ Tĩnh ngôn tư chi, Trung tâm cửu tồi, Huy hào tụng đức, San nhĩ tăng ai 靜言思之, 中心九摧, 揮毫頌 , 潸爾增哀 ( Ngưng nói mà suy, Chín đoạn ruột đứt. Vung bút ngợi ca , Khóc ông não nuột ) “ . Tông Khâm 宗钦, ??- 450, nhà văn học nước Ngụy thời Nam Bắc triều 南北朝 trong Tặng Cao Doãn 贈高允: “ Đạn hào châu linh, Lạc chỉ cẩm xán 彈毫珠零, 落紙錦粲 ( Bút đưa ngọc sáng, Giấy trải gấm loáng ) “. Phan Nhạc 潘岳, 247 – 300, nhà văn học thời Tây Tấn 西晋 trong Dương Kinh-hâu lỗi 楊荊州誄 : “ Hàn động nhược phi, lạc chỉ như vân 翰動若 , 落紙如雲 ( Bút vung như bay, Giấy cuốn tưởng mây ) “*] như mây khói vờn [* vân yên 雲煙  : mây và khói , chỉ vết mực  như mây khói *]. Tiêu Toại [* Tiêu Toại 焦遂  ?? – ??.  là người trong giới bình dân, nên không thấy kinh điển nói đến. Tuy nhiên có Viên Giao 袁郊 ??? – ???, nhà văn thời Đường, đời Hàm-thông咸通 ( 860 – 874 ) trong Cam trạch dao 甘澤謠  có thuật : “ Đào Hiện 陶峴, trong đời Khai-nguyên 開元  ( 713 –  742 ) , có nhà trong núi Côn Sơn, tự đóng thuyền, có khách là tiền tiến sĩ Mạnh ngạn Thâm 前進士孟彥深, tiến sĩ Mạnh vân Khanh 進士孟雲卿, kẻ áo vải Tiêu Toại ( bố y Tiêu Toại 布衣焦遂 ), đều bỏ vợ con lại, cùng lên thuyền đi ngao du vùng sông núi *] vừa mới làm độ năm sáu chai [* ngũ lục 五六: năm sáu  Tư-mã Thiên 司馬遷, 145 BC – 86 BC, trong Sử kí 史記  chương Hoạt kê liệt truyện 滑稽列 : “ (Thuần vu Khôn viết) …nhược bằng hữu giao du, cửu bất tương kiến, tốt nhiên tương đổ, hoan nhiên đạo cố, tư tình tương ngữ, ẩm khả ngũ lục đẩu kính túy hĩ ( 淳于髡 ) 若朋友交遊, 久不相見, 卒然相睹, 歡然道故, 私情 , 五六 斗徑 醉矣 ( (Thuần vu Khôn nói).. như bạn bè đàn đúm,  lâu không gặp nhau, bỗng chợt được thấy mặt, mừng vui nói chuyện xưa, lòng riêng cởi mở, làm chừng năm sáu sị là đã sỉn rồi ) “ *] là quá mức [* trác nhiên  卓然: cao vút, xuất quần, vượt bực . Lưu Hướng 劉向, 77 BC – 6 BC,  nhà văn học thời Hán , trong Thuyết uyển 說苑 , chương  Kiến bổn 建本 : “ Trần ai chi ngoại , trác nhiên độc lập, siêu nhiên tuyệt thế,, thử thượng thánh chi sở du thần dã 塵埃之外, 卓然獨立, 超然絶世, 此上聖之所 游神也 ( Ngoài cõi đời này, riêng nó cao vút, thật là cao nhất đời, đó là nơi bậc thánh lớn rong chơi ) “. Đào Tiềm 陶潛, 365 – 427,  nhà thơ đời Đông Tấn 東晉 trong Ẩm tửu nhị thập thủ 飲酒, bài 8, : “ Ngưng sương điễn dị loại, Trác nhiên kiến cao chi 凝霜殄異類, 卓然見高枝 ( Sương đọng hại loài khác, Sừng sững thấy cành cao ) “ *], Nói thao thao và không dứt [*Cao đàm, hùng biện 高谈 : nói chuyện to tiếng, bàn luận ồn ào. Dữu Tín 庾信, 513 – 581,  nhà thơ nước Bắc Chu 北周 thời Nam Bắc triều 南北朝 trong Dự lân chỉ điện hiệu thư hòa lưu nghi đồng 預麟趾殿 校書 和劉儀同: “ Cao đàm biến bạch mã , Hùng biện tắc phi hồ 高譚 變白馬, 雄辯塞飛狐 ( Nói cao đuổi ngựa trắng, Bàn lớn chặn cáo bay ) “*] khiến bốn bên trong bàn tiệc [*Tứ diên 四筵 : bốn phía : trước, sau, phải, trái so với người phát biểu trong bữa tiệc. Tạ Chiêm 謝瞻, ??? – ???, nhà thơ nước Tống thời Nam Bắc triều 南北朝 trong Cửu nhật tòng Tống công hí mã đài tập tống Khổng lệnh 九日從宋公戲馬台集送孔令 : “ Tứ diên triêm phương lễ , Trung đường khởi ti đồng 四筵沾芳醴, 中堂 起絲 ( Bốn bề thấm rượu thơm, Giữa phòng vang tiếng nhạc ) “ *] phải kinh nể.

Dịch vần :

A.

Tri-chương cưỡi ngựa như ngồi thuyền,

Mắt mờ, rớt đáy giếng, ngủ liền.

Nhữ-dương, sớm chầu : say mới lên,

Dỏ dãi : đi đường gặp xe men,

Suối Rượu giận chẳng ở kề bên.

Tả Tướng ngày uống tốn hàng nghìn,

Kình hút trăm sông, sánh cũng nên,

Thánh vui làng nhậu : ấy người hiền.

Tông-chi đẹp mã từ thiếu niên,

Nâng li, mắt trắng cứ nhìn lên,

Trước gió cây ngọc đẹp như tiên.

Tô Phổ niệm Phật, chay kinh niên,

Khi gặp cơn say : trốn ngồi thiền.

Lí Bạch một chén, thơ trăm thiên,

Ngủ lì quán rượu chợ Trường-yên,

Vua cho gọi tới, chẳng lên thuyền,

Còn nói : ” Làng say, ta là tiên

Trương Húc ba chén tay vẫy liền,

Tụt mũ, đầu trần trước quan trên,

Bút vung mặt giấy : mây khói chen.

Tiêu Toại năm chén là láu liên,

Nói năng hoạt bát nể bốn bên.

B.

Tri-chương cưỡi ngựa như thuyền,

Mắt mờ, rớt giếng ngủ liền đáy sâu.

Nhữ-dương ba chén mới chầu,

Xe men vừa thấy rào rào dãi ra.

Hận Tửu Tuyền chẳng bổ về,

Tả Tướng ngày hứng dám chi ngàn đồng.

Như cá voi hút trăm sông,

Nâng li thánh khoái, tự xưng người hiền.

Tông-chi đẹp tự thiếu niên,

Chén nâng, mắt trắng chỉ nhìn trời trong.

Trắng như cây ngọc gió rung,

Tô Phổ thờ Phật một lòng giới trai.

Thích trốn thiền, khi cạn chai,

Lí Bạch một đấu, trăm bài thơ ra.

Trường-an quán rượu la cà,

Thuyền vua tới đón, cứ lờ không lên.

Tự xưng mình là trích tiên,

Trương Húc ba chén, tay biên nét thần.

Trước quan, khăn tụt đầu trần,

Bút lông lướt giấy, mây vần khói lan.

Tiêu Toại năm chén nóng ran,

Ăn thông nói thạo cả bàn đều kinh.

Với người bạn thân là Trịnh Kiền :

Túy thì ca.

卷216_17 《醉時歌》杜甫

Nguyên chú : Tặng Quảng Văn bác sĩ Trịnh Kiền

[*原注 :  贈廣文館博士鄭虔 *]

Chư công cổn cổn đăng đài tỉnh,

諸公袞袞登臺省,

Quảng-văn tiên sinh quan độc lãnh.

廣文先生官獨冷.

Giáp đệ phân phân yếm lương nhục,

甲第紛紛厭粱肉,

Quảng-văn tiên sinh phạn bất túc.

廣文先生飯不足.

Tiên sinh hữu đạo xuất Hi hoàng,

先生有道出羲皇,

Tiên sinh hữu tài quá Khuất, Tống.

先生有才過屈宋.

Đức tôn nhất đại thường khảm kha,

德尊一代常轗軻,

Danh thùy vạn cổ tri hà dụng.

名垂萬古知何用.

Đỗ-lăng dã khách nhân cánh suy,

杜陵野客人更嗤,

Bi cát đoản trách mấn như ti.

被褐短窄鬢如絲.

Nhật đích thái thương ngũ thăng mễ,

日糴太倉五升米,

Thì phó Trịnh lão đồng khâm kì.

時赴鄭老同襟期.

Đắc tiền tức tương mịch,

得錢即相覓,

Cô tửu bất phục nghi.

沽酒不復疑.

Vong hình đáo nhĩ nhữ,

忘形到爾汝,

Thống ẩm chân ngô sư.

痛飲真吾師.

Thanh dạ trầm trầm động xuân chước,

清夜沈沈動春酌,

Đăng tiền tế vũ thiềm hoa lạc.

燈前細雨簷花落.

Đãn giác cao ca hữu quỉ thần.

但覺高歌有鬼神,

Yên tri ngã tử điền câu hác.

焉知餓死填溝壑.

Tương Như dật tài thân địch khí,

相如逸才親滌器,

Tử Vân thức tự chung đầu các.

子雲識字終投閣.

Tiên sinh tảo phú ” Qui khứ lai “,

先生早賦歸去來,

Thạch điền mao ốc hoang thương đài.

石田茅屋荒蒼苔.

Nho thuật ư ngã hà hữu tai,

儒術於我何有哉,

Khổng Khâu, Đạo Chích câu trần ai.

孔丘盜跖俱塵埃.

Bất tu văn thử ý thảm thảng,

不須聞此意慘愴,

Sinh tiền tương ngộ thả hàm bôi.

生前相遇且銜杯.

Giải xuôi :       Bài hát lúc say rượu.

Các ngài ngất ngưởng nơi đài, tỉnh [* Đài , tỉnh : tên các tổ chức của các cơ quan trung ương  ( thời Hán ) đài lập ra, trong  Tam đài三臺 . Coi việc dâng thư lên vua  ( thượng thư尚書 ) là Trung đài 中臺, Xét đoán việc ( ngự sử 御史 ) là Hiến đài 憲臺, Để gặp vua ( Yết giả 謁者 ) là Ngoại đài 外臺 . ( thời Đường ) dùng Tỉnh  : Trung thư tỉnh 中書省 và Môn hạ tỉnh門下省 ( lưỡng viện ), nhân viên làm việc trong đó được gọi là Các lão 閣老. Bao quát lên trên có thượng thư tỉnh尚書省. Cả cái khối này nói chung là Tam tỉnh三省. Thời trước, thượng thư tỉnh thường được đặt ngay trước cửa bắc cung vua, nên còn có tên gọi Bắc tỉnh北省 . Quán là cơ quan cho những người nằm chờ bổ nhiệm, được hưởng ít trợ cấp, như Nhà Thơ lúc đó *], Riêng thày Quảng văn một viên quan tép riu. Dinh các ngài thì tấp nập, thịt rượu ê hề, Nhà thầy Quảng văn thì bữa ăn cũng chẳng no. Đạo thày gốc từ thời Phục Hi [* Hi hoàng 羲皇 chỉ  họ Phục Hi 伏羲氏 : một vị hoàng đế thời cổ, tương truyền dạy dân làm ruộng, đánh cá, nuôi súc vật, sáng tạo ra bát quái, tạo chữ viết.*], Tài của thày vượt cả Khuất Tống [* Khuất Tống 屈宋  nói gộp cúa Khuất Nguyên 屈原 và Tống Ngọc 宋玉, hai nhà văn nổi tiếng thời Sở. Lưu Hiệp 劉勰 , 465 – 520, nhà văn học nước Lương thời Nam Bắc triều 南北朝, trong Văn tâm điêu long 文心雕龍, chương Biện tao 辨騷 : “ Tự Cửu Hoài dĩ hạ, cự niếp kì tích, nhi Khuất Tống dật bộ, mạc chi năng truy 自九懷以, 遽躡其 , 而屈 宋逸步, 莫之能追 ( Từ chương Cửu hoài  [*( Cửu hoài 九懷 : tên một chương, chương thứ 15  của  Vương Bao 王褒 trong tập Sở Từ 楚辭, kế tục dòng văn chương Khuất Nguyên mà viết ra. ) trở xuống, tiếp theo vết chân  chủ họ, hai ông Khuất Nguyên, Tống Ngọc đã ngưng nghỉ, không thể theo kịp được. ) “ . Khuất Nguyên 屈原, 343 BC – ??BC, tên Bình , còn có tên là Chính Tắc正則 tự Linh Quân 靈鈞, người nước Sở , cuối thời Chiến quốc. Sinh quán vùng Đan-dương 丹陽 ( nay là huyện Tỉ-qui 秭歸縣, Hồ-bắc. ). Từng giữ chức Tam lư đại phu 三閭大夫. Thời vua Hoài Vương 懷王 mắc lỗi và bị phóng trục lên vùng bắc Hán, bi phẫn viết ra thiên Li tao 離騷 để tỏ lòng trung trinh. Sau đó lại gọi về. Ít lâu sau lại mắc lỗi ‘ nói bừa ‘, lần này phóng trục xuống vùng nam Sở ( Giang Nam 江南 ) Quá bi phẫn nên nhảy xuống sông Mịch la 汩羅 chết chìm. Thêm các chương Thiên Vấn 天問, Cửu Chương九章, gom chung lại là Sở Từ 楚辭  Tống Ngọc  宋玉  298 BC – 222 BC , người thời Chiến quốc 戰國, nước Sở 楚國, là một nhà từ phú nổi danh. Người vùng Yên-thành 鄢城 ( nay là thị xã Nghi-thành 宜城市, tỉnh Hồ-bắc 湖北省 ). Viết nhiều bài phú có tiếng như  Cao-đường ( mô tả chuyện thần núi Vu sơn cùng Sở Tương-vương ) , Cửu biện : mô tả cảnh thu bi thiết, biện minh cho thày của mình là Khuất Nguyên . Tài nghệ cao với, tiếp tục đường truyển thống “ Sở từ “ khởi đầu từ Khuất Nguyên , nên người đời sau hay dùng cụm từ Khuất Tống 屈宋  để chỉ chung hai người và cũng hàm ý nỗi u uất của “ lời nước Sở “ *]. Đạo đức nhất đời mà luôn luôn lận đận, Chẳng biết lưu danh cho ngàn đời để làm gì. Ông nhà quê ở làng Đỗ-lăng kia [* Nhà Thơ tự ám chỉ. Đỗ-lăng 杜陵 : tên đất tại phía đông nam thành Trường-an, vào thời Tần có tên Đỗ-huyện, sau nhân vì có lăng mộ vua Hán tuyên đế nên mang tên Đỗ-lăng. Về phía đông nam Đỗ-lăng có Thiếu-lăng, đó là lăng của Hứa hậu, vợ cả nhà vua. Nhà Thơ thuộc chi nhánh họ Đỗ phòng Tương-dương 襄陽 , là hậu duệ xa cúa Đỗ Dự 杜預, gốc người vùng kinh triệu Đỗ-lăng. Nhà Thơ tự xưng là Đỗ-lăng dã lão, hay Đỗ Thiếu-lăng cũng vì theo tổ tịch. *], Trông điệu bộ lại thảm hại hơn. Áo vải vừa ngắn vừa chật, đầu bạc như tơ, Ngày ngày được hưởng năm thăng gạo từ kho Thái-thương [* Thái thương ngũ thăng mễ 太倉 升米 : năm thùng gạo của nhà nước. Tháng tám năm 753, tại Trường-an mưa nhiều gạo trở nên thiếu hụt, nhà vua phải cho xuất năm vạn thùng gạo từ kho thái thương để bán giá rẻ cho người nghèo. *], thường hay đến nhà lão Trịnh để cùng tâm sự [* khâm kì 襟期 cùng nghĩa với tâm kì 心期, khâm hoài 襟懷 : có cùng chí hướng , hoài bão, ý thích, chí thú 志趣 *]. Hễ có tiền là tìm nhau, Mua rượu chứ còn làm gì nữa. Quên cả hình hài, đến nỗi xưng mày tao với nhau, Say như chúng tôi đây thật đáng bậc thày. Đêm xuân âm thầm, lặng lẽ chuốc chén, Trước đèn mưa phùn, ngoài hiên hoa rụng. Hãy cứ hát nghêu ngao cho quỉ thần nghe, Biết đâu sau này mình cũng chết vất ngoài mương rãnh! [* câu hác 溝壑 :cũng viết là 沟壑 khe lạch trong núi, chỉ chết nơi gò hang hiểm hóc hay gặp cảnh ngộ̣ khó khăn.  Theo Tả truyện 左傳, chương Chiêu công thập tam niên 昭公十三年 : “ Tiểu nhân lão nhi vô tử, tri tễ vu câu hác hĩ 小人老而無子,知擠於溝壑矣 ( Kẻ thường dân mà không có con, hiểu rằng mình sẽ bị bỏ vào nơi hang hốc ) “ . Theo Mạnh tử 孟子, chương Đằng văn công hạ 滕文公下 :Chí sĩ bất vong tại câu hác, dũng sĩ bất vong tang kì nguyên 志士不忘在溝壑, 勇士不忘喪其元 ( Bậc chí sĩ không nề hà chết nơi gò hang, dũng sĩ không nề hà chết không còn đầu ) “ . Triệu Kì 趙岐 chú  giải : “ Quân tử cố cùng, cố thường niệm tử vô quan quách một câu hác nhi bất hận dã 君子固窮, 故常念死無棺槨沒溝壑而不恨也 ( Bậc quân tử chập nhận cảnh khó, cho nên thường nghĩ rằng dù chết không có quan quách để chôn nơi gò hang mà cũng không ân hận ) *], Kìa tài cao như [* Tư-mã *] Tương Như [* Tư-mã Tương Như 司馬 相如: ( 179  BC – 117 BC ) hiệu Trường Khanh. Gốc người đất Thục ( Thành-đô, Tứ Xuyên ), người viết phú tài ba,  đời Tây Hán. Đời vua Hán Cảnh Đế giữ chức Vũ Kị Thường Thị, sau cáo bệnh từ quan. Sau nhờ bài ‘Tử Hư phú’ mà Hán Vũ Đế ưa thích, sau dâng bài ‘ Thượng Lâm’ lại được vua mời ra làm quan , khi đi cầu công danh, có đề ở một cây cầu ‘ nếu không cưỡi xe bốn ngựa, không lại qua cầu này’. Ý nói có thành công mới qua lại cầu Là một tài tử, dùng tiếng đàn ( Khúc Phượng cầu hoàng ) mà quyến rũ được người đàn bà goá là Trác văn Quân. Sau này khi dưỡng bệnh ( bệnh tiết niệu ) Tư-mã Tương Như định cưới cô gái xóm Mậu-lăng ở Hưng-bình, Thiểm-tây, nhưng Trác văn quân ghen, Tương Như bỏ ý định đó và  cả hai về Thành-đô mở quán rượu Có 4 bài phú nổi tiếng : Tử hư phú, Thượng lâm phú, Đại nhân phú, Ai Nhị thế phú. Hai bài Trường môn phú và Mĩ nhân phú bị nghi ngờ không phải là do ông sáng tác*], còn có lúc phải đi rửa chén bát [* sau khi thành hôn với Trác văn quân, hai người mở quán rượu tại Lâm-cùng 臨邛, Thục quận 蜀郡, Văn Quân ngồi quầy coi lò hâm rượu, Tương Như rửa chén. Địch khí 滌器 : rửa sạch đồ dùng, hay chỉ chậu dùng để rửa. Theo Hán thư 漢書, chương Tư-mã tương như truyện thượng 司馬相如傳上 : “ Tương Như thân tự trứ độc tị côn , dữ dong bảo tạp tác, địch khí vu thị trung 相如 身自著犢鼻褌, 與庸保雜 , 滌器於市中 ( Tương Như trên người quấn cái khố hình mũi trâu, làm công việc vặt vãnh , rửa chén bát trong quán ) . Lưu Hiệp 劉勰 , thời Nam triều, nước Lương trong Văn tâm điêu long 文心雕龍 , chương Thì tự 時序 : “ Mãi Thần phụ tân nhi y cẩm, Tương Như địch khí nhi bị tú 買臣負薪而衣錦, 滌器而被綉 ( Mãi Thần vác củi mà sau này mặc áo gấm, Tương Như trước rửa chén mà sau có áo thêu. ) *], Nọ học thức rộng như Tử Vân [* Tử Vân 子雲 tên tự của Dương Hùng 揚雄, 53 BC – 18 BC , nhà văn học thời Tây Hán 西漢, người gốc Thành-đô. Thời trai trẻ ham làm phú, học theo Tư-mã Tương-như. Sau đổi hướng, viết Thái Huyền太玄 ( mô phỏng kinh dịch ), Pháp ngôn 法言để sánh với Luận ngữ ( sách do các học trò Khổng tử ghi chép lời thày dạy ), theo Thương Hiệt倉頡 mà soạn ra  Huấn toản 訓纂, theo Nghiêu châm 虞箴 mà soạn ra Châu châm州箴. Tham khảo Hán thư 漢書 , quyển 87, phần sau, chương Dương Hùng liệt truyện tán 揚雄列傳贊 : Vào năm Hùng hơn 40 tuổi, rời Thục lên kinh đô, Vương Âm 王音 là quan đại tư mã xa kị tương quân 司馬車騎將軍 thấy văn của Hùng có phong cách, bèn cử làm nhân viên trong văn phòng, chờ chiếu vua bổ nhiệm. Hơn măm sau dâng bài phú Vũ liệp 羽獵賦, bổ làm quan, chức cấp sự hoàng môn 給事黃門 , sánh cùng Vương Mãng 王莽 Lưu Hâm 劉歆 . Đầu đời vua Ai đế  哀帝 cùng làm quan với Đổng Hiền 董賢. Vào những năm trong triều vua Thành đế 成帝 ( 32 BC – 7 BC ) , Ai đế 哀帝 ( 6 BC – 2 BC ), Bình đế 平帝 ( 1 BC – 4 AD ) cùng giữ chức tam công 三公 với Vương Mãng và Đổng Hiền, quyền khuynh át cả vua, hanh thông không ngưng, nên suốt trong ba đời vua, Hùng không rời chức quan. Kịp tới khi Vương Mãng chiếm ngôi vua, nhiều người dùng giấy khen để khoe mong được bổ vào chức vị cao, Hùng không làm thố, cùng các kì cựu giữ nguyên chực đại phu, dửng dưng với danh lợi.  Hùng ham cái học thời cổ, vui với đạo, ý chỉ mong có tác phẩm để lại đời sau. Hùng cho trong các kinh, kinh Dịch 易經 là quan trọng, nên viết Thái huyền 太玄, trong các truyện , Luận ngữ 論語 là quan trọng, nên viết Pháp ngôn  法言, sách về lịch sử ( sử thiên 史篇), có Thương hiệt 倉頡 là chân thành, nên viết Huấn toán 訓纂, về châm không có cái nào hay hơn Ngu châm 虞箴 , nên viết Châu châm 州箴 . Phú không bài nào thâm  thúy hơn Li tao 離騷, nên quay  về mà phổ biến, Văn  ( từ  ) không bài nào chải chuốt như của Tương Như 相如, nên viết bốn bài phú : dùng bản gốc cúa Tương Như mà châm chước,  dùng cái đó làm đà mà tiến lên. Cần nội dung bản văn, không cần văn vẻ, nên người đương thời không mấy chú ý, nhưng được hai vị là Lưu Hâm 劉歆 và Phạm Thuân 範逡 kính trọng, mà Hoàn Đàm 桓譚 cho là tuyệt luân *], rút cục cũng nhảy lầu [* đầu các 投閣 : nhảy lầu . Theo Hán thư 漢書, Dương Hùng truyện tán 揚雄傳贊:  Dương Hùng khi đang soạn sách tại gác Thiên-lộc 天祿, thì Lưu Phân 劉棻 người từng tới nhờ Dương Hùng giải thích chữ viết thời cổ. Lúc đó Lưu Phân bị Vương Mãng 王莽 ngờ có tội. Khi viên cai ngục tới bắt, Dương Hùng sợ không thoát, nên nhảy từ trên lầu xuống và chết. Vương Mãng nghe tin Dương Hùng nhảy lầu chết, mới hỏi : “ Hùng không liên quan, sao lại tới chỗ đó? ( Hùng tố bất dữ sự , hà cố tại thử ? 雄素不與 ,何故 在此)”. Sau có chiếu bãi án, khiến dân nơi thủ đô phân vân truyền nhau lời than : “ Duy tịch mịch, tự đầu các. Viên thanh tĩnh, tác phù mệnh 惟寂寞,自投 . 爰清靜,作符命 ( vốn vô can, tự nhảy lầu. Giữ thanh tĩnh, theo mệnh trời ) “. Nhan sư Cổ 顏師古, người đời Đường giái thích câu đó như sau : “ Câu này lấy gốc trong tập “ Giải trào “ của Dương Hùng, giống như câu sấm vậy. Sau này cụm từ chỉ việc không may bất ngờ sảy ra. *]. Thầy đã sớm học bài phú ” Về đi thôi ” [* Qui khứ lai 歸去來 chỉ bài Qui khứ lại từ 歸去來辭 của Đào Tiềm 陶潛 tự Uyên-minh 淵明) 365 –  427, người đời Đông Tấn, quê ở Sài-tang 柴桑, Tầm-dương 潯陽. Trong bài có câu “ Qui khứ lai hề, điền viên tương vu hồ bất qui? Kí tự dĩ tâm vi hình dịch, hề trù trướng nhi độc bi 歸去來兮, 田園將蕪胡不歸?既自以心為形役, 奚惆悵而獨悲 ( Về đi thôi, sao chẳng về, Ruộng vườn hoang vắng làm lơ sao đành. Hại lòng chính bởi thân mình, Sao còn bứt rứt thêm tình sầu bi ) *], Ruộng đá lều tranh siêu vẹo, rêu xanh nham nhở. Thôi đạo nho có ích gì cho ta đâu, Khổng Khâu [* Khổng Khâu 孔丘 được tôn làm thánh, ông thày muôn đời, mà sau này gọi là Nho học  *] hay Đạo Chích [* Đạo Chích 盜跖 , người thời Xuân thu, chuyên nghề trộm cắp, lại là em của Liễu hạ Huệ柳下惠 , một người hiền được Khổng Khâu ca ngợi. *] cũng chết thành tro bụi cả rồi. Đừng nên nói chuyện ấy cho thêm đau lòng, Còn sống còn gặp nhau đây thì cứ say đi !

Dịch vần:

Đài tỉnh vênh vang các vị ngồi,

Thày Quảng-văn kia chức quan ôi.

Người ta ê hề xôi với thịt,

Quảng-văn may ra đủ bữa thôi.

 

Đạo thày truyền giữ từ Phục Hi,

Khuất, Tống hai người còn thua tài.

Đạo đức thế sao mà lận đận,

Lưu danh thiên cổ để cho ai.

 

Đỗ-lăng quê kệch đáng cười hơn,

Tóc bạc áo thô ngắn cũn cỡn.

Kho vua cho ngày gạo năm thăng,

Tới nhà Quảng-văn để nói dỡn.

 

Có tiền là gặp nhau,

Mua rượu chứ còn đâu.

Bọn mình nhậu, tay tổ,

Quên đời xưng mày tao.

 

Đêm xuân âm thầm chuốc rượu say,

Đèn mờ mưa bụi, cánh hoa bay.

Hãy cứ hát vang cùng ma quỉ,

Chết rấp ngoài đường nào ai hay.

 

Tài cỡ Tương Như còn rửa chén,

Giỏi sánh Tử Vân, lầu lăn quay.

Thày sớm ngâm bài “ Qui khứ lai”,

Ruộng sỏi nhà tranh rêu bám đầy.

 

Đạo Nho giúp gì cho ta thay,

Khổng, Chích rồi ra cũng bụi bay.

Chuyện ấy nói chi cho đau đớn,

Còn sống gặp đây hãy cứ say.

II. Và Trà.

茶王

tra 2

Tẩu bút tạ Mạnh gián-nghị kí tân trà.

卷388_10 《走筆謝孟諫議寄新茶》盧仝

Nhật cao trượng ngũ thụy chính nùng,

日高丈五睡正濃,

Quân tương đả môn kinh Chu công.

軍將打門驚周公。

Khẩu ngôn gián-nghị kí thư tín,

口雲諫議送書信,

Bạch quyến tà phong tao đạo ấn.

白絹斜封三道印。

Khai giam uyển kiến gián-nghị diện,

開緘宛見諫議面,

Thủ duyệt nguyệt đoàn tam bách phiến.

手閱月團三百片。

Văn đạo tân niên nhập sơn lí,

聞道新年入山裏,

Trập trùng kinh đông xuân phong khỉ.

蟄蟲驚動春風起。

Thiên tử tứ thường Dương-tiện trà,

天子須嘗陽羨茶,

Bách thảo bất cảm tiên khai hoa.

百草不敢先開花。

Nhân phong ám kết châu bài lỗi,

仁風暗結珠琲瓃,

Tiên xuân tụ xuất hoàng kim nha.

先春抽出黃金芽。

Trích tiên bồi phương toàn phong lí,

摘鮮焙芳旋封裹,

Chí tinh chí hảo thả bất xa.

至精至好且不奢。

Chí tôn chi dư hợp vương công,

至尊之餘合王公,

Hà sự tiện đáo sơn nhân gia.

何事便到山人家。

Sài môn phản quan vô tục khách,

柴門反關無俗客,

Sa mạo lung đầu tự tiên khiết.

紗帽籠頭自煎吃。

Bích vân dẫn phong xuy bất đoạn,

碧雲引風吹不斷,

Bạch hoa phù quang ngưng uyển diện.

白花浮光凝碗面。

Nhất uyển, hầu vẫn nhuận,

一碗喉吻潤,

Lưỡng uyển phá cô muộn.

兩碗破孤悶。

Tam uyển sưu khô trường,

三碗搜枯腸,

Duy hữu văn tự ngũ thiên quyển.

唯有文字五千卷。

Tứ uyển phát thanh hãn,

四碗發輕汗,

Bình sinh bất bình sự,

平生不平事,

Tận hướng mao khổng tán.

盡向毛孔散。

Ngũ uyển cơ cốt thanh,

五碗肌骨清,

Lục uyển thông tiên linh.

六碗通仙靈。

Thất uyển khiết bất đắc.

七碗吃不得也,

Duy giác lưỡng dịch tập tập thanh phong sinh,

唯覺兩腋習習清風生。

Bồng-lai sơn tại hà xứ?

蓬萊山,在何處。

Ngọc-xuyên tử thừa thử thanh phong dục qui khứ.

玉川子,乘此清風欲歸去。

Sơn thượng quần tiên tư hạ thổ,

山上群仙司下土,

Địa vị thanh tao cách phong vũ.

地位清高隔風雨。

An đắc tri bách vạn ức thương  sinh mệnh,

安得知百萬億蒼生命,

Trụy tại điên nhai thụ tân khổ.

墮在巔崖受辛苦。

Tiện vị gián-nghị vấn thương sinh,

便為諫議問蒼生,

Đáo đầu hoàn đắc tô tức phủ?

到頭還得蘇息否。

Giải xuôi: Viết vội để cám ơn quan gián-nghị họ Mạnh đã cho trà mới.

Mặt trời lên cao đến trượng rưỡi rồi mà còn ngủ say, lính đập cửa làm tỉnh mộng [* như Khổng tử đang nằm mộng thấy Chu công  *]. Hắn thưa có thơ của quan gián nghị gửi đến, gói bằng lụa trắng có ba dấu niêm khằn. Mở gói ra tưởng như có quan gián-nghị ngay trước mắt, tay nâng niu ba trăm bánh trà tròn như mặt trăng. Nghe nói đầu năm mới vào trong núi, đó là lúc sâu đất ngọ ngoạy, gió xuân nổi lên. Nay vua ban thưởng cho trà Dương-tiện, [* trà này quí  *] vì trăm loài cây không dám ra hoa trước nó, gió lành ngầm kết hai trăm hạt ngọc. Trước khi xuân về, mầm nó nẩy tươi như nạm vàng. Hái lúc còn tươi, ướp giữ lấy hương thơm và đem gói kĩ lại. Rất tinh khiết, ngon mà không cầu kì, ơn thừa của nhà vua chỉ dành cho các người trong tôn thất thôi, cớ sao nay nó lại đến nhà người ở xó núi [* là tôi đây  *]? Đóng cổng tre lại để không tiếp khách tục, lấy khăn xếp ra đội, tự đun nước để pha trà. [* Trong tách trà  *] Như có mây biếc được gió đưa đi không dứt, ánh sáng lung linh, màu hoa trắng tụ lại trên miệng tách. Uống một chén, môi cổ trơn tru, uống hai chén nổi buồn cô đơn tan biến. Uống ba chén trút hết nỗi lòng, chỉ có chữ nghĩa nơi năm ngàn quyển sách. Uống chén thứ tư thì mồ hôi toát ra, nỗi bất bình trong đời theo lỗ chân lông mà tiêu tán. Uống chén thứ năm, da xương trong sạch, tới chén thứ sáu như được lên tiên. Đến chén thứ bảy hết nhắp nổi, chỉ cảm thấy từ hai bên nách luồng gió phần phật toả ra. Núi Bồng-lai ở nơi nào, để Ngọc-xuyên-tử [*  hiệu của Nhà Thơ  *] cưỡi làn gió mát kia đi tới đó. Các tiên trên núi xa cõi trần ai, địa vị thanh cao, xa vời mưa gió. Làm sao mà biết được số phận cũa trăm ngàn vạn con người, đang rơi xuống vực thẳm với muôn ngàn đau khổ. Xin vì quan gián nghị mà hỏi rằng dân chúng cuối cùng có được sống đầy đủ hay không?

Dịch vần :

Trời lên cao mình vẫn còn ngáy,

Lính tới đập cửa kêu ông dậy.

Thưa : Gián-nghị có gửi một bao,

Ba dấu niêm khằn, lụa trắng phau.

Mở gói, tưởng như người ngay bên,

Tay nâng ba trăm miếng trà tròn.

Nghe nói năm mới vào trong núi,

Côn trùng xao động, gió xuân nổi.

Trà Dương-tiên, nhà vua ban lộc,

Trăm cây chẳng dám ra hoa trước.

Gió lành ngầm kết thành ngọc châu,

Trước xuân, mầm non mới bắt đầu.

Hái về, hương thơm cố ủ kĩ,

Rất nhẹ rất khéo công chẳng nề.

Đồ vua ăn thừa dành quan lớn,

Có đâu lại tới kẻ nhà quê!

Cổng tre đóng lại ngăn khách tục,

Khăn the trùm đầu, tự đun nước.

Mây biếc gió lùa phun không ngừng,

Hoa trắng nổi sáng, miệng chén ngưng.

Một chén : môi họng trơn,

Hai chén : buồn tan cơn.

Ba chén : thông đường ruột,

Chỉ thấy quyển văn đến năm ngàn.

Bốn chén : mồ hôi toát,

Chuyện đời bực tức theo lỗ chân lông mà thoát.

Năm chén : da xương trong,

Sáu chén : thần tiên thông.

Bảy chén nuốt hết xuống,

Chỉ thấy hai nách phần phật nổi cơn giông.

Bồng-lai chốn núi ở đâu,

Để Ngọc-xuyên-tử cưỡi gió đi vào cõi tiên.

Các tiên trên núi hãy xuống đất,

Ở nơi cao gió mưa không hắt.

Làm sao biết được trăm vạn ức con người,

Gục dưới hố sâu, khổ chồng chất.

Nay thay gián-nghị hỏi về dân,

Chừng nào mới no cơm ấm cật?

Nhân ngày xuân, xin chúc thành viên hội Cao Niên: Niên càng Cao.

Phạm Doanh